Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp giai đoạn 20162020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.57 KB, 48 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI CƠ CHẾ PHÂN BỔ NGÂN SÁCH CHO
NGÀNH KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
CẢI CÁCH TƯ PHÁP GIAI ĐOẠN 2016-2020

Người thực hiện:
Nguyễn Minh Tuấn
Lớp:
B15-khóa 2014-2015
Chức vụ:
Chuyên viên
Đơn vị công tác:
Vụ Kế hoạch-Tài chính-VKSNDTC
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Tạ Thị Đoàn
Phó trưởng khoa Kinh tế chính trị học

HÀ NỘI, THÁNG 6 NĂM 2015


LỜI CÁM ƠN!
Để hoàn thành Đề án: “Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho ngành Kiểm sát
nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2020”, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ cũng như hướng dẫn chu đáo từ các đơn vị và cá nhân trong suốt cả quá trình
thành lập ý tưởng cho đến lúc có bản thảo cuối cùng. Vì vậy, lời đầu tiên, tôi muốn gửi lời cám
ơn đến những người đã hỗ trợ tận tình cho tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới:
Tiến sĩ Tạ Thị Đoàn - Phó trưởng khoa Kinh tế chính trị học đã hướng dẫn trực tiếp
để tôi có những bước hiểu và cách thức tốt để làm Đề án.


Cảm ơn các thầy, cô trong khoa Kinh tế chính trị học; Khoa kinh tế; Khoa chính trị
học cùng các thầy, cô của Học viện Chính trị khu vực I đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt
đầy đủ những kiến thức cơ bản, những kiến thức nền tảng và chuyên sâu giúp tôi có cơ sở
tốt để hoàn thành Đề án.
Tôi xin trân trọng cám ơn các đơn vị: Vụ Kế hoạch-Tài chính; Vụ Tổ chức cán bộ Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, đã giúp đỡ tôi hoàn thành Đề án này.
Đề án sẽ không tránh khỏi những thiếu sót về trình độ, kiến thức cũng như hình thức
trình bày, rất mong nhận được sự góp ý, hỗ trợ từ phía quý thầy cô.
Tôi xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Minh Tuấn


MỤC LỤC

Trang

A. MỞ ĐẦU........................................................................................................

1

1. Tính cấp thiết xây dựng Đề án: ………………………………………….

1

2. Mục tiêu của Đề án .................................................................................

2


2.1. Mục tiêu chung........................................................................................

2

2.2. Mục tiêu cụ thể........................................................................................

3

3. Giới hạn của Đề án............ ......................................................................

3

B. NỘI DUNG.......................................................................................................

3

1. Cơ sở xây dựng Đề án...............................................................................

3

1.1 Cơ sở khoa học .............................................................................. .......... 3-5
1.2 Cơ sở chính trị, pháp lý .........................................................................

5-9

1.3 Cơ sở thực tiễn ....................................................................................... 9-10
2. Nội dung thực hiện Đề án.........................................................................

10


2.1 Bối cảnh thực hiện Đề án........................................................................ 10-11
2.2 Thực trạng vấn đề cần giải quyết trong Đề án....................................... 11-31
2.3 Nội dung cụ thể Đề án cần thực hiện...................................................

31-34

2.4 Các giải pháp thực hiện Đề án.............................................................. 34-36
3. Tổ chức thực hiện Đề án.........................................................................

36

3.1 Phân công trách nhiệm thực hiện Đề án................................................ 36-37
3.2 Tiến độ thực hiện Đề án............................................................... .........

37

3.3 Kinh phí thực hiện các hoạt động của Đề án.......................................... 37-38
4. Dự kiến hiệu quả của Đề án......................................................................

38

4.1 Ý nghĩa thực tiễn của Đề án............................................. ....................

38

4.2 Đối tượng hưởng lợi của Đề án..............................................................

38


4.3 Những thuận lợi/khó khăn khi thực hiện Đề án và tính khả thi của Đề
án...............................................................................................................

38-39

C. KIẾN NGHỊ, KẾT LUẬN................................................................. ..... 40


1 Kiến nghị ................................................................................................... 40-41
2 Kết luận .....................................................................................................

41

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 42-44


1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết xây dựng Đề án:
Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy
Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
lãnh đạo trong ngành. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát
nhân dân góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Với yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức của ngành Kiểm sát nhân dân đã tăng nhiều so với trước đây.
Trong khi đó ngân sách nhà nước bố trí cho ngành vẫn chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ. Các đơn vị trong ngành còn gặp nhiều khó khăn về

kinh phí hoạt động thường xuyên, kinh phí đảm bảo hoạt động đặc thù, trụ sở
làm việc, hạ tầng cơ sở thông tin, trang thiết bị và phương tiện làm việc phục
vụ công tác. Là cơ quan thuộc hệ thống bộ máy nhà nước có chức năng,
nhiệm vụ đặc thù nhưng cơ chế phân bổ ngân sách hàng năm đối với ngành
Kiểm sát nói riêng vẫn theo các quy định chung cho các cơ quan nhà nước,
chưa tương ứng với sự độc lập về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ
máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo ngành dọc quy
định trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân do Quốc hội ban hành.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ: “Đổi mới và hoàn thiện cơ
chế phân bổ ngân sách nhà nước cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo
hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp
địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tư
pháp trung ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động
cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách địa phương”. Kết luận số


2

92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020: “…hoàn thiện cơ chế quản lý tổ chức, cán bộ, cơ sở
vật chất, cơ chế phân bổ ngân sách của tòa án nhân dân và Viện kiểm sát
nhân dân các cấp”. Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng
khẳng định: “ Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
Tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra”.
Để thực hiện tốt các chủ trương của Đảng nhằm bảo đảm tốt hơn các

điều kiện cho cải cách tư pháp, việc xây dựng Đề án: “Đổi mới cơ chế phân
bổ ngân sách cho ngành Kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp giai đoạn 2016-2020” là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
2. Mục tiêu của Đề án:
2.1 Mục tiêu chung:
Việc xây dựng Đề án nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của cơ
chế phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách hiện hành về vốn đầu tư phát triển,
vốn hành chính, thẩm quyền quyết định trong điều hành ngân sách được giao
và định mức trang thiết bị và phương tiện làm việc. Từ đó đề xuất giải pháp
để xác lập cơ chế mới về phân bổ ngân sách theo tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 2/6/2005; Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010; Kết luận số
92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị, nhằm bảo đảm cơ sở vật chất,
trang thiết bị, phương tiện làm việc cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện có
hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật phù
hợp với tính chất đặc thù về tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát nhân
dân.


3

2.2 Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục tiêu chung của đề án, theo tôi cần phải thực hiện được
các mục tiêu cụ thể sau đây:
+ Cơ chế phân bổ nguồn vốn chi đầu tư phát triển;
+ Đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí chi thường xuyên;
+ Đổi mới thẩm quyền quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách trong
năm;
+ Đổi mới về thẩm quyền quyết định định mức trang thiết bị và phương
tiện làm việc.
3. Giới hạn của Đề án (đối tượng, không gian, thời gian):
3.1. Về không gian: Đề án được thực hiện ở Viện kiểm sát nhân dân

tối cao.
3.2. Về đối tượng: Đề án đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho ngành
Kiểm sát nhân dân.
3.3. Về thời gian: Đề án được thực hiện trong 05 năm, từ năm 2016
đến năm 2020.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở xây dựng Đề án:
1.1 Cơ sở khoa học:
Ngân sách nhà nước là khâu cơ bản, chủ đạo của tài chính nhà nước,
tập trung nguồn tài chính quan trọng nhất trong hệ thống tài chính quốc gia,
đồng thời cũng là một trong những công cụ quan trọng của Nhà nước trong
việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân sách nhà nước tác động trực tiếp đến
việc tăng quy mô đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Thông qua việc phân bổ ngân sách để duy trì hoạt động của Nhà nước và thực
hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm phát triển bền vững và không ngừng
nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.


4

Phân bổ ngân sách nhà nước được hiểu là: Việc thiết lập, vận hành cơ
chế phân chia và phân bổ nguồn tài chính giữa các cấp ngân sách, giữa đơn vị
quản lý và sử dụng ngân sách theo những nguyên tắc, tiêu chí, căn cứ, định
mức và phương pháp tính toán nhất định nhằm đảm bảo cho mỗi cấp, mỗi đơn
vị có đủ nguồn tài chính để thực hiện nhiệm vụ theo chức năng được giao,
phát triển kinh tế-xã hội, góp phần giảm thiểu sự bất bình đẳng tài chính giữa
các địa phương, đơn vị, thực hiện quản lý và phân bổ ngân sách theo đúng
chủ trương, quan điểm, mục tiêu của Nhà nước từng thời kỳ.
Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách được hiểu là thay đổi các chế độ,
chính sách về phân bổ ngân sách của Nhà nước hiện nay còn chưa hợp lý,

chưa phù hợp với thực tiễn bằng các chế độ, chính sách mới về phân bổ ngân
sách hiệu quả hơn, thiết thực hơn.
Định mức phân bổ ngân sách:
Xây dựng định mức phân bổ ngân sách: Định mức phân bổ ngân sách
thường được xây dựng dựa trên các định mức kinh tế kỹ thuật, đặc thù về
chuyên môn nghiệp vụ, các chế độ chính sách và khả năng kinh phí của ngân
sách Nhà nước trong từng thời kỳ. Để xây dựng định mức phân bổ ngân sách,
chúng ta cần thực hiện:
+ Xác định đối tượng tính định mức;
+ Tính phù hợp của định mức phân bổ hiện hành và dự tính mức chi
mới;
+ Xác định khả năng nguồn tài chính có thể huy động;
+ Thiết lập cân đối tổng quát và quyết định định mức phân bổ theo mỗi
đối tượng tính định mức.
Các yêu cầu đối với định mức phân bổ ngân sách Nhà nước:
Một là, Phải được xây dựng một cách khoa học;
Hai là, Phải có tính thực tiễn cao;


5

Ba là, Phải đảm bảo thống nhất;
Bốn là, Phải đảm bảo tính pháp lý cao.
Những năm gần đây, công tác phân bổ ngân sách nhà nước của ngành
Kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, việc xây dựng và áp
dụng định mức phân bổ ngân sách cơ bản được thực hiện, mang lại kết quả
tích cực, phát huy tính công khai, minh bạch, công bằng và hợp lý trong quản
lý và điều hành ngân sách nhà nước, khắc phục được phần nào việc phân bổ
theo cảm tính thiếu căn cứ trước đây.
1.2 Cơ sở chính trị, pháp lý:

+ Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị ban
hành về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
Đây là Nghị quyết quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp. Theo đó Nghị quyết đã
đề ra những nhiệm vụ trọng tâm, một trong số đó là: “Tăng cường đầu tư cơ
sở vật chất cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ,
có chế độ chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp”;
+ Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung:
“Nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp
với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước”;
Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và
hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và
giao cho các cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát,
kiểm tra của các cơ quan tư pháp trung ương; có cơ chế cho phép địa


6

phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu
ngân sách của địa phương;
Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang
trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công
tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám
định tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ
quan tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được
Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động của các cơ quan tư pháp.

+ Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án
đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan điều tra
theo Nghị quyết 49-NQ-TW, trong đó đã chỉ rõ Ban cán sự Đảng Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao: “…phối hợp với các cơ quan hữu
quan nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo điều kiện động viên,
khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức tích cực phấn đấu thực hiện tốt
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Xác định đúng vị trí, vai trò, ngạch, bậc, tiêu
chuẩn bổ nhiệm của thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên vfa có chính sách
đãi ngộ tương ứng”.
+ Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết 49-NQ-TW cũng yêu cầu: “…hoàn thiện cơ chế quản lý
tổ chức; cán bộ, cơ sở vật chất, cơ chế phân bổ ngân sách của Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp”…
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đã được tăng cường và mở rộng
do thực hiện một số đạo luật mới như:
+ Luật thi hành án dân sự (có hiệu lực từ 01/7/2009) cũng giao thêm
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự,


7

nhất là thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát và trách nhiệm trả lời kháng
nghị của cơ quan thi hành án;
+ Luật Tố tụng hành chính (có hiệu lực thi hành từ 01/7/2011) quy định
mở rộng phạm vi thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân;
+ Luật Thi hành án hình sự (có hiệu lực từ 01/7/2011) quy định Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi
hành án phạt tù, thực hiện việc kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu đối với trại
giam đóng tại địa phương. Quy định này đã làm tăng trách nhiệm của Viện
kiểm sát các địa phương trong kiểm sát thi hành án hình sự;

+ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Tố tụng dân sự (có
hiệu lực thi hành từ 01/01/2012) đã mở rộng phạm vi tham gia phiên tòa,
phiên họp của Viện kiểm sát nhân dân;
+ Luật khiếu nại, tố cáo (có hiệu lực từ 01/7/2012) và Luật tiếp công
dân (có hiệu lực từ 01/7/2012) quy định công tác giải quyết khiếu nại, công
tác giải quyết tố cáo và công tác tiếp công dân của Viện kiểm sát nhân dân
phải thực hiện đầy đủ hơn, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất hơn để các công
tác này đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật…
+ Thực hiện Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 và Văn bản số 3222/TTg ngày 12/12/2011 của Thủ
tướng Chính phủ đồng ý bổ sung quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm
sát nhân dân giai đoạn 2011-2020, ngày 12/03/2012 Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 90/QĐ-VKSTC-V9 phê duyệt
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn
2011-2015 và giai đoạn 2016-2020..


8

Căn cứ định mức phân bổ ngân sách Nhà nước; chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách do Nhà nước và Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định,
cụ thể như sau:
+ Về định mức chi thường xuyên: Hiện nay đang thực hiện theo Quyết
định 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ và hướng
dẫn của Bộ Tài chính, của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Về tiền lương, phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề, phụ cấp
thâm niên nghề thực hiện theo Nghị quyết 730/2004/NQ-UBTVQH11 ngày
30/9/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng lương,
chức vụ, bảng phụ cấp chức vụ đối với cán bộ, lãnh đạo của Nhà nước; bảng

lương chuyên môn nghiệp vụ ngành Tòa án, ngành Kiểm sát nhân dân; Nghị
định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ quy định chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Quyết
định số 138/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp trách
nhiệm đối với Kiểm sát viên; Nghị định số 34/2012/NĐ-CP ngày 15/4/2012
của Chính phủ về chế độ phụ cấp công vụ; Nghị định số 76/2009/NĐ-CP
ngày 15/9/2009 của Chính phủ và Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT-BNVBTC ngày 14/12/2009 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính về chế độ phụ cấp thâm
niên nghề;
+ Chế độ đặc thù ngành: Chế độ bồi dưỡng trực nghiệp vụ theo Quyết
định số 985/2007/QĐ-VKSTC-V11; Chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp
theo Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg; Chế dộ bồi dưỡng làm công tác tiếp
dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo Thông tư liên
tịch số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP; Chế độ bồi dưỡng phiên tòa tại Quyết
định số 41/2012/QĐ-TTg; Chế độ chi cho công tác điều tra theo Thông tư
146/2011/TT-BTC;…
+ Các chế độ công tác phí, thanh toán phép và các chế độ khác;


9

+ Các quy định về quy mô xây dựng trụ sở làm việc các cấp ngành
Kiểm sát nhân dân hiện nay: Quyết định số 147/1999/QĐ-TTg ngày
15/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng
trụ sở làm việc tại các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp; Quyết định số
260/2006/QĐ-TTg ngày 14/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi
bổ sung Quyết định số 147/1999/QĐ-TTg ngày 15/7/1999 và một số diện tích
đặc thù theo thỏa thuận của Bộ Tài chính;
+ Quy định về trang phục, trang thiết bị và phương tiện làm việc: Nghị
quyết số 522b/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội về trang phục đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát và

giấy chứng minh kiểm sát viên; Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày
7/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định tiêu chuẩn, định mức,
chế độ quản lý, sử dụng phương tiện đi lại trong cơ quan Nhà nước; Quyết
định số 61/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày 7/5/2007.
1.3 Cơ sở thực tiễn:
Xuất phát từ yêu cầu của việc tổ chức, xây dựng hệ thống Viện kiểm sát
nhân dân theo yêu cầu của cải cách tư pháp; xuất phát từ yêu cầu thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân, trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân trong công tác tư pháp ngày càng nặng nề hơn, yêu cầu
phải nâng cao chất lượng của hoạt động công tác kiểm sát;
Phạm vi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
diễn ra trên nhiều lĩnh vực (hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động…)
thực hiện trong nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau (khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án), số lượng, khối lượng công việc ngày càng tăng, đặc biệt
thực hiện các quy định mới của Luật tố tụng hành chính, Luật thi hành án
hình sự ( có hiệu lực từ ngày 01/7/2011) và luật sửa đổi, bổ sung một số điều


10

của Bộ luật tố tụng dân sự (có hiệu lực từ ngày 01/01/2012), khối lượng công
việc thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải giải quyết
tăng lên. Dự kiến, khối lượng các vụ, việc hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Viện kiểm sát nhân dân năm 2015 tăng 50% đến 60% so với năm
2014( năm 2014 số lượng án đã thụ lý, giải quyết là 364.888 vụ, trong đó cấp
huyện là 321.225 vụ, cấp tỉnh là 43.663 vụ); các vụ việc dân sự thuộc trách
nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết cũng sẽ tăng nhiều so với
thời điểm thực hiện quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Tình hình kinh tế của đất nước còn gặp nhiều khó khăn, tình hình tội

phạm vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, tính chất tội phạm ngày càng nghiêm
trọng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân ngày một nặng nề hơn, trong khi
đó còn nhiều bất cập về cơ chế phân bổ ngân sách hiện hành, thể hiện rõ trong
cơ chế phân bổ vốn đầu tư; cơ chế phân bổ kinh phí chi thường xuyên.
Như vậy, để bảo đảm cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện tốt hơn
chức năng, nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, phù hợp với đặc thù
của một cơ quan tư pháp, cần phải đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách hiện
hành theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị.
2. Nội dung thực hiện của Đề án:
2.1 Bối cảnh thực hiện Đề án:
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta tiếp tục phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng kinh tế thấp; tình hình kinh tế, chính
trị thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường đã tác động
tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh; ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập người
lao động…Tình hình tội phạm vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, tính chất tội
phạm ngày càng nghiêm trọng. Các loại tội phạm ngày càng đa dạng như tội
phạm về an ninh, tội phạm tham nhũng, tội phạm về sở hữu, trật tự quản lý
kinh tế, chức vụ; tội phạm về môi trường; tội phạm về ma túy, tội phạm về


11

trật tự an toàn xã hội; các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bất động sản, tài
chính, ngân hàng; tội phạm về hoạt động tư pháp. Số vụ án phạm tội hàng
năm đều tăng lên với tính chất và, mức độ ngày càng phức tạp.
Trong tình hình đó, tiếp tục quán triệt các Nghị quyết của Đảng về
chiến lược cải cách tư pháp, Nghị quyết của Quốc hội về những nhiệm vụ
kinh tế-xã hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn ngành thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội, cùng với toàn Đảng, toàn dân giữ vững ổn định và phát

triển đất nước.
Để góp phần xây dựng nền tư pháp ngày càng trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, ngành Kiểm sát
nhân dân cần có sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa của Đảng, Nhà nước.
2.2 Thực trạng về cơ chế phân bổ ngân sách đối với ngành Kiểm sát
nhân dân:
2.2.1 Cơ cấu chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế của
ngành Kiểm sát ảnh hưởng tới công tác phân bổ ngân sách
a. Chức năng, nhiệm vụ:
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được Quốc hội
khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2014:
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.


12

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ thông qua
những công tác sau:
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra
và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và
xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế

các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can; yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra
tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của pháp luật; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn
các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật; hủy bỏ các
quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; quyết định việc truy tố bị can;
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án. Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
kiểm sát việc khởi tố; kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
của cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham
gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định
của pháp luật; yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong
hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh


13

Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với
cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật.
Với chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nêu trên có thể khẳng
định hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp thể hiện tính đặc thù cao,
luôn ở trạng thái động là chính, quy mô hoạt động kiểm sát là rất lớn. Công
việc của Kiểm sát viên, Điều tra viên có nhiều điểm khác biệt so với cán bộ,

công chức nhà nước thông thường. Kiểm sát viên đã tham gia cùng Điều tra
viên từ khi phát hiện vụ, việc phạm tội cho đến khi Viện kiểm sát quyết định
truy tố. Trong quá trình điều tra và truy tố, Kiểm sát viên phải thường xuyên
phối hợp với Điều tra viên có mặt tại hiện trường nơi xảy ra vụ án để tiến
hành khám nghiệm hiện trường và kiểm sát trực tiếp việc khám nghiệm hiện
trường, kiểm sát việc bắt, khám xét, thu giữ vật chứng, khám nghiệm tử thi.
Kiểm sát viên thường xuyên phối hợp với Điều tra viên đến nhà tạm giữ, trại
tạm giam, trại giam để trực tiếp hỏi cung, trực tiếp kiểm sát việc lấy lời khai
của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, tiến hành đối
chất. Đồng thời, để có đầy đủ căn cứ truy tố các bị can ra trước toà, Kiểm sát
viên phải trực tiếp đi xác minh, kiểm tra lời khai của bị can, đảm bảo tính
chính xác, khách quan của vụ án, trực tiếp lấy lời khai tổng cung để củng cố
chứng cứ, đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đặc biệt,
có những vụ án lớn, án điểm, án đặc biệt nghiêm trọng với số lượng bị can
lớn, bị tạm giam ở nhiều tỉnh trong phạm vi toàn quốc, kiểm sát viên phải đến
tận nơi để thực hiện nhiệm vụ. Sau khi kết thúc điều tra Kiểm sát viên phải
trực tiếp phúc cung bị can. Khi hoàn thành bản cáo trạng, Kiểm sát viên phải
trực tiếp vào trại tạm giam để tống đạt cho từng bị can và ghi nhận những ý
kiến của bị can sau khi nhận cáo trạng.
b. Tổ chức bộ máy:


14

Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất bao gồm:
+ Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
+ Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
+ Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh;
+ Các Viện kiểm sát quân sự.

Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện
kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Ủy ban
kiểm sát; Các Cục, Vụ, Viện; Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao(28 đơn vị);
Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương bao gồm: Ủy ban kiểm sát; Các phòng nghiệp vụ; Văn
phòng (63 đơn vị);
Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc do Viện trưởng, Các phó
Viện trưởng phụ trách (706 đơn vị);
Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong quân đội nhân dân Việt
Nam gồm: Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân
khu và tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Sơ đồ tổ chức đơn vị dự toán các cấp trong ngành Kiểm sát nhân
dân:


15

Đơn vị dự toán cấp I
Viện kiểm sát nhân dân tối
cao

Đơn vị dự toán cấp II
Văn phòng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao


Đơn vị dự toán cấp II
Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh
(63 đơn vị)

Đơn vị dự toán cấp III
+ Văn phòng II;
+ TT Nghệ An;
+ TT Vũng Tàu

Đơn vị dự toán cấp III
Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện
(706 đơn vị)

Đơn vị dự toán cấp III
(Trực thuộc)
1. Tạp chí Kiểm sát
2. Báo Bảo vệ pháp luật
3. Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội
4. Phân hiệu trường Đào
tạo bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm sát
tại TPHCM
5. Cục Điều tra
6. Viện Khoa học kiểm
sát
7. Viện phúc thẩm II

8. Viện phúc thẩm III

c. Biên chế và nguồn nhân lực:
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành, tổng
biên chế, số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân do
Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Căn cứ vào tổng biên chế do Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định
biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các địa phương và các đơn vị trực thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


16

Hiện nay biên chế của toàn ngành Kiểm sát nhân dân là 15.860 người.
Số lao động hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP hiện có 2.295 người
(tính đến tháng 5/2014), dự kiến sẽ tăng lên khoảng 2.500 người do hiện nay
các đơn vị đang tiếp tục ký hợp đồng làm công việc lái xe và tạp vụ ở Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện.
Thực hiện Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 và Văn bản số 3222/TTg ngày 12/12/2011 của Thủ tướng
Chính phủ đồng ý bổ sung quy hoạch phát triển nhân lực ngành Kiểm sát
nhân dân giai đoạn 2011-2020, ngày 12/03/2012 Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 90/QĐ-VKSTC-V9 phê duyệt Quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực Ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 20112015 và giai đoạn 2016-2020. Theo đó, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của
Ngành giai đoạn này tăng lên khoảng 20.000 người để đáp ứng thực hiện chức
năng, nhiệm vụ theo yêu cầu cải cách tư pháp.
2.2.2 Những thuận lợi của cơ chế phân bổ ngân sách hiện nay:
2.2.2.1. Về cơ chế phân bổ nguồn vốn chi đầu tư phát triển:

Cơ chế phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản kể từ khi có Nghị quyết
của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã được ưu tiên vốn theo chương trình
cải cách tư pháp. Theo đó, vốn đầu tư hàng năm cấp cho ngành Kiểm sát nhân
dân đã tăng hơn so với trước đây (trước năm 1997 chủ yếu được đầu tư bằng
nguồn vốn hành chính sự nghiệp hoặc do ngân sách địa phương hỗ trợ, các
công trình có quy mô nhỏ hẹp, chưa hợp lý và không đồng bộ, chưa tính đến
sự phát triển của ngành), hệ thống trụ sở của nhiều đơn vị được sửa chữa, cải
tạo, mở rộng hoặc đầu tư xây dựng mới khang trang hơn, góp phần không nhỏ
vào việc bảo đảm các điều kiện làm việc cho Viện kiểm sát các cấp hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của mình.


17

Việc phân bổ vốn đầu tư ưu tiên theo mức độ cấp bách của từng dự án
và quy định về thời gian hoàn thành dự án (nhóm C là 3 năm, nhóm B là 5
năm). Đặc biệt giai đoạn 2011-2015, thực hiện các nguyên tắc, tiêu chí và
định mức phân bổ vốn đầu tư theo Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày
30/9/2010 và Chỉ thị 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư, từ đó việc đầu tư đòi hỏi phải có trọng
điểm, hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải, giải quyết dứt điểm các dự án dở
dang, sớm đưa công trình vào khai thác sử dụng.
2.2.2.2 Về cơ chế phân bổ kinh phí chi thường xuyên:
Việc xây dựng định mức phân bổ kinh phí quản lý hành chính theo
Quyết định 59/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là cần thiết và phù
hợp, do cơ chế tiền lương của các ngành nghề khác nhau, quỹ lương của các
đơn vị trong cùng một ngành cũng khác nhau nên việc tách tiền lương và các
khoản chi có tính chất tiền lương ra khỏi định mức chi thường xuyên là bước
đột phá, tạo sự thuận lợi và công bằng hơn trong phân bổ ngân sách. Định
mức đối với các cơ quan tư pháp nói chung và ngành Kiểm sát nhân dân đã

được quan tâm hơn so với trước đây.
Nguồn ngân sách nhà nước cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân qua các
năm đều tăng lên, tỷ lệ tăng bình quân từ 10% đến 15% mỗi năm (chủ yếu do
tăng biên chế, tăng kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương và tăng thêm các
chế độ khác nhau theo quy định của Nhà nước). Ngoài nguồn kinh phí bảo
đảm tiền lương và các khoản đóng góp theo lương, kinh phí thường xuyên
theo định mức thì kinh phí hỗ trợ đảm bảo cho các hoạt động đặc thù kiểm sát
luôn được các Bộ, ngành quan tâm giải quyết. Các khoản chi đặc thù như chi
đảm bảo cho công tác điều tra hình sự theo thẩm quyền; chi cho công tác
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; chi hỗ trợ án lớn, án điểm…
hàng năm đã được quan tâm.


18

2.2.2.3 Về cơ chế quản lý tài chính:
Cơ chế tự chủ về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đã
cho thấy rõ sự phù hợp và lợi ích thiết thực trong hoạt động của các cơ quan,
đơn vị trong toàn ngành, đã tạo điều kiện tăng cường quyền tự chủ và tính chủ
động của các đơn vị trong công tác quản lý tài chính. Thực hiện chế độ tự
chủ, hầu hết các đơn vị trong ngành đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ. Các
đơn vị đã triển khai nhiều biện pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong sử dụng điện, nước, điện thoại, xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị,
công tác phí, chi tiếp khách…Các khoản thu và nội dung chi được thực hiện
công khai dân chủ, tạo ra sự nhất trí, đồng thuận cao trong đơn vị, nâng cao ý
thức trách nhiệm, góp phần kiểm tra, giám sát chi tiêu một cách hợp lý, thúc
đẩy thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng ngân sách và tài sản
công. Nhờ nguồn kinh phí tiết kiệm được, các đơn vị đã sử dụng một phần để
tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, góp phần giảm bớt khó khăn về đời
sống cho cán bộ, công chức.

Bên cạnh đó, chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với cán bộ,
công chức Nhà nước nói chung và đối với cán bộ công chức ngành Kiểm sát
nhân dân nói riêng đã được quan tâm và cải thiện nhiều hơn, đối với các chức
danh tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân đời sống đã bớt khó khăn hơn,
yên tâm công tác hơn với nhiệm vụ được giao.
Việc phân cấp trong ngành Kiểm sát nhân dân đã tạo điều kiện để các
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm đối
với việc lập dự toán (bao gồm cả vốn hành chính và vốn đầu tư), phân bổ và
giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc, kiểm tra việc quản lý, sử dụng Ngân
sách nhà nước của các đơn vị cấp dưới được thường xuyên và hiệu quả hơn.


19

2.2.3 Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân của cơ chế phân bổ
ngân sách hiện nay:
2.2.3.1. Về cơ chế phân bổ nguồn vốn chi đầu tư phát triển:
Để được xem xét cấp vốn đầu tư thì một trong nhưng yêu cầu đối với
dự án đó là dự án đầu tư phải được cấp có thẩm quyền quyết định phê duyệt
Báo cáo kinh tế kỹ thuật (hoặc dự án đầu tư) trước 30/10 năm kế hoạch.
Trong khi đó, việc không được cấp vốn trước để chi cho giai đoạn chuẩn bị
đầu tư như: chi đền bù, giải phóng mặt bằng (nếu có); chi cho nhà thầu khảo
sát, thiết kế, lập dự án nên các dự án rất khó khăn trong việc chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để lập dự án. Vì vậy, nhiều dự án lập xong không có vốn để
khởi công dẫn tới nợ các nhà thầu không có nguồn vốn để thanh toán.
Theo quy định của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công
trình, người quyết định đầu tư có trách nhiệm bố trí đủ vốn theo tiến độ dự án,
nhưng không quá 3 năm đối với dự án nhóm C và không quá 5 năm đối với
dự án nhóm B, nhưng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho Viện kiểm sát nhân
dân hiện nay còn thấp và phân bổ theo kế hoạch Ngân sách nhà nước hàng

năm, không được bổ sung từ các nguồn khác trong năm (từ nguồn vượt thu,
kết dư, chưa giải ngân, dự phòng…của ngân sách Nhà nước), chưa được phân
bổ theo giai đoạn (trung và dài hạn) nên rất khó chủ động, cân đối lựa chọn
các dự án để khởi công phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Các dự án đầu tư
của Viện kiểm sát nhân dân chủ yếu là xây dựng trụ sở làm việc, quy mô
không quá lớn, không quá phức tạp về kỹ thuật, không nhất thiết phải kéo dài
thời gian đầu tư và hầu hết là dự án nhóm C.
Quy mô trụ sở Viện kiểm sát nhân dân ngoài các quy định tiêu chuẩn
định mức xây dựng cho trụ sở cơ quan Nhà nước thì trụ sở của các đơn vị
trong ngành Kiểm sát nhân dân cần có các diện tích đặc thù gắn với thực hiện
chức năng nhiệm vụ như: Phòng tiếp dân; Phòng hỏi cung; Phòng trực nghiệp


20

vụ; Kho vật chứng; Phòng nhận dạng bị can; Phòng tích hợp dữ liệu; Phòng
họp liên ngành giải quyết án, giao ban; Nhà tạm giữ, tạm giam (cho cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao); Nhà lưu trú công vụ…
Vốn đầu tư Nhà nước cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân kể từ khi thực
hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp (Nghị quyết số
08/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW), được chia thành các nguồn vốn
ngành, lĩnh vực như: vốn cải cách tư pháp, vốn ngành giao thông, cấp thoát
nước, khoa giáo, công nghệ thông tin, trong đó chủ yếu là vốn đầu tư xây
dựng trụ sở làm việc Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Hàng năm Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng nhu cầu vốn đầu tư
toàn ngành trình Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Bộ Tài chính để trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định. Sau khi được phân bổ vốn đầu tư, căn cứ tổng mức được giao
và căn cứ chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hướng dẫn của Bộ Kế hoạch-Đầu
tư, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng phương án phân bổ dự trên các
tiêu chí: ưu tiên trả nợ vốn cho các dự án đã quyết toán dự án hoàn thành, bố

trí cho nhóm các dự án chuyển tiếp, nhóm các dự án xây dựng trụ sở mới do
đơn vị mới thành lập, phải di dời do quy hoạch của địa phương, nhóm các dự
án theo chương trình, mục tiêu ưu tiên của ngành…
Vốn đầu tư cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân qua các năm gần đây:
Bảng 1: Vốn đầu tư cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân, 2010-20141
Năm
Số tiền được cấp (tỷ đồng)
2010
245
2011
246
2012
321
2013
305,888
2014
385,5
Theo bảng số liệu trên thì vốn đầu tư cấp cho ngành Kiểm sát nhân dân
bình quân năm tăng 10% đến 15% (năm 2013 thì bị giảm). Như vậy, vốn đầu
Quyết định của Bộ Tài chính về việc giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước từ năm
2010-2014
1


21

tư tỷ lệ tăng không đáng kể, trong khi đó khởi điểm ban đầu vốn cấp thấp, nhu
cầu vốn đầu tư bình quân năm tối thiểu 800 tỷ đồng/năm. Với sự biến động
giá liên tục nên các dự án kéo dài hoặc bị điều chỉnh lại tổng mức đầu tư gây
lãng phí về thời gian đầu tư và tốn kém cho ngân sách Nhà nước.chỉ đáp ứng

khoảng 30% so với nhu cầu, trong khi đó nhu cầu vốn đầu tư bình quân tối
thiểu của ngành Kiểm sát nhân dân phải là 800 tỷ đồng/năm.
2.2.3.2 Về cơ chế phân bổ kinh phí chi thường xuyên:
a. Về thẩm quyền quyết định định mức chi thường xuyên:
Thẩm quyền quyết định định mức chi thường xuyên cho thời kỳ ổn
định ngân sách đối với ngành Kiểm sát nhân dân do Chính phủ quyết định,
hiện nay áp dụng theo Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của
Thủ tướng Chính phủ.
Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mang tính đặc thù cao, khác biệt
so với một số cơ quan hành chính nhà nước, do vậy việc áp dụng định mức
chi thường xuyên như các cơ quan hành chính nhà nước chưa thể hiện rõ mức
độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặc thù của ngành. Mặt khác, theo quy định của
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên hiện hành thì
cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc, biên chế, thang bảng lương cho các chức
danh tư pháp, chế độ trang phục đối với cán bộ, công chức ngành Kiểm sát
nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, trong khi đó thẩm quyền
quyết định định mức chi thường xuyên đối với ngành Kiểm sát nhân dân hiện
nay do Thủ tướng Chính phủ quyết định cũng là một bất cập.
b. Về định mức chi thường xuyên:
Nguồn ngân sách chi thường xuyên hàng năm Viện kiểm sát nhân dân
được phân bổ bao gồm:
+ Chi quản lý hành chính;


×