Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

ngân sách nhà nước - thực trạng và hướng đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.6 KB, 47 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trờng đại học kinh tế quốc dân
khoa ngân hàng - tài chính
đề án môn học
lý thuyết tài chính tiền tệ
Đề tài:
ngân sách Nhà nớc - thực trạng và hớng đổi mơi cơ
chế quản lý ngân sách Nhà nớc ở Việt Nam
Giáo viên hớng dẫn : TS. Nguyễn hữu tài
Sinh viên thực hiện : Nguyễn văn thịnh
Lớp : ngân hàng - 41A
Hà Nội - 2001
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lời nói đầu
Ngân sách Nhà nớc (NSNN) là một lĩnh vực tài chính quan trọng trong hệ
thống tài chính quốc gia, nó là một bộ phận tài chính tập trung quan trọng của nhà
nớc với hạt nhân là quĩ NSNN. NSNN gắn liền với chức năng nhiệm vụ của Nhà n-
ớc, là yếu tố vật chất để bộ máy nhà nớc có thể hoạt động hoàn thành các nhiệm
vụ cuả mình đáp ứng các nhu cầu phát triển của xã hội.
Trong hệ thống tài chính NSNN có quan hệ mật thiết với các bộ phận tài
chính khác, qua đó thể thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của NSNN. Vai trò
của NSNN không chỉ thể hiện ở chỗ nó là cơ sở tài chính của nhà nớc mà còn
thể hiện ở khả năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kimh tế thị trờng
NSNN đợc sử dụng nh một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng vào loại bậc
nhất của Nhà nớc để đảm bảo ổn định vĩ mô nền kinh tế và hớng nền kinh tế
tới sự phát triển.
Nh vậy NSNN là một lĩmh vực tài chính rất quan trọng và phạm vi của nó là
rất rộng lớn. Điều này cho chúng ta thấy cần thiết phải có những nghiên cứu để có
thể có những nhận định tối thiểu, tối cần thiết về NSNN. Đặc biệt đối với sinh viên
kinh tế thì việc nghiên cứu này càng trở nên quan trọng và cần thết.


Trong bài viết này với kiến thức và trình độ còn hạn chế tôi không có tham
vọng đi sâu nghiên cứu phân tích, tìm ra nhữmg hớng đi mới trong lĩnh vực NSNN
và quản lí NSNN, mà chỉ mong muốn đa ra đợc những nhận định, nhận thức chung
nhất của mình về lĩnh vực này.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyễn Hữu Tài, ngời đã hớng
dẫn em viết đề tài này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2001
Sinh viên
Nguyễn Văn Thịnh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần A
Khái quát chung
I- các vấn đề chung về NSNN
1. Ngân sách Nhà nớc và vai trò của NSNN
Trong các xã hội hiện đại Nhà nớc luôn có các chức năng, nhiệm vụ nhiều
mặt nh chức năng quản lí hành chính, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ chính trị
xã hội khác. Để thực hiện đợc các chức năng và nhiệm vụ đó, nhà nớc cần nắm đ-
ợc một lợng của cải vật chất nhất định. Lợng của của cải vật chất đó chủ yếu đợc
hình thành từ thuế, là cái mà các tổ chức và dân c có nghĩa vụ phải nộp cho nhà n-
ớc. Từ các nguồn thu đó mà quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nớc đợc hình
thành, nó đợc gọi nlà quĩ ngân sách, đó chính là cơ sở vật chất đảm bảo cho nhà n-
ớc tồn tạivà hoạt động.
Việc sử dụng quĩ ngân sách để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nớc
chính là quá trình chi tiêu ngân sách, nó luôn gắn liền với việc thực hiện các
nhiệm vụ của nhà nớc trên mọi lĩnh vực trong từng thời kì nhất định.
Trong thời đại ngày nay chức năng kinh tế của nhà nớc càng trở nên quan
trọng. Nhà nớc phải can thiệp vào các quá trìnhkinh tế để sửa chữa những sai lầm
của thị trờng nhằm đảm bảo một môi trờng kinh doanh lành mạnh, đảm bảo tính
hiệu quả công bằng và ổn định nền kinh tế. Sự can thiệp của nhà nớc ở đây là sự

can thiệp gián tiếp thông qua chính sách thuế khoá, chính sách chi tiêu và luật lệ
của nhà nớc. Đó chính là sự hiện diện của bàn tay hữu hình của nhà nớc bên
cạnh bàn tay vô hình của thị trờng.
Phát triển kinh tế hiện nay đang là mục tiêu cơ bản trong chính sách kinh tế
vĩ mô của hầu hết các chính phủ. Phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là sự tăng
trởng kinh tế mà nó còn bao hàm nhiều vấn đề khác nh sự thay đổi trong trong cơ
cấu kinh tế, sự đô thị hoá và sự tham gia của các thành viên trong xã hội vào sự
phát triển đó.Để thực hiện đợc mục tiêu chiến lợc này Nhà nớc phải sử dụng nhiều
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công cụ khác nhau trong đó chính sách tài khoá, chính sách ngân sách là một
trong những công cụ quan trọng nhất.
Vậy ngân sách nhà nớc là gì ?
Xét về mặt hình thức thì NSNN là một bảng cân đối tổng hợp các khoản thu
và chi của nhà nớc trong một thời gian nhất định, thờng là một năm và đợc gọi là
năm tài khoá. Năm tài khoá cũng dài mời hai tháng và có thể trùng hoặc không
trùng với năm dơng lịch.
Xét về mặt bản chất nội dung kinh tế thì NSNN là hệ thống các quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các nguồn vốn tiền
tệ khác thông qua việc hình thành và sử dụng các quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của
nhà nớc để nhà nớc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
Các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực NSNN là những quan hệ kinh tế
giữa một bên là nhà nớc với bên còn lại là các tổ chức và dân c, trong điều
kiện nền kinh tếmở nó còn bao gồm cả các quan hệ kinh tế giữa nhà nớc với bộ
phận tài chính đối ngoại.
Quá trình sử dụng NSNN đợc kế hoạch hoámột cách chặt chẽ thành kế
hoạch NSNN. Kế hoạch NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nớc, nó đợc
lập cho suốt một năm tài khoá. Các khoản thu và chi trong kế hoạch NSNN đợc
sắp xếptheo một trật tự nhất định đợc gọi là mục lục ngân sách. Ngân sách nhà n-
ớc là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nớc, nó mang tính pháp luật.Quá trình lập

và chấp hành NSNN đợc tiến hành theo một trình tự nhất định và sau khi đợc
thông qua NSNN trở thành một đạo luật, việc thực hiện nó mang tính bắt buộc.
Hệ thống NSNN đợc thiết lập theo tổ chức hệ thống chính quyền nhà nớc.
Thông thờng NSNN bao gồm NSTƯ và NSĐP. Trong đó NSTƯ giữ vai trò chủ
đạo, nó tập trung các nguồn thu quan trọng nhất và đảm nhiệm những nhiệm vụ
chi chủ yếu. Việc phân phối, quản lí NSNN đợc tiến hành thông qua việc qui định
phạm vi quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của các cấp chính quyến và thông qua việc
phân định nguồn thu giữa NSTƯ và NSĐP để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ
trên.
Nh vậy NSNN là một bộ phận tài chinh tập trung quan trọng của nhà nớc
với hạt nhân là quĩ NSNN. NSNN gắn liền với chức năng nhiệm vụ của nhà nớc, là
yếu tố vật chất để bộ máy nhà nớc có thể hoạt động và hoàn thành các nhiệm vụ
đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội. Trong hệ thống tài chính quốc gia
NSNN có mối quan hệ mật thiết với các bộ phậntài chính khác, qua đó thể hiện vị
trí vai trò đặc biệt của NSNN và vai trò quản lí nền kinh tế xã hội của nhà nớc.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khác với bộ phận tài chính khác trong hệ thống tài chính, các mối quan hệ
về thu hút nguồn lực tài chính và sử dụng chúng của NSNN chủ yếu dựa trên cơ sở
quyền lực nhà nớc. Vai trò của NSNN không chỉ thể hiện ở chỗ nó là cơ sở tài
chính của nhà nớc mà còn thể hiện ở khả năng điều tiết vĩ mônền kinh tế. Trong
nền kinh tế thị trờng NSNN là một công cụ điều tiết vĩ môquan trọng để đảm bảo
tính hiệu quả,công bằng và ổn định của nền kinh tế, hớng nền kinh tế tới sự phát
triển.
2. Qui trình ngân sách nhà nớc
Qui trình NSNN bao gồm các khâu, các bớc công việc đợc lặp đi lặp lại theo
một trình tự nhất định cho các năm ngân sách. Chính vì vậy mà quitrình ngânsách
còn đợc gọi là là chu kỳ ngân sách.
Qui trình NSNN bao gồm các khâu cơ bản là lập dự toán NSNN, thảo luận
phê chuẩn NSNN,chấp hành NSNN, quyết toán NSNN

a. Lập dự toán NSNN
Việc lập dự toán NSNN phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nớc, yêu cầu về an ninh quốc phòng và đảm bảo các yêu cầu khác của
chính quyền các cấp trên cơ sở luật pháp và hệ thống các tiêu chuẩn định mức
thông nhất do các cơ quan các thẩm quyển qui định.
Việc lập dự toán đợc bắt đầu từ nhiều tháng trớc năm ngân sách mới, ít nhất là
sáu tháng ở hầu hết các nớc và việc lập dự toán là do bộ tài chính thực hiện.
Đến hạn lập dự toán Bộ trởng Bộ tài chính gửi chỉ thị cho các địa phơng, các
bộ, các cơ quan về việc lập dự toán NSNN yêu cầu các địa phơng, các bộ các cơ
quan làm theo số dự kiến của Bộ tài chính về số thu chi ngân sách.
Lãnh đạo cácđịa phơng, các bộ, các cơ quan căn cứ vào chỉ thị của Bộ tài
chính xác định dự toán ngân sách của mình và gửi lên Bộ tài chính theo thời hạn
qui định.
Căn cứ vào dự toán thu chi ngân sách của các địa phơng, các bộ, các cơ quan Bộ
tài chính tiến hành xác định dự toán thu chi NSNN và đệ trình lên Chính phủ.
Chính phủ đọc, đóng góp ý kiến và đề nghị sửa đổi nều có những bất hợp lý.
Sau đó dự toán NSNN dợc đệ trình lên Quốc hội thảo luận và phê chuẩn.
b. Quốc hội thảo luận vàphê chuẩn dự toán NSNN
Quá trình thảo luận gồm hai giai đoạn : Thảo luận chung và thảo luận chi tiết.
Trong quá trình thảo luận chung Quốc hội thảo luận toàn bộ ngân sách và tác
dụng của nó dối với nềnkinh tế quốc dân.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong quá trình thảo luận chi tiết Quốc hội thảo luận đến từng khoản mục thu
chi NSNN.
Sau khi thảo luận Quốc hội sẽ quyết định chấp nhận hay không chấp nhận dự
toán NSNN.Nếu dự toán NSNN đợc chấp nhận thì nó sẽ đợc trao cho chính
phủthực hiện theo Luật NSNN. Nếu dự toán NSNN không đợc chấp nhận thì qui
trình ngân sách phải đợc lặp lại từ đầu.
Về mặt luật phát thì quyền của Quốc hội rất rộng lớn.Quốc hội có thể thay

đổi các khoản thu chi, buộc chính phủ phải sửa đổi hoặc lập dự toán mới. Song
trên thực tế quyền lực của Quốc hội cũng bị hạn chế vì nhiều lí do nh : Hiện nay
ngời tachỉ có thể đánh giá và quyếtđịnh ngân sách dựa vào kiến thức chuyên môn.
Trong khi các đại biểu Quốc hội lại có thể không có kiến thức chuyên môn. Vì thế
hiện nay ở nhiều nớc ngời ta đã lập ra các tiểu ban chuyên môn để cố vấn cho các
Nghị sĩ Quốc hội. Mặt khác do Quốc hội không quản lí đợc toàn bộ bộ máy kinh
tế, vì vậy các đại biểu Quốc hội có thể không hiểu rõ đợc các đề nghị đã đợc tính
toán bằng các con số.
Sau khi dự toán NSNN đợc Quốc hội phê chuẩn, các cơ quan tài chính các
cấp tiến hành giao nhiệm vụ thu chi ngân sách cho các cơ quan đồng cấp. Qui
trình NSNN chuyển sang bớc mới là bớc chấp hành NSNN.
c. Chấp hành NSNN
Các cơ quan tài chính các cấp giao nhiệm vụ thu chi cho các cơ quan đồng
cấp khác. Trên cơ sở nhiệm vụ đợc giao các cơ quan đã đợc giao nhiệm vụ tiến
hành tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thu chi NSNN.
Thu NSNN dợc thực hiện theo các văn bản luật thu và các văn bản pháp qui
khác. Chi NSNN đợc thực hiện theo nhiều phơng pháp khác nhau và cũng đòi hỏi
phải tuân thủ theo pháp luật.
Trong quá trình chấp hành NSNN nếu phát sinh nhu cầu chi đột xuát lãnh
đạo các địa phơng các bộ các cơ quan phải báo cáo Bộ trởng Bộ tài chính xin kinh
phí bổ sung. Bộ trởng Bộ tài chính có thể cho phép điều hoà một số khoản thu chi
giữa các mục trong cùng một loại khoản mục thu chi theo đề nghị hợp lí của các
cơ quan nhà nớc.
Nếu có thiếu hụt ngân sách tạm thời Bộ trởng Bộ tài chính đợc phép vay tín
dụng ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nớc và phát hành tín phiếu kho bạc,công trái quốc
gia để bổ sung cho số thu ngân sách, bù đắp thiếu hụt ngân sách tạm thời.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
d. Quyết toán NSNN
Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong qui trình NSNN. Thông thờng

việc duyệt quyết toán đợc thực hiện theo trình tự từ dới lên trên.
Các đơn vị có nhiệm vụ thu chi NSNN lập quyết toán của đơn vị mình gửi lên
cơ quan quản lí cấp trên.
Thủ trởng đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết
toán thu chi ngân sách thuộc phạm vi do mình quản lí rồi gửi cho cơ quan tài
chính cùng cấp.
Cơ quan tài chính các cấp ở địa phơng duyệt quyết toán thu chi ngân sách
của các cơ quan cùng cấp, thẩm tra quyết toán của cơ quan tài chính cấp dới, tổng
hợp quyết toán ngân sách địa phơng của mình rồi trình cơ quan quyền lực cấp đó
và báo cáo cơ quan hành chính, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
Bộ tài chính xét duyệt quyết toán thu chi ngân sách của các cơ quan trung -
ơng, thẩm tra quyết toán ngân sách địa phơng,tổng hợp quyết toán NSNN tình
chính phủ xem xét sau đó trình Quốc hội phê chuẩn.
Quốc hội xem xét phê chuẩn quyết toán NSNN. Khi quyết toán NSNN đợc
Quốc hội phê chuẩn qui trình NSNN sẽ khép lại và một qui trình NSNN mới sẽ lại
đợc bắt đầu.
Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng trong quy trình ngân sách Nhà nớc.
Thông thờng việc duyệt quyết toán đợc thực hiện theo trình tự từ dới lên trên:
- Các đơn vị có nhiệm vụ thu chi ngân sách Nhà nớc lập quyết toán của đơn
vị mình gửi lên cơ quan quản lý cấp trên.
- Thủ trởng đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết
toán thu chi ngân sách thuộc phạm vi mình quản lý rồi gửi cho cơ quan tài chính
cùng cấp.
- Cơ quan tài chính các cấp ở địa phơng duyệt quyết toán thu chi ngân sách
của các cơ quan cùng cấp thẩm tra quyết toán cấp dới tổng hợp quyết toán ngân
sách địa phơng trình cơ quan hành chính cùng cấp xem xét để trình cơ quan quyền
lực cấp đó phê duyệt rồi báo cáo cơ quan hành chính, cơ quan tài chính cấp trên
trực tiếp.
- Bộ tài chính xét duyệt quyết toán thu chi ngân sách của các cơ quan trung -
ơng, thẩm tra quyết toán của ngân sách địa phơng, tổng hợp lập quyết toán ngân

sách Nhà nớc trình chính phủ xem xét trình quốc hội phê chuẩn.
- Quốc hội xem xét phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nớc
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi quyết toán ngân sách Nhà nớc đợc quốc hội phê chuẩn thì sẽ khép lại
mọi chu trình ngân sách và một chu trình ngân sách mới sẽ lại đợc bắt đầu.
3. Chính sách ngân sách và hệ thống các công cụ của nó
Cùng với chính sách tiền tệ chính sách thu nhập và chính sách ngoại thơng,
chính sách ngân sách cùng đợc sử dụng để tác động vào "tổng cầu" của xã hội
nhằm hớng nền kinh tế đạt tới những mục tiêu nhất định nh: sản lợng cao, tốc độ
phát triển cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tỷ lệ lạm phát thấp, cân bằng cán cân thanh
toán, công bằng xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô...
Chính sách ngân sách bao gồm các biện pháp liên quan đến mức và cơ cấu
thu chi của ngân sách Nhà nớc. Bằng các công cụ nh thuế, trợ cấp, chi tiêu chính
phủ, phát hành trái phiếu chính phủcó thể quyết định các mức thu nhập của dân c
và các doanh nghiệp tác động đến đầu t và sản lợng và cuối cùng là tác động đến
thất nghiệp và lạm phát.
Các biện pháp áp dụng sẽ đụng chạm đến các quá trình kinh tế và sau đó
chúng sẽ tác động ngợc trở lại ngân sách Nhà nớc. Căn cứ vào tính chất tác động
mà có thể sửa đổi các biện pháp đó.
Chính sách ngân sách thờng nhằm vào những mục tiêu: thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, ổn định kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và đảm bảo công
bằng và ổn định xã hội.
Để thực hiện các mục tiêu của chính sách ngân sách các chính phủ sử dụng
nhiều các công cụ khác nhau nhng chung quy lại có thể đa về 3 loại công cụ là
thuế, trợ cấp và chi tiêu của chính phủ.
Với mọi mục tiêu cụ thể của chính sách ngân sách các chính phủ sẽ sử dụng
những công cụ nhất định để đạt đợc mục tiêu đó.
- Để thúc đẩy phát triển kinh tế phải tăng cờng đầu t cả đầu t của Nhà nớc và
đầu t t nhân. Nguồn của đầu t là từ thu nhập quốc dân, là tiết kiệm từ thu nhập

quốc dân, nh vậy phải tăng cờng huy động từ thu nhập quốc dân tăng cờng tiết
kiệm Nhà nớc có thể tăng huy động từ thuế hoặc tiết kiệm bằng cách giảm chi
tiêu. Tuy nhiên việc tăng thuế là một việc khó khăn, ảnh hởng xấu đến đầu t t
nhân. Để tăng đầu t t nhân Nhà nớc có thể giảm thuế, thực hiện các u đãi thuế và
trợ cấp cho các doanh nghiệp, khuyến khích đầu t t nhân.
- Trong thực hiện công bằng xã hội, cụ thể hơn là giảm bớt sự bất công trong
phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân c, giữa các vùng, Nhà nớc có thể sử dụng
thuế thu nhập luỹ tiến và thực hiện trợ cấp xã hội tới các đối tợng có thu nhập thấp
bằng quỹ ngân sách Nhà nớc.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- ổn định kinh tế là ngăn ngừa sự đi xuống của nền kinh tế ngăn ngừa giảm
phát, lạm phát, ổn định giá cả và ngăn ngừa thất nghiệp. Trong điều kiện nền kinh
tế có lạm phát cao cần phải tăng thuế và khống chế chi tiêu của chính phủ. Ngợc
lại trong thời kỳ suy thoái thất nghiệp cao cần giảm thuế và mở rộng chi tiêu của
chính phủ. Các loại thuế đợc sử dụng ở đây thờng là các loại thuế nhạy cảm về thu
và các khoản trợ cấp của chính phủ.
Nh vậy với mục tiêu cụ thể chính sách ngân sách sử dụng những công cụ
nhất định song cần lu ý rằng phải đợc đặt trong mối liên hệ trong sự phối kết hợp
giữa các công cụ chính sách khác. Nếu sử dụng các công cụ riêng rẽ thì khó có thể
đạt đợc các mục tiêu đề ra.
Trong chính sách ngân sách ngời ta thờng nhắc đến "các nhân tố cân bằng tự
động" và "chính sách ngân sách chủ quan".
"Các nhân tố cân bằng tự động" là các nhân tốtự động thay đổi khi tình hình
khác đi vào có xu hớng đa nền kinh tế trở lại trạng thái cân bằng. Các nhân tố cân
bằng tự động có thể nói đến là thuế và trợ cấp, khi thu nhập giảm xuống thì thuế
cũng tự động giảm theo. Trợ cấp thất nghiệp cũng vậy, nó tự động bơm tiền vào
hay rút tiền ra ngợc với chu kỳ kinh doanh.
Tuy nhiên cần lu ý thuế chỉ là "nhân tố cân bằng tự động" khi nó là thuế luỹ
tiến. Và "các nhân tố cân bằng tự động" chỉ có thể làm giảm sự giao động của chu

kỳ kinh doanh chứ không xoá bỏ đi hoàn toàn chu kỳ kinh doanh. Để có hiệu quả
cao hơn trong khả năng tác động đến chu kỳ kinh doanh Nhà nớc phải sử dụng đến
"chính sách ngân sách chủ quan", tức là bằng con đờng thông qua những biện
pháp phù hợp thay đổi một số các chơng trình, chỉ tiêu của mình, ví dụ thay đổi
thuế thay đổi chi tiêu, hoặc đa ra các chơng trình, chỉ tiêu mới.
Chính sách ngân sách có vị trí quan trọng. Trong quản lý vĩ mô nền kinh tế
nhng không phải bao giờ các biện pháp đa ra cũng đạt đợc mong muốn. Vì chính
sách ngân sách và việc thực hiện chính sách ngân sách còn chịu ảnh hởng của
nhiều nhân tố nh độ trễ, áp lực chính trị hơn nữa các quá trình kinh tế là liên quan
chặt chẽ với nhau tác động qua lại lẫn nhau và biến động không ngừng nên rất khó
dự báo đợc ảnh hởng của biện pháp này hay biện pháp khác.
Vai trò của chính sách ngân sách trong hệ thống điều chỉnh vi mô là rất quan
trọng và không thể phủ nhận. Do đó vấn đề hiệu quả và nâng cao hiệu quả của
chính sách ngân sách luôn đợc đặt ra. Để làm đợc điều này đòi hỏi phải có những
nghiên cứu công phu, cẩn trọng, đảm bảo độ chính xác cao, song lại đòi hỏi rút
ngắn về mặt thời gian giảm tác động của độ trễ, đồng thời phải có đợc dự báo
chính xác vào vận dụng và phải loại bỏ đợc những áp lực chính trị ra khỏi quá
trìnhlập soạn thảo và thực hiện chính sách ngân sách.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Thu ngân sách Nhà nớc
1. Chính sách thu và tác động của nó
Chính sách thu là một bộ phận quan trọng cấu thành của chính sách ngân
sách. Thông qua quá trình huy động các hình thức huy động mà Nhà nớc tham gia
vào các quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các nguồn vốn tiền tệ
khác để hình thành cơ sở tài chính cho mình. Hơn nữa thông qua chính các hình
thức huy động thu nhập đó Nhà nớc còn thực hiện các biện pháp tác động lên hoạt
động kinh tế nhằm đạt đợc các mục tiêu nhất định.
Mục tiêu của chính sách huy động là phải tạo đợc số thu cần thiết cho ngân
sách Nhà nớc và kích thích tăng trởng kinh tế. Để đảm bảo thực hiện các mục tiêu

đó chính sách huy động phải đảm bảo đợc các yêu cầu đảm bảo sự chắc chắn, ổn
định, công bằng và đơn giản.
Việc thực hiện các mục tiêu cơ bản của chính sách huy động có thể làm nảy
sinh những mâu thuẫn nhất định. Các biện pháp đa ra nhằm tăng thu cho ngân
sách nhà nớc có thể tác động ngợc lại đối với sự tang trởng kinh tế. Và ngợc lại
các biện pháp kích thích tăng trởng kinh tế có thể làm giảm số thu ngân sách nhà
nớc, thậm chí gây thâm hụt ngân sách Nhà nớc. Chính vì vậy các quyết định đa ra
cần phải có cân nhắc nhận trọng trên cơ sở phân tích kỹ tình hình cân đối ngân
sách, tình hình kinh tế xã hội và phải dự đoán tác động phụ do việc thực hiện
quyết định đó có thể gây ra.
Ngày nay ở hầu hết các nớc đều có một thực tế làchi ngân sách nhà nớc tăng
lên không ngừng do việc mở rộng vai trò của chính phủ đặc biệt là vai trò kinh tế
của chính phủ. Để đáp ứng các nhu cầu tăng thêm đó việc tăng thu ngân sách là
một vấn đề cấp thiết.
Trong các hình thức huy động cho ngân sách Nhà nớc thì thuế là loại thu chủ
yếu và quan trọng nhất. Do đó để tăng thu cho ngân sách nhà nớc ngời ta thờng áp
dụng các biện pháp nhằm vào chính sách thuế nh: Tăng mứcthuế, ban hành thêm
các loại thuế mới tận dụng các nguồn thu, cải tiến lại bộ máy quản lý thuế nhằm
tăng thu chi trên biểu thuế hiện hành, giảm thất thu do trốn tránh thuế và cải tiến
cơ bản toàn bộ hệ thống thuế.
Biện pháp tăng cờng mức thuế định kỳ có vẻ là biện pháp dễ thực hiện nhất vì
theo cách nghĩ đơn giản muốn tăng các khoản thu về thuế chỉ cần tăng thuế suất.
Nhng thực tế và lý thuyết đều cho thấy việc tăng thuế cha hẳn đã làm tăng số thu
vì trong hệ thống thuế tồn tại đặc tính "lỏng lẻo". Việc tăng thuế suất có thể tăng
những hậu quả với mức còn lớn hơn mức tăng thuế do đó mà làm giảm số thu về
thuế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giả sử việc tăng thuế suất nhập khẩu lên 10% có thể sẽ kéo theo sự gia tăng
về buôn lậu lên quá 10% và kết quả có thể sẽ làm cho số thu đợc giảm. Mặt khác

việc tăng thuế suất một số loại thuế lại là đi ngợc với các mục tiêu đề ra. Chẳng
hạn việc tăng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thờng đi ngợc với quá trình
sản xuất kinh doanh. Trên thực tế ở nhiều nớc việc giảm bớt mức thuế suất cao lại
làm tăng số thu về thuế.
Biện pháp nữa để tăng thu ngân sách nhà nớc là tạo thêm các hình thức thu mới, ở
nhiều nớc nhất là các nớc đang phát triển, do nhiều lý do khác nhau thờng có nhiều
nguồn thu bị bỏ quên, lĩnh vực dịch vụ cũng có thể mở rộng nguồn thu cho nhà nớc.
Đó là những loại dịch vụ có hệ số thu nhập rất nhạy cảm. Việc tạo thêm các hình thức
thu mới đối với các lĩnh vực trên không những làm tăng số thu về thuế mà còn góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
Thay đổi trong bộ máy quản lý thuế cũng là biện pháp hiệu quả và quan trọng.
Nó cho phép tăng số thu mà có thể không cần thay đổi về thuế, hay thuế suất. Khả
năng thu này đặc biệt lớn ở các nớc đang phát triển nơi thờng có bộ máy quản lý thuế
hoạt động kém hiệu qủa. Cán bộ thuế đào tạo thiếu hệ thống, thiếu luật thuế hoàn
chỉnh, phơng tiện kỹ thuật lạc hậu và đặc biệt nạn hối lộ rất phổ biến.
Thực tế cho thấy cứ một đồng hối lộ sẽ làm thiệt hại nhiều đồng cho thu ngân
sách nhà nớc. Đó là những yếu tố làm cho việc tránh thuế trốn thuế trở thành một
trong những vấn đề khó khăn nhất trong chính sách phát triển kinh tế cũng nh
chính sách huy động cho ngân sách ở các nớc này. Do đó việc cải tiến bộ máy
quản lý thuế và nâng cao vai trò của hệ thống pháp luật có thể làm tăng một cách
đáng kể số thu cho ngân sách mà không cần tăng thuế suất.
Biện pháp cải cách cơ bản hệ thống thuế là một biện pháp khó thực hiện nhất
nhng đó cũng là biện pháp mang lại hiệu quả lớn nhất. Việc thực hiện biện pháp này
đòi hỏi xoá bỏ hoàn toàn hệ thống thuế cũ và thay vào đó bằng hệ thống thuế mới,
những luật lệ, quy định mới. Đây là vấn đề lớn tác động mạnh đến nhiều vấn đề trong
xã hội và đòi hỏi phải có một nỗ lực rất lớn trong thời gian dài.
Việc kích thích tăng trởng kinh tế thờng đợc các chính phủ sử dụng qua việc
sử dụng hệ thống các u đãi về thuế. Trên thực tế nhiều khi các biện pháp này bị
lạm dụng và các quy định u đãi nhiều đến mức làm cho việc tính thuế trở nên phức
tạp gây ra nhiều khe hở cho việc tránh thuế trốn thuế. Có những trờng hợp các u

đãi làm cho một số loại thuế mất tác dụng chính vì thế, mà các yếu tố u đãi về
thuế đợc coi là những yếu tố làm xói mòn cơ sở thuế và nhiều nớc đã xoá bỏ hoàn
toàn các u đãi về thuế trong quá trình cải cách thuế, thay vào đó là những mức
thuế thấp và đơn giản.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài thuế ra còn có rất nhiều biện pháp khác huy động cho ngân sách nhà
nớc. Các chính sách huy động này đều có những ảnh hởng tác động nhất định đòi
hỏi cũng phải đợc cân nhắc, đánh giá, xem xét mức độ ảnh hởng và tuỳ theo
những mục tiêu nhất định mà lựa chọn những biện pháp, chính sách tối u.
Chính sách huy động cho ngân sách có thể tác động tới vấn đề công bằng xã
hội. Tác động ở đây có thể là tác động hai mặt nghĩa là chính sách huy động thu ngân
sách Nhà nớc có thể làm thúc đẩy công bằng xã hội hoặc ngợc lại nó cũng có thể làm
cho mất công bằng trở nên trầm trọng hơn. Tác động tích cực hay tiêu cực là phụ
thuộc vào cả bản thân chính sách huy động và phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của
nền kinh tế xã hội, vào giai đoạn phát triển và tình trạng hiện thời của nền kinh tế xã
hội. Đó cũng là tính lịch sử cụ thể của chính sách này.
2. Các loại thu ngân sách nhà nớc.
Thu của ngân sách nhà nớc là toàn bộ các khoản thu tập trung vào trong tay
của nhà nớc để hình thành nên quỹ ngân sách. Thu ngân sách nhà nớc đợc tập
trung từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn thu chủ yếu là từ thu nhập quốc
dân. Giữa thu nhập quốc dân và thu ngân sách có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tăng thu nhập quốc dân là cơ sở để tăng thu ngân sách nhà nớc và quá trình huy
động thu nhập quốc dân vào ngân sách và quá trình chi ngân sách cùng có những
tác động kích thích tăng thu nhập quốc dân.
Thu ngân sách nhà nớc bao gồm các khoản thu từ thuế, thu từ lệ phí, thu từ tài
sản của nhà nớc. Hiểu theo nghĩa rộng thu ngân sách nhà nớc còn bao gồm các khoản
vay nhà nớc, các khoản viện trợ và thu về phát hành. Trong các loại thu trên thuế là
loại thu chủ yếu nó chiếm tới 80- 90% tổng số thu ngân sách nhà nớc.
- Thu về lệ phí bao gồm: lệ phí giao thông, lệ phí chứng th, phí hành chính,

phí chuyển nhợng tài sản chúng thờng đợc trả bằng tiền mặt và mức độ nộp tuỳ
vào từng loại từng vụ việc cụ thể. Trong nhiều trờng hợp mức trả lệ phí không
ngang bằng với chi phí phục vụ. Có trờng hợp lệ phí lớn hơn rất nhiều lần so với
chi phí phục vụ, đó là những lệ phí có tính chất thuế. Ngợc lại có những trờng hợp
lệ phí thấp hơn nhiều so với chi phí phục vụ, đó là những lệ phí không mang tính
chất thuế.
- Thu về tài sản của nhà nớc bao gồm các khoản thu về bán và cho thuê các
tài sản của Nhà nớc. Nhà nớc có thể bán các xí nghiệp quốc doanh cũ hoặc xây
dựng mới rồi bán hoặc cho t nhân thuê. Trong nền kinh tế thị trờng nhà nớc có thể
là một cổ đông. Nhà nớc tham gia vào các công ty cổ phần và dĩ nhiên sẽ đợc h-
ởng cổ tức từ các cổ phần của mình.
- Trong quá trình điều hành ngân sách có thể phát sinh thiếu hụt. Thiết hụt
này có thể là thiếu hụt tạm thời do quá trình thu chậm hơn quá trình chi hoặc thâm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hụt ngân sách do tổng số chi vợt quá tổng số thu. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách,
Nhà nớc phải dùng các biện pháp vay nợ. Đối tợng vay có thể là dân c bằng phát
hành trái phiếu, tín phiếu vay ngân hàng nhà nớc, vay nớc ngoài có thể là vay
chính phủ các nớc hoặc các tổ chức quốc tế. Các khoản vay có điều kiện u đãi đợc
gọi là viện trợ.
Nợ nớc ngoài của các nớc đang phát triển đang ngày một gia tăng, việc trả nợ
lãi suất và thanh toán nợ đến hạn đang là vấn đề đau đầu cho các chính phủ. Tuy
nhiên tình hình tài chính khó khăn và vì mục tiêu phát triển các chính phủ vẫn tiếp
tục phải vay nợ. Vay nợ không hoàn toàn là tiêu cực song vấn đề đặt ra là phải sử
dụng triệt để hiệu quả các khoản vay đó, chống lại các nguy cơ đổ vỡ tài chính,
đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong tơng lai.
Trong quá trình quản lý ngân sách ngời ta thờng phân loại thu ngân sách nhà
nớc theo nhiều tiêu chức khác nhau:
- Căn cứ vào tính chất các loại thu có thể chia thành: thu về thuế và thu về
phí, lệ phí; thu về tài sản của nhà nớc và thu về vay, viện trợ

- Căn cứ vào mối quan hệ đối với cân đối ngân sách nhà nớc. Có thể phân
làm 2 loại: thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách (thu
ngoài cân đối). Trong đó thu trong cân đối gồm: thu từ thuế, phí, lệ phí, thu từ tài
sản của Nhà nớc. Thu bù đắp thâm hụt ngân sách gồm vay nợ, viện trợ và trong
một số trờng hợp còn gồm cả thu về phát hành.
- Căn cứ vào nguồn hình thành có thể phân thành thu trong nớc, thu từ nớc
ngoài. Hoặc thu từ trong khu vực kinh tế nhà nớc và thu từ khu vực ngoài kinh tế
nhà nớc.
Nh vậy có rất nhiều cách phân loại. Các phơng pháp phân loại trên đây đợc đ-
a ra nhằm đáp ứng các nhu cầu nhất định trong công tác quản lý và khai thác các
nguồn thu của ngân sách. Trong đó phơng pháp phân loại theo tính chất các loại
thu là phơng pháp đợc sử dụng chủ yếu. Nó giúp các nhà làm chính sách đa ra các
quyết định về chính sách huy động tốt hơn và nó cho thấy rõ quá trình hình thành
quỹ ngân sách nhà nớc.
3. Thuế.
Thuế là một trong các loại thu của ngân sách nhà nớc. Thuế đem lại nguồn
thu chủ yếu cho ngân sách nhà nớc và có tầm quan trọng đặc biệt. Nó tác động tới
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tác động đến công bằng xã hội, tác động đến sản
lợng sự tăng trởng và phát triển của nền kinh tế. Chính vì thuế có một vai trò quan
trọng nh vậy nên nó đợc xem xét riêng một cách kỹ lỡng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trớc hết thuế là khoản đóng góp bắt buộc đợc quy định thành luật các tổ
chức kinh tế và dân c phải có nghĩa vụ đóng góp thuế cho ngân sách nhà nớc.
Thuế thể hiện mối quan hệ phân phối lại thu nhập của dâ c và các tổ chức kinh tế
cho nhà nớc. Thuế do nhà nớc ban hành, chỉ có Nhà nớc mới có quyền thay đổi,
nộp thuế là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế và dân c. Thuế thờng đợc thu bằng
tiền, có trờng hợp thuế đợc tính bằng hiện vật.
Thuế thờng đánh vào lu thông, tiêu thụ, các loại thu nhập và giá trị tài sản.
Đối tợng chịu thuế thì rất khác nhau và cách đánh thuế nên mỗi đối tợng cũng rất

khác nhau.
Trong các chính sách thuế thuế suất thờng đợc quan tâm đặc biệt thuế suất là
linh hồn của mỗi chính sách thuế. Nó có thể quy định bằng mức thu tuyệt đối hoặc
tỷ lệ phần trăm trên mỗi đơn vị chịu thuế.
Thuế suất tỷ lệ cũng có nhiều loại khác nhau nh thuế suất tỷ lệ cố định, thuế
suất luỹ tiến, thuế suất luỹ thoái, thuế suất luỹ tiến từng phần và thuế suất luỹ
thoái từng phần.
- Thuế suất tỷ lệ cố định là mức thu đợc quy định bằng tỷ lệ phần trăm không
đổi cho mỗi loại đối tợng chịu thuế không phụ thuộc vào quy mô lớn hay nhỏ.
- Thuế suất luỹ tiến (toàn phần) là áp dụng thuế suất cao nhất ứng với quy mô
đối tợng chịu thuế cho toàn bộ đối tợng chịu thuế
- Thuế suất luỹ tiến từng phần là áp dụng thuế suất tăng dần cho từng phần
tăng lên của quy mô đối tợng chịu thuế.
Tơng tự nh thế ta có các thuế suất luỹ thoái toàn phần và thuế suất luỹ thoái
từng phần: tuỳ vào từng trờng hợp mà áp dụng mức thuế suất nào cho phù hợp.
Ngời ta còn phân biệt thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế gián thu là thuế mà
đối tợng nộp thuế không phải là đối tợng chịu thuế. Đối tợng nộp thuế chỉ là ngời
thu hộ từ đối tợng chịu thuế và nộpcho nhà nớc. Còn thuế trực thu thì đối tợng nộp
thuế chính là đối tợng chịu thuế.
Thông thờng thuế gián thu là thuế đánh vào lu thông, nó động viên một phần
thu nhập của ngời tiêu dùng. Thuế gián thu nằm trong giá bán hàng hoá do đó nó
dễ bị che khuất và việc đánh thuế ít gây chống đối, phản ứng của đối tợng chịu
thuế. Các loại thuế gián thu nh thuế doanh thu, thuế hàng hoá (đánh vào những
mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng, những mặt hàng độc hại, và cả những
mặt hàng xa xỉ), thuế nhập khẩu.
Hầu hết các loại thuế gián thu là có tính chất hơi luỹ thoái, nó đóng góp một
phần quan trọng cho tổng thu ngân sách nhà nớc, việc chối bỏ chúng là không
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện thực, đặc biệt với các mức đang phát triển chúng đợc coi là một nguồn lý t-

ởng để tăng thu ngân sách.
Thuế trực thu đánh trực tiếp vào đối tợng chịu thuế, đối tợng chịu thuế cũng
chính là đối tợng nộp thuế. Chính vì vậy, loại thuế này rất dễ nhận biét và việc
đánh thuế dễ gây phản ứng từ đối tợng bị đánh thuế.
Thuế trực thu có các loại nh thuế lợi tức, thuế thu nhập các nhân, thuế lợi tức
là thuế đánh trên tổng lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. Thuế thu nhập cá
nhân là loại thuế đánh trên thu nhập của mỗi cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân là
loại thuế có tính chất luỹ tiến cao nhất. Trong các nớc phát triển thuế thu nhập cá
nhân là loại thu quan trọng nhất của ngân sách nhà nớc. Thuế thu nhập cá nhân đ-
ợc coi là loại thuế tiến bộ nhất vì nó có vai trò giảm bớt khoảng cách giữa ngờicó
thu nhập cao và ngời có thu nhập thấp trong xã hội và nhờ nó là loại thuế luỹ tiến
nên nó là công cụ điều tiết tự động rất tốt, là loại thuế nhạy cảm về thu nó có vai
trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô.
Nếu nh thuế gián thu có tính hơi luỹ thoái thì thuế trực thu lại có tính luỹ
tiến. Vì vậy xét về mặt xã hội thuế trực thu tiến bộ hơn thuế gián thu. Tuy nhiên
không có cái gì là hoàn toàn tốt, bên cạnh tính chất tiến bộ của thuế trực thu còn
có cả những tác động ngợc chiều của nó đối với quá trình phát triển nói chung.
Vấn đề một chính sách thuế, nh thế nào là hợp lý và phù hợp với nền kinh tế, phù
hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội, đáp ứng đợc yêu cầu của Nhà n-
ớc và khuyến khích đợc tăng trởng kinh tế là vấn đề nan giải đối với nhiều nhà làm
chính sách của nhiều quốc gia.
III. Chi ngân sách nhà nớc
1. Chính sách chi và tác động của nó
Chính sách chi ngân sách là chính sách sử dụng thu nhập của ngân sách để
phục vụ cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nớc. Quá trình sử
dụng thu nhập của ngân sách vào việc gì và nh thế nào có tác động lớn đến việc
thực hiện các mục tiêu của chính sách ngân sách. Tuy nhiên mức độ tác động còn
phụ thuộc vào tính đúng đắn của quyết định đợc đa ra.
Thông thờng chính sách chi ngân sách đợc đa ra nhằm vào các mục tiêu nh
thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế thực hiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế. Để

thực hiện các mục tiêu đó Nhà nớc thờng sử dụng các biến số nh trợ cấp, và tiêu
dùng chính phủ. Trong đó tiêu dùng chính phủ gồm nhiều mục nh chi tiêu cho đầu
t phát triển, chi mua hàng hoá dịch vụ công cộng. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và tình
hình kinh tế xã hội mà có thể thay đổi tổng chi, cơ cấu chi và cơ cấu của từng loại
chi.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để đạt đợc mục tiêu kích thích sự tăng trởng kinh tế, chính phủ có thể thực
hiện các biện pháp u đãi về thuế và có thể thực hiện các biện pháp khác của chính
sách ngân sách, trong đó chính sách chi ngân sách rất quan trọng đặc biệt chi cho
đầu t.
- Chi đầu t của chính phủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế. Nó tạo ra điều kiện và môi trờng thuận lợi cho đầu t t nhân. Nói khác đi
đầu t của chính phủ tạo ra sự khởi động ban đầu kích thích quá trình vận động vốn
kích thích thu hút đầu t t nhân để hớng tới sự tăng trởng kinh tế. Tuy nhiên không
phải lúc nào đầu t của chính phủ cũng góp phần vào sự nghiệp tăng trởng. Điều
này chỉ đạt đợc khi lựa chọn đối tợng đầu t của chính phủ là đúng đắn. Thực tế cho
thấy tác hại của việc lựa chọn đối tợng đầu t không phù hợp là rất to lớn, vốn ngân
sách bị sử dụng lãng phí, các công trình xây dựng không mang lại hiệu quả kinh tế
và gây ra tình trạng căng thẳng triền miên trong ngân sách nhà nớc. Những hậu
quả đó lại tác động ngợc trở lại quá trình tăng trởng, kìm hãm sự tăng trởng.
- Các khoản chi ngân sách nhà nớc để trợ cấp cho một số doanh nghiệp trong
trờng hợp đặc biệt cũng góp phần không nhỏ cho sự nghiệp, phát triển kinh tế xã
hội. Kinh nghiệm nhiều nớc cho thấy thay thế các u đãi bằng thúc đẩy các khoản
trợ cấp có tác dụng lớn hơn nhiều trong việc khuyến khích phát triển. Hơn nữa nó
còn làm giảm một cách đáng kể những bất cập do các quy định miễn giảm thuế
gây ra, làm giảm tính phức tạp, chồng chéo của hệ thống thuế, nâng cao năng lực
của hệ thống thuế.
- Một trong những mục tiêu của chính sách ngân sách là thực hiện công bằng
xã hội. Trong đó chính sách thu có những tác động nhất định đến việc thực hiện

các mục tiêu đó, nhng hạn chế của chính sách thu là cha thể thực hiện đợc triệt để
mục tiêu này. Muốn thực hiện đợc chúng ta phải nhấn mạnh đến chính sách chi.
Cơ chế thị trờng tạo ra sự phân hoá giàu nghèo. Ngoài việc đánh thuế thu nhập,
Nhà nớc còn phải sử dụng các hình thức trợ cấp từ ngân sách nhà nớc. Các khoản
trợ cấp đó có ý nghĩa lớn đối với tầng lớp dân c có thu nhập thấp, chúng làm tăng
đáng kể thu nhập của họ. Các khoản trợ cấp cho giáo dục, trợ cấp cho y tế có ý
nghĩa lớn đối với việc nâng cao dân trí và đảm bảo sức khoẻ cho dân c. Để tăng c-
ờng tác động của chính sách chi ngân sách nhà nớc đối với việc giảm bớt sự bất
công trong phân phối thu nhập cũng phải đặc biệt lu ý tới cơ cấu chi tránh chi dàn
trải, có tính chất bình quân ví dụ việc chú trọng cho các chơng trình công cộng ở
nông thôn có tác động nhiều hơn đến việc giảm bớt sự bất công trong phân phối
thu nhập. So với ở thành phố vì đa số ngời nghèo sống ở nông thôn.
- Chính sách chi cũng có tác động đến việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh
tế. Trong trờng hợp thất nghiệp các Nhà nớc có thể tăng chi tiêu chính phủ từ đó
kích thích tổng cầu mở rộng đầu t tạo thêm công ăn việc làm tuy nhiên nếu chi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiêu vợt thu quá mức sẽ dẫn đến lạm phát. Vì vậy để kìm hãm lạm phát phải khống
chế tiêu dùng của chính phủ, đặc biệt đối với các nớc đang phát triển, nơi lạm phát
thờng ở mức cao, chi tiêu chính phủ lại kém hiệu quả. Trong trờng hợp bình thờng,
việc tiết kiệm tiêu dùng chỉ cùng góp phần làm tăng tiết kiệm và từ đó có thể mở
rộng đầu t để thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trên thực tế thì mọi vấn đề không hoàn toàn đơn giản và trôi chảy nh lý luận.
Đòi hỏi với chính sách ngân sách nói chung và chính sách chi ngân sách nói riêng
phải đợc vận dụng một cách khéo léo, phải kết hợp đợc với các chính sách tiền tệ
để hạn chế và loại trừ sự bất ổn định về kinh tế.
2. Các loại chi ngân sách chủ yếu
Các khoản chi của ngân sách nhà nớc có vai trò rất lớn đối với việc thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của nhà nớc. Việc mở rộng vai trò của nhà nớc làm cho chi
tiêu ngân sách ở hầu hết các quốc gia gia tăng liên tục, thậm chí tốc độ tăng của chi

ngân sách nhà nớc còn lớn hơn tốc độ tăng của tổng sản phẩm xã hội.
Chi ngân sách nhà nớc có nhiều loại khác nhau dựa vào các tiêu thức khác
nhau, ngời ta có thể có nhiều cách phân loại chi ngân sách nhà nớc khác nhau.
- Căn cứ vào mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng có thể phân chia ngân
sách nhà nớc thành 2 loại chi lớn:
+ Chi tích luỹ: là các khoản chi đầu t xây dựng cơ sở vật chất cho lĩnh vực
kinh tế, lĩnh vực phi kinh tế và lĩnh vực dự trữ
+ Chi tiêu dùng: bao gồm tất cả các khoản chi ngoài tích luỹ
- Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ của nhà nớc chi ngân sách nhà nớc có thể
phân thành:
+ Chi phát triển kinh tế: bao gồm các khoản chi đầu t xây dựng và duy trì
hoạt động các cơ sở kinh tế của nhà nớc, chi trợ giá, trợ cấp cho các doanh nghiệp
t nhân.
+ Chi văn hoá xã hội: Bao gồm các khoản chi đầu t và chi thờng xuyên cho
các tổ chức thuộc lĩnh vực văn hoá xã hội, chi trợ cấp xã hội.
+ Chi quản lý hành chính: Bao gồm các khoản chi để duy trì hoạt động của
các cơ quan hành chính, các cơ quan chính quyền.
+ Chi quốc phòng: Bao gồm các khoản chi để duy trì lực lợng quốc phòng.
+ Chi khác: Bao gồm chi trả nợ, viện trợ cho vay...
- Căn cứ vào nội dung các khoản chi có thể chia thành:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Chi đầu t: Bao gồm chi đầu t cho cả lĩnh vực sản xuất, không sản xuất, và
chi dự trữ nhà nớc về đầu t.
+ Chi trợ cấp: Bao gồm các khoản chi bùgiá, trọ cấp cho các DNNN, trong tr-
ờng hợp đặc biệt có thể là doanh nghiệp t nhân khi thu nhập không đủ bù đắp chi
phí do giá bị khống chế, hoặc trợ cấp để khuyến khích phát triển.
+ Chi bù giá hàng tiêu dùng: Bao gồm các khoản chi của ngân sách nhằm
làm tăng thu nhập thực tế của ngời tiêu dùng. Nó đợc thể hiện bằng cách bù giá
vào lơng hoặc trợ cấp cho các doanh nghiệp để họ bán hàng với giá thấp hơn giá

trị của chúng.
+ Chi tiêu dùng chung là các khoản liên quan đến tiêu dùng chung của công
cộng. Những nhu cầu tiêu dùng chung không phát sinh trên cơ sở thị trờng mà trên
cơ sở lợi ích chung. Tiêu dùng chung ít động chạm đến lợi ích của từng cá nhân,
do đó nhà nớc phải cấp phát để duy trì chúng.
- Ngoài ra chúng ta còn có thể phân chia chi ngân sách thành:
+ Chi thờng xuyên
+ Chi đầu t
+ Chi trả nợ
Việc phân loại chi ngân sách nhà nớc đợc dựa trên các căn cứ ở trên là nhằm
phục vụ cho mục đích nghiên cứu những hớng nghiên cứu cụ thể, phục vụ cho
công tác quản lý và hoạch định các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nớc. Sau đây
chúng ta sẽ xem xét chi ngân sách nhà nớc theo cách phân loại dựa vào các chức
năng nhiệm vụ của Nhà nớc.
a. Chi phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của các nhà nớc hiện đại. Để đạt đợc
sự phát triển chính phủ phải hoạch định đợc chiến lợc phát triển đúng đắn, phù hợp
và cần phải có vốn đầu t của Nhà nớc.
Đối tợng đầu t của Nhà nớc thờng là những công trình thuộc kết cấu hạ tầng,
các ngành kinh tế mũi nhọn và những công trình kinh tế không thể dựa vào đầu t t
nhân, nhng hoạt động của chúng cần thiết cho xã hội.
Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển là tiền đề cho sự phát triển kinh tế nói
chung, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở mang đầu t vào các ngành kinh tế và
ngợc lại một hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển kinh
tế. Việc xây dựng các công trình thuộc cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu t lớn, thời
gian dài và thờng chúng không mang lại lợi nhuận trực tiếp mà hiệu quả của
chúng thể hiện ở sự phát triển kinh tế chung.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các ngành công nghiệp non trẻ cũng cần có vốn đầu t của Nhà nớc. Sự phát

triển của các ngành này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành kinh tế khác
chi đầu t của ngân sách nhà nớc không chỉ bao gồm đầu t mới mà còn bao gồm cả
đầu t mở rộng và đầu t theo chiều sâu. Đầu t theo chiều sâu có ý nghĩa quan trọng
đối với quá trình phát triển. Hiệu quả kinh tế của chúng thờng lớn hơn đầu t theo
chiều rộng, vì nhu cầu vốn đầu t nhỏ hơn và thời gian thu hồi vốn cùng ngắn hơn.
Ngoài chi cho đầu t, Nhà nớc còn tiến hành cấp phát cho các xí nghiệp Nhà
nớc để duy trì hoạt động của cấp phát bảo dỡng các công trình đang hoạt động,
nhà nớc còn chi đảm nhiệm các hàng hoá thiết yếu, để khuyến khích đầu t t nhân
Nhà nớc tiến hành bù giá hoặc trợ cấp cho các doanh nghiệp t nhân dới nhiều hình
thức.
Nh vậy chi ngân sách nhà nớc cho phát triển kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển. Nó vừa tạo tiền đề vừa khuyến khích và định h-
ớng cho sự nghiệp phát triển tác động vào việc tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý.
b. Chi văn hoá xã hội
Chi văn hoá xã hội bao gồm các khoản chi của ngân sách nhà nớc cho nhu
cầu của xã hội về đào tạo giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội và trợ cấp xã hội. Quy mô
chi ngân sách nhà nớc cho lĩnh vực này phụ thuộc vào khả năng của ngân sách và
chính sách xã hội của nhà nớc.
Chi văn hoá xã hội là khoản chi cần thiết không thể thiếu đối với xã hội vì nó
liên quan trực tiếp với việc nâng cao dân trí và bảo đảm sức khoẻcho nhân dân,
những vấn đề này có liên quan trực tiếp với tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng tr-
ởng kinh tế. Cũng chính vì lý do đó mà các khoản chi về đào tạo, giáo dục, y tế
còn có thể gọi là các khoản chi tích luỹ vì đó chính là các khoản đầu t vào con ng-
ời cho tơng lai.
Chi văn hoá xã hội của ngân sách nhà nớc còn là phơng tiện để nhà nớc thực
hiện quá trình phân phối lại thu nhập nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội. Các
khoản chi văn hoá xã hội thờng đợc cấp theo dự toán. Dự toán kinh phí hoạt động này
thờng đợc xây dựng dựa trên các định mức chi, tiêu chuẩn chi.
c. Chi quản lý hành chính
Chi quản lý hành chính là khoản chi không liên quan trực tiếp đến sản xuất

nhng rất cần thiết cho xã hội, nó đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ quan
hành chính các cơ quan chính quyền nhà nớc.
Chi quản lý hành chính bao gồm chi về lơng, phụ cấp cho viên chức nhà nớc,
chi mua sắm bảo dỡng trang thiết bị, đồ dùng làm việc, chi phí văn phòng, chi phí
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp vụ, trong đó chi phí mua sắm bảo dỡng trang thiết bị và chi lơng là các
khoản chi chủ yếu. Đối tợng của chi quản lý hành chính là bộ máy hành chính của
chính quyền các cấp. Các cơ quan lập pháp hành pháp, các cơ quan và bộ máy
cảnh sát.
Bộ máy hành chính của các nớc hiện nay đều khá lớn và ngày càng tăng
nhanh về số lợng. Do đó chi ngân sách nhà nớc cho quản lý hành chính chiếm một
tỷ lệ không nhỏ trong tổng ngân sách nhà nớc song vẫn không đáp ứng đợc nhu
cầu chi. Lơng của viên chức nhà nớc thờng bị khống chế ở mức thấp nên khó duy
trì và thu hút đợc các nhà quản lý, th ký và cán bộ kỹ thuật giỏi để đảm bảo hoạt
động có hiệu quả của bộ máy nhà nớc.
d. Chi quốc phòng
Chi quốc phòng bao gồm chi đầu t xây dựng các công trình quốc phòng, chi
mua sắm, bảo dỡng các phơng tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động quốc phòng,
chi trang bị cho quân đội, chi lơng, chi nuôi quân và các chi phí khác. Chi quốc
phòng lớn hay nhỏ là tuỳ thuộc vào tình hình chính trị an ninh quốc phòng của đất
nớc trong mỗi thời kỳ.
Chi quốc phòng thờng đợc gọi là chi tiêu dùng đặc biệt, nó là gánh nặng của
ngân sách nhà nớc, nhng không thể bỏ qua nó không thể không duy trì lực lợng
phòng thủ quốc gia. Tuy nhiên chỉ nên duy trì ở một mức cần thiết. Nếu chi quá
cao thì ngân sách nhà nớc sẽ không thể chịu đựng đợc và thu hẹp khả năng chi cho
các lĩnh vực khác.
Chi quốc phòng là lĩnh vực chi khó quản lý, vì có nhiều vấn đề thuộc bí mật
quốc gia, bí mật quân sự. Để giảm chi quốc phòng chính phủ có thể áp dụng các
chính sách ngoại giao mềm dẻo để hạn chế và loại trừ các mối đe doạ từ bên ngoài.

e. Chi dự trữ và chi trả nợ
- Chi dự trữ là khoản chi để lập dự trữ quốc gia nhằm mục tiêu điều chỉnh thị
trờng, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá, và phòng ngừa đối với những rủi ro bất ngờ
xảy ra đối với nền kinh tế tài chính của đất nớc. Dự trữ quốc gia bao gồm dự trữ
bằng tiền, ngoại tệ, vàng và các loại hàng hoá vật t cần thiết.
Dự trữ quốc gia có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Nên lực lợng quá mỏng thì vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nớc
khó mà thực hiện đợc.
- Chi trả nợ là chi trả lãi tiền vay và thanh toán các khoản nợ đến hạn. Vấn đề
nợ nhà nớc đang là vấn đề làm đau đầu các quốc gia, đặc biệt là các nớc đang phát
triển. Sở dĩ có tình trạng này là vì vai trò của nhà nớc ngày càng mở rộng, đòi hỏi
phải tăng chi lớn, trong khi các chính phủ lại phải thực hiện các biện pháp cắt
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giảm thuế để khuyến khích phát triển do đó làm giảm nguồn thu. Để cân đối ngân
sách nhà nớc chính phủ buộc phải vay nợ. Do đó các khoản nợ ngày càng tăng, và
do đó chi trả nợ cũng ngày càng lớn và là vấn đề bức bách với các quốc gia.
IV. Cân đối ngân sách nhà nớc- bội chi và định hớng các
biện pháp xử lý bội chi
1. Lý luận về cân đối ngân sách nhà nớc
Một trong những vấn đề quan trọng của quá trình kế hoạch hoá ngân sách là
cân đối ngân sách tức là tìm kiếm các biện pháp để cân đối các khoản thu với các
khoản chi.
Tổng thu nhập của ngân sách nhà nớc hiểu theo nghĩa rộng bao gồm thuế,
các khoản thu không phải thuế, các khoản vay nợ và các khoản phát hành, tổng
này luôn luôn bằng tổng chi ngân sách khi ngân sách cân đối. Khi ngân sách có
thiếu hụt thì thiếu hụt ngân sách bằng tổng các khoản thu ngân sách nhà nớc trừ đi
các khoản chi ngân sách nhà nớc hay bằng tổng chi tiêu của chính phủ trợ cấp và
chi trả nợ, cho vay trừ đi tổng thuế và các khoản thu không phải là thuế. Chính vì
thế mà thuế và các khoản thu không phải thuế đợc gọi là các khoản thu trong cân

đối, còn các khoản thu về vay nợ, phát hành là các khoản thu để cân đối ngân
sách.
Có những quan điểm khác nhau về cân đối ngân sách nhà nớc. Quan điểm
thứ nhất là xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của chính phủ để thu. Quan điểm thứ hai
là xuất phát từ khả năng thu của chính phủ để bố trí chi.
Quan điểm thứ nhất đợc coi là tích cực hơn và gọi đó là cân đối tích cực. Ph-
ơng pháp cân đối nh vậy tạo đợc thế chủ động cho ngân sách nhà nớc, nhng nó đòi
hỏi phải có hệ thống thu và bộ máy thu đủ mạnh và việc tính toán các nhu cầu chi
phải có cơ sở khoa học đúng đắn.
Quan điểm thứ hai gọi là cân đối thông thờng. Nó có thể làm cho ngân sách
rơi vào thế bị động. Nhng đối với các nớc đang phát triển nó có vẻ phù hợp hơn.
Hơn nữa phơng pháp cân đối nh vậy sẽ đảm bảo hạn chế đợc thâm hụt ngân sách.
Việc bố trí các thứ tự u tiên các loại chi ngân sách có thể khác nhau tuỳ thuộc
vào tình hình kinh tế xã hội của từng nớc trong từng giai đoạn khác nhau. Chính
phủ có thể u tiên các khoản chi cho đầu t sau đó mới đến chi cho tiêu dùng hoặc
ngợc lại.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung vai trò đầu t phát triển kinh tế của
Nhà nớc rất quan trọng nó đảm bảo hầu nh toàn bộ vốn đầu t vào lĩnh vực kinh tế.
Do vậy việc cân đối ngân sách đợc thực hiện u tiên chi cho đầu t trớc sau đó mới
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đến tiêu dùng. Trong thực tế vì nguồn thu hạn chế, nhu cầu chi đầu t lớn trong khi
các nhu cầu chi thờng xuyên của chính phủ cũng không thể giảm nên việc cân đối
ngân sách luôn bị động và thờng có thiếu hụt lớn trong ngân sách nhà nớc.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng vấn đề lại khác, cấp phát từ ngân sách
nhà nớc không còn là nguồn vốn đầu t chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế vì thế việc
cân đối ngân sách lại dựa trên một nguyên tắc khác. Từ tổng số thu trong cân đối
ngân sách ngời ta bố trí cho tiêu dùng còn lại mới bố trí cho đầu t. Nếu nhu cầu
đầu t lớn hơn khả năng của ngân sáhc, chính phủ sẽ tiến hành các biện pháp vay
nợ để đầu t. ở đa số các nớc ngời ta nghiêm cấm việc phát hành để đầu t.

Xuất phát từ cách cân đối thứ hai mà chính phủ phải thận trọng hơn trong
việc lập kế hoạch đầu t, phải chú ý nhiều hơn đến hiệu quả vốn đầu t. Cách cân đối
ngân sách nh vậy tạo ra thế chủ động rất lớn cho chính phủ trong việc đối phó với
các biến động của nền kinh tế xã hội.
Trớc hết chính phủ giải quyết nhu cầu ổn định đời sống và trật tự xã hội, và
hơn nữa nó cũng định ra một phạm vi giới hạn của chi cho tiêu dùng. Chi cho tiêu
dùng chỉ đợc phép nằm trong giới hạn các khoản thu trong cân đối ngân sách. Còn
nguồn thu về vay nợ chỉ đợc dùng cho đầu t.
Trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nớc, có thể xảy ra các trờng hợp
các khoản thu bằng các khoản chi, các khoản thu lớn hơn các khoản chi, các
khoản thu nhỏ hơn các khoản chi, khi đó tơng ứng ta sẽ có ngân sách cân đối,
ngân sách thặng d, và ngân sách thâm hụt. (Các khoản thu ở đây gồm thuế và thu
nhập không phải thuế). Có nhiều tranh luận khác nhau xung quanh vấn đề ngân
sách nào là tốt nhất trong các loại ngân sách cân bằng thặng d, hay thâm hụt. Khó
có một câu trả lờichính xác, đúng trong mọi trờng hợp. Đối với các nhà kinh tế
học cổ điển thì công thức vàng cân bằng ngân sách phải tôn trọng nghiêm ngặt.
Nhà nớc không đợc chi tiêu quá khả năng thu từ nền kinh tế, không đợc phát hành
tiền hoặc vay nợ để bù đắp chi tiêu. Theo họ ngân sách không đợc phép có bội thu
cũng không đợc phép có bội chi. Nếu bội thu chứng tỏ nhà nớc đã sử dụng các
biện pháp thu qúa mức điều đó làm kìm hãm sản xuất kinh doanh, kìm hãm sự
phát triển kinh tế của đất nớc. Nếu bội chi thì nhà nớc phải tiến hành các biện
pháp tăng thuế, vay nợ hoặc phát hành để tài trợ thâm hụt. Song những biện pháp
này đều có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, hơn nữa nếu lạm dụng phát hành
hoặc vay nợ quá nhiều thì sớm muộn ngân sách nhà nớc sẽ đối mặt với tình trạng
nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ lãi con nền kinh tế sẽ bị đẩy vào vòng luẩn quẩn: lạm
phát- suy thoái.
Tuy nhiên một ngân sách cân bằng không phải lúc nào cũng tốt, thực tế của
nền kinh tế thế giới đã chứng tỏ rằng những lập luận trên chỉ đúng trong bối cảnh
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

nền kinh tế hàng hoá còn sơ khai. Vai trò của nhà nớc cha đợc mở rộng, hoặc
trong điều kiện nền kinh tế phải rất giàu có, ngân sách phải có đủ nguồn tài chính
để đảm bảo nhu cầu chi tiêu hàng năm của nhà nớc.
Quan điểm ngân sách cân bằng tuyệt đối chỉ đúng trong môi trờng kinh tế
cạnh tranh tự do hoàn haỏ không bị giới hạn bởi bất kỳ yếu tố nào, không có bảo
hộ, không có biên giới quốc gia đối với sản xuất lu thông hàng hoá. Nhng hiện nay
thế giới cha đạt đến cạnh tranh hoàn hảo và bội chi ngân sách vẫn đang tồn tại nh
một hiện tợng bình thờng, phổ biến ở khắp nơi trên thế giới. Hơn nữa ngân sách
nhà nớc là một công cụ để điều tiết vĩ mô của nhà nớc. Các nhà nớc hiện đại bao
giờ cũng mong muốn điều chỉnh nền kinh tế theo những hớng xác định thông qua
hàng loạt các chính sách kinh tế tài chính, trong đó chính sách tài khoá là một
trong các công cụ quan trọng nhất, sắc bén nhất và thờng đợc sử dụng nhiều nhất.
Nhà nớc có thể sử dụng ngân sách thặng d để chống lạm phát, hoặc sử dụng ngân
sách thâm hụt để chống suy thoái. Mà lạm phát và suy thoái là những căn bệnh nối
tiếp nhau của một nền kinh tế nên ngân sách chỉ cân bằng ở thời điểm khi chuyển
từ thặng d sang thâm hụt.
Đối với các nớc đang phát triển nền kinh tế đi từ nghèo nàn và lạc hậu cơ sở
vật chất kỹ thuật còn thiếu thốn, trình độ kỹ thuật công nghệ còn thấp kém, nhà n-
ớc cũng phải đứng ra đóng vai nhà nớc vốn quan trọng cho các chơng trình đầu t
cấu thành sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nớc các chơng trình này
không những đòi hỏi thời gian sức lực mà còn đòi hỏi một lợng ngân sách khổng
lồ. Do đó việc lựa chọn các mục tiêu chiến lợc là tất yếu hoặc nhà nớc xác định
giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát là mục tiêu chiến lợc bao trùm tất cả
các mục tiêu khác, hoặc nhà nớc lựa chọn công nghiệp hoá hiện đại hoá làm mục
tiêu chiến lợc quan trọng nhất phải nhanh chóng đạt đợc.
Nếu chọn mục tiêu chiến lợc là kiềm chế bội chi, tiến tới cân bằng ngân sách
thì sẽ duy trì đợc thế ổn định của nền tài chính nhng con đờng phát triển lại ở rất
xa. Nếu lấy công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm mục tiêu chiến lợc quan trọng bao
trùm các mục tiêu khác thì mục tiêu kiềm chế bội chi cũng phải đặt xuống hàng
thứ yếu, cho đến khi năng xuất lao động xã hội đạt mức trung bình tiên tiến của

thế giới đủ khả năng cho phép nhà nớc vừa duy trì sự lành mạnh của nền tài chính
quốc gia vừa có thể có nguồn tài chính lớn đầu t vào các chơng trình phát triển đất
nớc.
Lý thuyết kinh tế cổ điển đã chỉ ra rằng muốn thăng bằng ngân sách trong
thời kỳ suy thoái thì hoặc phải giảm chi hoặc phải tăng thu, song cả hai biện pháp
này đều ảnh hởng tới nền kinh tế nh một cái máy hãm khiến cho nền kinh tế đã trì
trệ lại càng đình trệ hơn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để tránh ảnh hởng kìm hãm đó ngời ta đã sử dụng cách "cố ý thâm hụt ngân
sách". Sự thiếu hụt ngân sách Nhà nớc là động lực khơi mào cho sự khôi phục kinh
tế bằng cách chi tiêu ra nhiều hon. Tài chính công trong giai đoạn kinh tế suy
thoái phải đóng vai trò là động cơ phụ thúc đẩy cho bộ máy kinh tế vận hành lành
mạnh hơn. Có thể nói thực hiện cân bằng ngân sách theo học thuyết này tiềm ẩn
nhiều tác động nguy hiểm đối với nền kinh tế của đất nớc. Nhng những nhà kinh
tế bênh vực cho quan điểm này cho rằng: sự thúc đẩy những hoạt động kinh tế
đang trì trệ sẽ làm giảm gánh nặng ngân sách. Vì trong thời kỳ suy thoái thất
nghiệp tràn lan ngân sách Nhà nớc phải gánh thêm một phần trợ cấp thất nghiệp.
Việc mở mang các hoạt động kinh tế sẽ đem lại nhiều công ăn việc làm do vậy sẽ
gánh cho ngân sách những khoản chi chuyển nhợng. Ngoài ra khi nền kinh tế phát
triển hệ thống thuế luỹ tiến sẽ thu hút phần đáng kể các khoản lợi tức cao do đó sẽ
thu hẹp khối lợng tiền tệ và không sợ lạm phát.
Khi ngân sách bơm tiền phát triển kinh tế, nó ảnh hởng tới nền kinh tế nh là
động cơ phụ. Khi nền kinh tế đã phục hồi trở lại thì chính phủ phải để cho nó tự
vận hành và có thể cho động cơ phụ này nghỉ hoạt động.
Tuy nhiên quan điểm này không có tham vọng thay thế vĩnh viễn quan điểm
ngân sách cân bằng. Có thể nói tài chính công hiện nay mẫu mực để noi theo vẫn
là một ngân sách cân bằng. Quan điểm này không có tính chất tuyệt đối mà chỉ là
một ngoại lệ quan trọng của lý thuyết cân bằng ngân sách. Sự thiếu hụt này phải
có giới hạn của nó ở chỗ thiếu hụt không đợc viễn viễn và phải đợc kiểm soát chặt

chẽ. Sự cố ý thiếu hụt có tác dụng thúc đẩy một nền kinh tế ra khỏi tình trạng trì
trệ. Song khi nó đã bắt đầu chuyển động trở lại thì chính phủ phải giảm dần những
chi phí cho đầu t, dần tăng thuế để làm cho ngân sách trở lại thế cân bằng.
Điều quan trọng cần phải hiểu rõ tính tạm thời của chính sách cố ý thiếu hụt
tuy nhiên muốn ngân sách có thể trở lại thế cân bằng dễ dàng thì thiếu hụt phải
không quá lớn và tiền mà chính phủ tạo ra không vợt quá mức cho phép khi mọi
nguồn lực kinh tế đã đợc tận dụng. Do đó chúng ta phải rất thận trọng trong việc
gây ra thiếu hụt và muốn thực hiện chính sách này thì chính phủ phải nắm trong
tay toàn bộ hệ thống ngân sách và kiểm soát đợc nền kinh tế.
Nh vậy nếu thăng bằng ngân sách là một quy tắc khuôn mẫu thì việc phân
tích trên đây cho ta thấy thăng bằng ngân sách không nên duy trong khuôn khổ
nhất niên mà phải đợc duy trì trong khuôn khổ rộng rãi của nền kinh tế.
2. Bội chi và định hớng các biện pháp xử lý bội chi
Nh đã lý luận ở trên vì nhiều lý do mà bội chi ngân sách vẫn tồn tại nh một
hiện tợng bình thờng và phổ biến ở khắp nơi trên thế giới. Song bội chi ngân sách
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phải đợc xử lý là điều cần thiết và bức báchđể có thể duy trì thăng bằng ngân sách
trong khuôn khổ rộng rãi của một chu kỳ kinh tế.
Để xử lý bội chi ngân sách Nhà nớc ngời ta có thể sử dụng một hoặc hay hay
có thể sử dụng cả bốn biện pháp nh:
+ Phát hành tiền + Vay nợ trong nớc hoặc nớc ngoài + Tăng thuế hoặc tăng
nguồn thu khác của chính phủ+ Cắt giảm chi tiêu kể cả chi tiêu thờng xuyên và
chi đầu t phát triển.
Trong đó 3 giải pháp đầu đợc coi là các giải pháp cấp tiến vì nó không trực tiếp
cắt giảm quyền lợi của bất kỳ bộ phận nào trong xã hội, đồng thời hớng vào việc
tăng nguồn tài chính nên dễ triển khai. Còn giải pháp thứ t bị coi là "bảo thủ" vì nó
cắt giảm chi tiêu, do đó chắc sẽ bị các bộ ngành, các địa phơng dự kiến bị cắt
giảm ngân sách lên tiếng phản đối, cản trở hoặc tìm cách gian lận, đồng thời tổng
cầu của xã hội cũng bị co hẹp lại.

Mỗi biện pháp đều có những u nhợc điểm nhất định sau đây chúng ta sẽ xem
xét từng biện pháp đó.
a. Phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nớc
Biện pháp xử lý này luôn tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ lạm phát. Trờng hợp tiền
tệ đợc phát hành tơng ứng với nhu cầu tăng lên về tiền tệ do sự tăng trởng đem lại
thì phát hành tiền có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Nếu phát hành quá nhu
cầu cần thiết sẽ dẫn đến lạm phát từ đó gây mất ổn định suy thoái kinh tế.
Việc phát hành tiền bù đắp cho bội chi ngân sách không phản ánh nhu cầu về
tiền tăng lên do sự tăng trởng đem lại. Do đó biện pháp này tiềm ẩn nguy cơ lạm
phát cao, ảnh hởng tiêu cực đến mọi mặt đời sống chính trị kinh tế xã hội.
Do đó biện pháp này chỉ đợc sử dụng trong những trờng hợp đặc biệt, trờng
hợp bất khả kháng, và việc phát hành tiền tệ phải đợc tính toán cẩn trọng phải đo l-
ờng, dự báo đợc hậu quả do nó gây ra và xã hội phải đợc chuẩn bị để đón nhận
những hậu quả đó.
b. Vay để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nớc
Vay để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nớc bao gồm cả vay trong nớc và vay
nớc ngoài, vay trong nớc: Để vay đợc tiền chính phủ phải đa dạng hoá đợc các
hình thức vay (tín phiếu trái phiếu, công trái...) đồng thời phải thực hiện nhiều
biện pháp để tăng mức độ hấp dẫn ngời cho vay nh tăng lãi suất. Ngoài ra còn phải
triển khai các biện pháp khác nh tuyên truyền, vận động... trên các phơng tiện
thông tin đại chúng để huy động đợc tối đa các nguồn tiền trong dân c nhằm hoàn
thành kế hoạch vay đã định.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×