Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quân khu 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.99 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH NGHĨA

CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUÂN KHU 5

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH NGHĨA

CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT THEO PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUÂN KHU 5

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

:

60.38.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Lê Đình Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CHUNG
CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................ 6
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ........................... 6
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ... 7
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở
hữu có tính chiếm đoạt .................................................................................... 13
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHIẾM ĐOẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở CÁC TÒA ÁN
QUÂN SỰ QUÂN KHU 5 ............................................................................. 21

2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt ................................................................................................ 21
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt ................................................................ 30
2.3. Những hạn chế vướng mắc trong áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và nguyên nhân ...... 57
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT ................................... 66
3.1. Các quan điểm yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
trong hoạt động xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở Tòa
án quân sự Quân khu 5 .................................................................................... 66
3.2. Khái quát các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo BLHS
năm 2015 ......................................................................................................... 67
3.3. Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng................ 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL

: Áp dụng pháp luật.

BLHS

: Bộ luật hình sự.

CTTP

: Cấu thành tội phạm.


CĐTS

: Chiếm đoạt tài sản

QPPL

: Quy phạm pháp luật.

TNHS

: Trách nhiệm hình sự.

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao.
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

2.2.

2.3.


Phân loại tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
căn cứ vào mặt khách quan của tội phạm
Số vụ án và bị cáo Tòa án quân sự Quân khu 5 thụ lý
giải quyết từ 2012 – 2016
Số vụ án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị của Tòa
án quân sự Quân khu 5 giai đoạn 2012 – 2016

Trang

24

31

32

Số vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt so với
2.4.

tổng số các vụ án Tòa án quân sự Quân khu 5 giải

33

quyết giai đoạn 2012 – 2016
Số vụ án các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
2.5.

do Tòa án quân sự Quân khu 5 xét xử sơ thẩm và

34


phúc thẩm trong giai đoạn 2012- 2016
Tình hình xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở
2.6.

hữu có tính chiếm đoạt của Tòa án quân sự Quân khu

34

5 giai đoạn 2012 – 2016
Tình hình xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu có tính
2.7.

chiếm đoạt của Tòa án quân sự Quân khu 5 giai đoạn
2012 – 2016

35


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tội xâm phạm sở hữu nói chung, các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt tài sản (sau đây chúng tôi gọi là các tội chiếm đoạt tài sản) nói
riêng là một trong những nhóm tội được quy định sớm nhất trong pháp luật
hình sự nước ta. Bộ luật hình sự 1985 (với 4 lần sửa đổi) và Bộ luật hình sự
hiện hành năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đã quy định tương đối đầy đủ
cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi xâm phạm sở hữu. Tuy
nhiên, do thiếu thống nhất về lý luận, nên trong hoạt động lập pháp hình sự,
trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về định tội danh, áp dụng hình phạt
còn gặp nhiều bất cập, vướng mắc cần được nghiên cứu, giải quyết.

Trải qua hơn 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
vẫn còn tồn tại những biểu hiện tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị trường
mang lại như sự phân hóa giàu nghèo, các tệ nạn xã hội gia tăng là cơ sở phát
sinh các loại tội trong đó có tội trộm cắp tài sản, tội cướp tài sản, tội cướp giật
tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài
sản… những loại tội này xảy ra khá phổ biến và phức tạp, với tính chất, mức
độ ngày càng nguy hiểm, đã gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Mặc dù, Đảng và Nhà nước ta đã có những bước tiến mới trong công cuộc
phòng, chống tội phạm, nhưng tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt vẫn có chiều hướng gia tăng về mức độ và nghiêm trọng về tính
chất.
Quân khu 5 quản lý địa bàn 11 tỉnh, thành phố, gồm: Thành phố Đà
Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận, Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Kon Tum. Tình hình các tội xâm
phạm sở hữu thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan pháp luật trong
Quân đội cũng diễn biến phức tạp so với tình hình chung của cả nước. Việc
1


ADPL trong hoạt động xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
của Tòa án quân sự 2 cấp Quân khu 5, mặc dù đã đem lại kết quả nhất định
nhưng vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tất cả những điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu làm rõ những dấu hiệu
cấu thành tội phạm cũng như chế tài của các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, đánh giá thực tiễn xét xử, trên
cơ sở đó tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự để xử lý loại tội phạm này. Vì lý do đó, tác giả chọn Đề tài:
“Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn Quân khu 5” làm Luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Gần đây, trên các báo, tạp chí, công trình nghiên cứu khoa học, luận
văn của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này như: “Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự phần các tội phạm, tập 2, các tội xâm phạm sở hữu” của Th.s
Đinh Văn Quế, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2003; “Các yếu tố khách quan của các
tội chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ của Phạm
Quốc Thuần,Trường Đại học luật TP.HCM, 2008; “Các tội xâm phạm sở hữu
trong BLHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009” của Mai Bộ, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010; “Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm,
chương V các tội xâm phạm sở hữu” của tập thể tác giả do Gs.Ts Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2014; “Các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam”, Luận văn
thạc sĩ của Trần Thị Phượng, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015;
“Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Bình Phước”, luận văn thạc sĩ của Lê Văn
Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2017. Những bài viết, công trình nghiên
cứu, luận văn tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ, có hệ thống về
2


các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ góc nhìn thực tiễn ở Quân khu 5.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn ADPL hình sự về các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo BLHS Việt Nam năm 1999, được sửa
đổi bổ sung năm 2009 của Tòa án quân sự 2 cấp Quân khu 5, đưa ra các giải
pháp đảm bảo áp dụng đúng đắn BLHS về loại tội phạm này ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đề ra các nhiệm vụ cụ thể cần

giải quyết như sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận; phân tích làm sáng tỏ những dấu hiệu
pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt quy định tại Chương
XIV, BLHS Việt Nam năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
- Khái quát quá trình lập pháp hình sự về các tội xâm phạm sở hữu giai
đoạn từ năm 1945 đến BLHS năm 2015.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt của Tòa án quân
sự 2 cấp Quân khu 5.
- Đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định của
BLHS về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận, quy định của
BLHS về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đọat và thực tiễn xét xử của
Tòa án quân sự 2 cấp Quân khu 5 về các tội phạm này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
3


danh, quyết định hình phạt đối với các xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
dưới góc độ Luật hình sự Việt Nam trên địa bàn Quân khu 5 trong thời gian 5
năm (2012 – 2016).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một cách linh hoạt và đan
xen các phương pháp nghiên cứu của khoa học Luật hình sự như: Phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
so sánh và khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã đánh giá khái quát quá trình hình thành và hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt qua các giai đoạn phát triển của đất nước, làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp
lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo quy định
tại Chương XIV BLHS Việt Nam năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009
(nay được quy định tại Chương XVI Bộ luật hình sự năm 2015).
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá hoạt động ADPL hình sự để xử lý các tội xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt của Tòa án quân sự 2 cấp Quân khu 5, từ đó đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả ADPL hình sự để xử lý các tội xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này trên địa bàn Quân khu 5 nói riêng và các địa phương khác nói
chung trong thời gian tới.
4


7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, danh
mục các chữ viết tắt và danh mục các bảng biểu, Luận văn có kết cấu gồm 03
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý chung của các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt và thực tiễn áp dụng ở các Tòa án quân sự Quân khu 5.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm áp dụng
pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.

5


CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CHUNG CỦA
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
Theo Điều 8 BLHS 1999, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế…”. Tuy nhiên, trong BLHS lại không có khái niệm năng lực trách nhiệm
hình sự; mà chỉ có quy định về “Tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự”. Theo đó, người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự cần có đủ hai điều kiện: 1/ mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác; 2/
bệnh đó làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 14 BLHS 1999 đã quy
định khá rõ ràng về điều này.
Vì vậy, theo chúng tôi khái niệm tội phạm tại Điều 8 BLHS, coi chủ thể
là người có năng lực trách nhiệm hình sự là thiếu chính xác, không đảm bảo
tính hệ thống trong các quy định của BLHS. Có lẽ chính xác hơn phải thể hiện
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người không ở trong tình
trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”.
Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tại Chương XIV từ Điều 133 đến Điều
140 BLHS. Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những tội

xâm phạm sở hữu bằng việc chiếm đoạt nên trong cấu thành tội phạm của
những tội này có dấu hiệu chiếm đoạt. Trong đó, “chiếm đoạt là hành vi cố ý

6


chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành
tài sản của mình”. Hành vi chiếm đoạt này được thực hiện bằng các thủ đoạn
khác nhau như dùng vũ lực, lén lút, công khai, gian dối… Như vậy, yếu tố thể
hiện được bản chất của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt tài sản
chính là yếu tố chiếm đoạt.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi “Các tội xâm phạm sở hữu có
tính chiếm đoạt là những hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác được quy
định trong Bộ luật hình sự do người không ở trong tình trạng không có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định được thực hiện một cách cố ý
xâm hại quyền sở hữu tài sản được ghi nhận và bảo vệ”.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể chung của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là
quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội có nội dung là quyền sở
hữu của chủ tài sản (gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt) đối với tài sản. Các tội xâm phạm sở hữu nói chung có thể xâm phạm
một hay nhiều quyền thuộc quan hệ sở hữu đó. Ví dụ, tội sử dụng trái phép tài
sản chỉ xâm phạm quyền sử dụng tài sản. Tuy nhiên, các tội xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt bao giờ cũng đồng thời xâm phạm cả các quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Bên cạnh quan hệ sở hữu là khách thể bắt buộc của tất cả các tội xâm
phạm sở hữu, các tội chiếm đoạt tài sản còn xâm phạm đến các khách thể
khác, nhất là xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác, trật tự an toàn

xã hội…; các khách thể đó có thể là khách thể chính, có thể là khách thể phụ.
Ví dụ: Tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt
tài sản, ngoài quyền sở hữu, còn xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, tự do
của người khác; các tội như trộm cắp tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản có
7


yếu tố hành hung, cướp giật tài sản cũng xâm phạm thêm khách thể là sức
khoẻ, thậm chí là tính mạng của người khác… Đây là những trường hợp
nhiều quan hệ xã hội đều là khách thể trực tiếp của tội phạm vì chúng đều thể
hiện bản chất và tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm.
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt là
tài sản. Theo quy định của Bộ luật dân sự, tài sản bao gồm vật có giá trị, tiền,
giấy tờ trị giá , tội cướp giật tài sản được quy định tại điều 136 BLHS nhưng
69


điều luật lại không miêu tả cụ thể hành vi thuộc dấu hiệu khách quan của tội
phạm dẫn đến sự nhầm lẫn trong việc định tội danh. Trong khoa học pháp lý,
hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản có hai đặc điểm: Một là, tính
công khai của hành vi chiếm đoạt, vì người phạm tội không che dấu hành vi
của mình cũng như không che dấu tính trái pháp luật của hành vi; hai là, tính
nhanh chóng của hành vi CĐTS để loại trừ sự cản trở của chủ sở hữu tài sản
khi bị phát hiện.Vì vậy, theo tác giả sửa đổi Điều 136 BLHS theo hướng như
sau:
“Điều 136. Tội cướp giật tài sản
1. Người nào chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai,
nhanh chóng tẩu thoát thì…..”
Thứ ba, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS, điều
luật cũng không quy định cụ thể hành vi khách quan. Sở dĩ như vậy là do nhà

làm luật cho rằng khái niệm trộm cắp tài sản từ xưa đến nay vẫn được hiểu
thống nhất về mặt lý luận và thực tiễn là hành vi lén lút nhằm CĐTS người
khác. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót trong việc định tội
danh đối với tội này. Vì vậy, để thống nhất về kỹ thuật lập pháp cũng như tính
minh bạch của pháp luật, tác giả cho rằng cần sửa đổi Điều 138 BLHS theo
hướng :
“Điều 138. Tội trộm cắp tài sản:
1. Người nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, thì….”
Thứ tư, sửa đổi tình tiết định khung tăng nặng của Điểm đ Khoản 2
Điều 138 BLHS “tội trộm cắp tài sản” quy định tình tiết định khung tăng nặng
“hành hung tẩu thoát”. Đây là tình tiết mà xét về tâm lý của tội phạm, người
nào khi bị phát hiện và bắt giữ họ sẽ có những hành vi kháng cự nhằm chạy
thoát, không ai đứng lại để bị bắt. Vì vậy, hành vi “hành hung tẩu thoát” được
xem là bản năng của con người, không nên xem là tình tiết tăng nặng TNHS
áp dụng đối với các tội trên.
70


Đối với các tội CĐTS có quy định tình tiết định khung tăng nặng phạm
tội “đối với nhiều người ”, BLHS cần sửa đổi theo hướng cụ thể hơn. Bởi
nhiều người ở đây được hiểu là từ hai người trở lên, vì vậy có thể thay thế
cụm từ “đối với nhiều người” thành “từ 02 người trở lên”. Đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt quy định mức định lượng tương đối như
các mức: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” cần được quy định cụ thể hoặc hướng dẫn
bằng các văn bản pháp luật cụ thể.
Đối với tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS (Điều 140 BLHS), việc quy định
hành vi “ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản” (Điểm a Khoản 1) là lạm dụng tín nhiệm CĐTS

dường như không chính xác, vì đây có thể là một cách thức lừa đảo cụ thể
trong trường hợp có thủ đoạn gian dối. Mặt khác, việc “bỏ trốn” theo quy
định nêu trên có thể là hệ quả của các hành vi gian dối CĐTS trước đó và
cũng có thể là sự vắng mặt hợp pháp để đi nơi khác làm ăn, kiếm tiền trả nợ
hoặc nhiều lý do cá nhân khác của người đã vay hoặc mượn tài sản nhưng
chưa thể hiện rõ mục đích CĐTS. Trong trường hợp này, nếu khởi tố người
nhận được tài sản theo Điều 140 BLHS là đã hình sự hóa một quan hệ dân sự,
vì hành vi này chỉ là vi phạm nghĩa vụ về hợp đồng dân sự hoặc hợp đồng
kinh tế mà thôi. Tương tự, quy đinh hành vi “Vay, mượn, thuê tài sản của
người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp
đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản” (Điểm b Khoản 1) là lạm dụng tín nhiệm CĐTS là
không rõ ràng. Trong trường hợp này, nếu mục đích sử dụng bất hợp pháp tài
sản có trước thì hành vi phải xác định là lừa đảo CĐTS, nếu mục đích sử dụng
bất hợp pháp tài sản có sau, dường như đây không phải là hành vi CĐTS, bởi
không có sự cố ý chiếm đoạt mà chỉ cố ý sử dụng vào mục đích bất hợp pháp
71


dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản. Để khắc phục sự vướng mắc trên, đề nghị
mở rộng quy định của tội lừa đảo CĐTS quy định tại Điều 139 BLHS năm
1999. Theo đó, tội phạm này sẽ bao gồm cả một số hành vi CĐTS hiện quy
định trong tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS theo quy định tại Điều 140 BLHS
như đã phân tích ở trên. Sau khi đã có sự điều chỉnh như vậy, có thể bỏ tội
lạm dụng tín nhiệm CĐTS quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 cho phù
hợp với bản chất thực tế của hành vi này do chỉ còn là các quan hệ dân sự,
thương mại vay, mượn, thuê tài sản… Việc xử lý giải quyết các vụ việc lúc đó
được thực hiện thông qua quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Quan hệ
pháp luật hình sự chỉ đặt ra bằng việc xem xét truy cứu TNHS về tội không
chấp hành án quy định tại Điều 304 BLHS năm 1999 khi bên có nghĩa vụ cố

ý không thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.
3.3.1.2. Hoàn thiện chế tài
Các quy định về hình phạt trong BLHS năm 1999 đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt dù có nhiều thay đổi tích cực, nhưng vẫn còn
những tồn tại, hạn chế nhất định. Nhu cầu hoàn thiện chế tài các quy phạm
quy định tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt cũng bắt nguồn từ chính
những tồn tại, hạn chế nhất định của các quy định này trong pháp luật hình sự
của nước ta.
Thực tiễn xét xử các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt đặt ra nhu
cầu hoàn thiện chế tài áp dụng sau đây:
Hầu hết các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thực hiện vì động
cơ vụ lợi, nhưng trong chế tài áp dụng đối với một số tội này không quy định
hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Điều đó cho thấy nhà làm luật
chưa thấy hết vị trí, vai trò và tác dụng của hình phạt tiền đối với mục đích
giáo dục, cải tạo người phạm tội. Mặt khác, việc không quy định hình phạt
tiền với tư cách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
72


chiếm đoạt đã làm mất cân đối hệ thống hình phạt, góp phần làm tăng tình
trạng quá tải trong các trại giam. Vì vậy, trên tinh thần của Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” là “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”, tác giả kiến nghị cần quy
định hình phạt tiền áp dụng là hình phạt chính trong chế tài khung cơ bản đối
với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt sau: Tội cướp giật tài sản; tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản; tội trộm cắp tài sản; tội lừa đảo CĐTS; tội lạm

dụng tín nhiệm CĐTS.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, việc
tồn tại hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính hay hình phạt bổ sung có
ý nghĩa rất quan trọng vì đối với các tội phạm mà mục đích người phạm tội
hướng tới là lợi ích kinh tế. Biện pháp trừng phạt có tính chất kinh tế đối với
hành vi phạm tội của họ sẽ tước bỏ khả năng, cơ hội tái phạm tội của họ; tạo
điều kiện để bản thân người phạm tội có khả năng tiếp tục lao động khắc phục
hậu quả của tội phạm đồng thời giúp Nhà nước giảm chi phí trong công tác thi
hành án phạt tù tại các trại giam.
Tuy nhiên, để áp dụng có hiệu quả hình phạt tiền trên thực tế thì BLHS
cần bổ sung thêm các điều quy định về việc áp dụng hình phạt tiền. Cụ thể
cần khắc phục khoản 1 điều 30 BLHS theo hướng: “Phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính đối với các trường hợp người phạm tội ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng do Bộ luật này quy định”. Ngoài ra cần bổ sung quy định:
“Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án
quyết định trong bản án”. Quy định này có ưu điểm là tạo điều kiện thuận lợi
cho người bị kết án nếu khả năng kinh tế chưa cho phép thì họ có thể nộp tiền
phạt nhiều lần mà không cần phải nộp ngay một lần. Điều này thể hiện chính
73


sách nhân đạo của Nhà nước ta trong xử lý tội phạm. Tuy nhiên, quy định này
cũng dẫn tới hiện tượng một số người phạm tội lạm dụng, cố tình chây ỳ, dây
dưa không chịu nộp tiền phạt làm cho thời gian thi hành án kéo dài gây khó
khăn cho hoạt động của cơ quan thi hành án, nhà nước khó thu hồi tiền phạt,
ảnh hưởng đến hiệu lực của pháp luật, giảm niềm tin của nhân dân vào hiệu
lực pháp lý của nhà nước. Vì vậy, BLHS cần quy định các chế tài áp dụng đối
với trường hợp người phạm tội cố tình không chịu nộp tiền phạt, chẳng hạn
quy định: “Trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật,
nếu người bị kết án cố tình không chấp hành hình phạt tiền thì hình phạt tiền

chuyển thành hình phạt tù có thời hạn nếu đó là hình phạt chính”.
Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt thể hiện chính sách nhân
đạo của nhà nước ta đối với người phạm tội. Đây là hình phạt nặng hơn hình
phạt tiền nhưng nhẹ hơn hình phạt tù. Hình phạt này được quy định rất hạn
chế trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt (03/8 tội danh) và cũng
ít được áp dụng trong thực tế. Nguyên nhân của việc hạn chế áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt là do những bất cập trong việc quy định của BLHS đối với hình phạt này.
Những bất cập đó cần khắc phục như sau:
Một là quy định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với tư cách
là chế tài lựa chọn với hình phạt tù trong một số tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt như trộm cắp tài sản, công nhiên CĐTS. Đồng thời, để tránh
trường hợp người bị kết án cố tình không chấp hành án cải tạo không giam
giữ thì cần quy định thêm chế tài Tòa án quyết định chuyển hình phạt này
thành hình phạt tù có thời hạn theo tỷ lệ cứ 3 ngày cải tạo không giam giữ
bằng 01 ngày tù nhằm tăng tính cưỡng chế và ý nghĩa răn đe, phòng ngừa của
hình phạt này.
Hai là quy định cụ thể về xác định thời điểm chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên trong
74


trường hợp có hình phạt cải tạo không giam giữ.
BLHS 1999 cũng như BLHS 2015 quy định khoảng hình phạt giữa
mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù là quá rộng. Ưu điểm của quy
định này tạo ra khả năng lựa chọn cho cơ quan tiến hành tố tụng có điều kiện
cân nhắc những tình tiết, hoàn cảnh của từng trường hợp phạm tội cụ thể để
quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Tuy nhiên, quy định này sẽ dẫn
đến sự tùy nghi trong việc áp dụng pháp luật cũng như việc không thống nhất
áp dụng hình phạt này của các Tòa án, dẫn đến giảm hiệu quả của hình phạt.

Vì vậy, việc thu hẹp khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối đa trong một
số điều luật có khoảng cách hình phạt tù quá rộng để tạo điều kiện cho các cơ
quan tiến hành tố tụng vận dụng được dễ dàng, chính xác là cần thiết.
Trong tình hình áp dụng hình phạt tù quá phổ biến như hiện nay thì
việc BLHS quy định hình phạt tù là hình phạt lựa chọn đối với những tội nhẹ
chính là yếu tố tạo ra áp lực đối với Toà án khi cân nhắc áp dụng hình phạt tù
hay hình phạt khác nhẹ hơn đối với người phạm tội. Do vậy, cần thay thế quy
định hình phạt tù đối với các tội phạm có tính nguy hiểm cho xã hội không
lớn bằng các hình phạt không tước tự do ở cấu thành cơ bản của điều luật
nhằm tăng khả năng áp dụng các hình phạt này.
3.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
3.3.2.1. Nâng cao nhận thức về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm
đoạt
Phối hợp với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và thường xuyên xét xử lưu động các vụ
án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt để nâng cao nhận
thực pháp luật cho toàn xã hội.
Cần mở các lớp tập huấn chung và tập huấn chuyên sâu những điểm
mới của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt cho
75


đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm.
3.3.2.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật, xây dựng án lệ
Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành BLHS, BLTTHS nói
chung và các điều luật về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói
riêng.
Thông qua thực tiễn hoạt động xét xử, TANDTC giải đáp những vướng
mắc của các Tòa án cấp dưới về đường lối xét xử tội phạm cụ thể hoặc việc

vận dụng quy phạm pháp luật để các Tòa án cấp dưới nghiên cứu rút kinh
nghiệm trong xét xử, có thể coi như là án lệ, dù đó chưa phải là một quy định
bắt buộc, nhưng có tính định hướng để các Tòa án cấp dưới vận dụng thống
nhất trong việc xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án về các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng tương tự.
3.3.2.3. Nâng cao năng lực, phẩm chất Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm
Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ Điều
tra viên, Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ
án về tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng.
Đào tạo các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên với trình độ nhận
thức pháp luật cao, hiểu biết một cách đúng đắn và sâu sắc các quy định của
pháp luật, cũng như đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của công dân.
Cơ quan điều tra phải thu thập chứng cứ ban đầu đối với các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật; Viện
kiểm sát phải thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm ngay từ khi tội phạm xảy ra
* Nâng cao năng lực Thẩm phán và Hội thẩm
Để nâng cao hiệu quả ADPL hình sự nói chung và pháp luật về các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng, đối với đội ngũ Thẩm phán và
Hội thẩm cần thực hiện các giải pháp như sau:
76


+ Đối với Thẩm phán:
- Nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán trên cơ sở nâng cao chất
lượng của hoạt động xét xử, lấy hoạt động xét xử làm trung tâm và trọng tâm
là giải pháp xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong sạch, vững mạnh về đạo đức
và chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên thực hiện công tác quy hoạch cán
bộ, luân chuyển cán bộ, đảm bảo đủ biên chế để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

trước mắt cũng như lâu dài, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và đồng đều về
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác của đội ngũ Thẩm phán.
- Thường xuyên kiểm tra chất lượng đội ngũ Thẩm phán về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, năng lực công tác thông qua các phiên tòa rút kinh
nghiệm để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp lý, kỹ
năng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán.
+ Đối với Hội thẩm: Nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm; đổi mới
tiêu chuẩn tuyển chọn Hội thẩm, tiêu chuẩn của Hội thẩm phải đạt được trình
độ nhất định về kiến thức pháp lý; có quy định bắt buộc về đào tạo, bồi dưỡng
hàng năm cho Hội thẩm; hoàn thiện các quy định của pháp luật về Hội thẩm
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
3.3.2.4. Các giải pháp khác
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nhằm bảo đảm vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức, cán bộ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới
trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh nhất là những
cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn và nâng cao trách
nhiệm pháp lý; cụ thể hóa các tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác đối với từng chức danh tư pháp.
Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả
77


tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ để phán quyết trong bản án.
Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối
với hoạt động tư pháp, nhất là hoạt động xét xử của Tòa án.
Có chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với các chức danh tư pháp để
họ yên tâm công tác, chuyên tâm vào công việc chuyên môn.

Đầu tư thỏa đáng cơ sở vật chất, trang bị phương tiện kỹ thuật cho các
cơ quan tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
Kết luận Chương 3
Để xây dựng hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, trước hết
phải quán triệt tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của chiến lược cải cách tư pháp
trong Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005, của Bộ Chính trị
về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”.
Từ thực tiễn ADPL trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung
và các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt nói riêng của
Tòa án quân sự Quân khu 5 trong thời gian qua cho thấy bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Do đó, các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong thời gian tới phải đồng bộ, toàn
diện phù hợp với tình hình, đặc điểm của địa bàn Quân khu 5. Trong đó, giải
pháp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho những người tiến hành tố
tụng hình sự, nhất là đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm là quan trọng hơn cả để
góp phần nâng cao hiệu quả ADPL của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án
về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt.

78


KẾT LUẬN
Tội phạm liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
được quy định khá sớm trong các văn bản QPPL hình sự và ngày càng được
hoàn thiện. Kế thừa kỹ thuật lập pháp hình sự của những văn bản QPPL trước
đây, BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 tiếp tục hoàn
thiện quy định các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt với nội dung cụ

thể, rõ ràng hơn cả về dấu hiệu định tội và dấu hiệu định khung hình phạt.
Đây là cơ sở pháp lý thống nhất cho việc định tội danh và áp dụng hình phạt
trong thực tiễn xét xử của các Tòa án.
Qua khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS về các tội xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, thấy rằng: Mặc dù hoạt động ADPL của các
Tòa án quân sự Quân khu 5 đã đạt được những kết quả nhất định, tỷ lệ án
được đưa ra xét xử chiếm tỷ lệ cao, đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, đảm
bảo công bằng trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau nên hoạt động ADPL xét xử các vụ án về
các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trong thời gian qua vẫn còn
những hạn chế, sai sót nhất định trong việc định tội danh, áp dụng hình phạt
cần phải được khắc phục.
Xây dựng hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
trước hết cần phải quán triệt mục tiêu, quan điểm chỉ đạo được đề ra trong
chiến lược cải cách tư pháp của nước ta từ nay đến năm 2020.
Từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong xét xử
các vụ án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt của Tòa án
quân sự Quân khu 5 cho thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn
một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu
79


sót đó rất đa dạng, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Do vậy, tác giả đã đưa ra các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả ADPLvề các
tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt như: Hoàn thiện quy định của BLHS
về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt; Nâng cao năng lực đội ngũ
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử các vụ án hình sự.
Với khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, nội dung của Luận văn

không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Với tinh thần học hỏi, cầu tiến,
tác giả rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi của quý thầy cô, các nhà khoa
học để tác giả tiếp tục hoàn thiện hơn đối với đề tài này. Qua đây, tác giả bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Văn Độ, người hướng dẫn khoa học
và các thầy giáo, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ để tác giả
hoàn thành Luận văn này.

80


×