Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quản lý nhà nước về hộ tịch từ thực tiễn huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.8 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHÙNG HỮU LỘC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Mã số: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được sự hướng
dẫn khoa học của GS.TS Phạm Hồng Thái Những số liệu, bảng biểu phục vụ cho
việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập, xử lý là trung thực và
chưa từng được công bố trước đây. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số
nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều
có trích dẫn và chú thích nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 8 năm 2017


Tác giả luận văn

Phùng Hữu Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
HỘ TỊCH ...................................................................................................................... 6
1.1 Hộ tịch và đăng ký hộ tịch ....................................................................................... 6
1.2 Quản lý nhà nước về hộ tịch ................................................................................... 13
1.3. Thủ tục đăng ký hộ tịch .......................................................................................... 23
1.4 Nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước trong đăng ký và quản lý
hộ tịch ............................................................................................................................ 25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH TẠI
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................................. 29
2.1 Tổng quan về huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ...................................................... 29
2.2 Tình hình quản lý Nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội ................................................................................................................................. 31
2.3 Đánh giá kết quả thực hiện quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội .......................................................................................................... 50
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
HỘ TỊCH ..................................................................................................................... 59
3.1 Cơ sở đề xuất giải pháp ........................................................................................... 59
3.2 Một số giải pháp chung ........................................................................................... 61
3.3 Những giải pháp cụ thể ........................................................................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 75



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND:

Uỷ ban nhân dân

TP-HT:

Tư pháp - Hộ tịch

Nxb:

Nhà xuất bản

CCHC:

Cải cách hành chính


DANH MỤC CÁC BẢNG/ BIỂU

Bảng 2.1: Chất lượng cán bộ, công chức làm công tác tư pháp huyện Ba Vì
Bảng 2.2: Kết quả đăng ký hộ tịch trên địa bàn cấp xã huyện Ba Vì
từ năm 2014 đến nay
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ sinh chia theo giới tính
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ đăng ký sinh chia theo thời gian đăng ký
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ đăng ký việc tử chia theo giới tính
Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ đăng ký việc tử chia theo thời gian đăng ký
Biểu đồ 2.5: Đăng ký lại việc tử và đăng ký lại việc sinh
Biểu 2.3: Tổng hợp tình hình lưu trữ sổ hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì
Bảng 2.4: Công tác hộ tịch có yếu tố nước ngoài từ 01/01/2016 đến hết tháng

06/2017
Biểu đồ 2.4: Xác định lại dân tộc và thay đổi, cải chính hộ tịch cho người trên 14
tuổi trên địa bàn huyện Ba Vì từ 2014 đến hết tháng 6/2017


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý hộ tịch được coi là khâu trung tâm của toàn bộ hoạt động quản lý dân
cư. Hiện nay, vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý về hộ tịch đã và đang đặt
ra những yêu cầu bức thiết đối với sự phát triển của nền hành chính quốc gia. Bởi
chế độ quản lý hộ tịch không chỉ phản ánh trình độ phát triển kinh tế - chính trị xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử mà còn phản ánh mức độ nhất
định truyền thống, tập quán trong tổ chức đời sống xã hội về quản lý dân cư ở mỗi
quốc gia. Có thể khẳng định rằng, các vấn đề pháp lý về quản lý hộ tịch có tầm
quan trọng tương tự như các vấn đề pháp lý về Quốc tịch, về biên giới Quốc gia,
về tổ chức bộ máy nhà nước… Vì vậy, quản lý hộ tịch phải được điều chỉnh bằng
Luật do Quốc hội ban hành. Trên thế giới nhiều nước như Pháp, Đức, Nhật Bản,
Mỹ…đều điều chỉnh vấn đề quản lý hộ tịch bằng văn bản pháp luật do cơ quan lập
pháp ban hành.
Ở nước ta hiện nay, quản lý hộ tịch được thực hiện theo Luật Nuôi con nuôi
năm 2010 ngày 17/6/2010; Luật hôn nhân và Gia đình số 52/2014/QH13 ngày
19/6/2014. Và mới đây Luật Hộ tịch được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 20/11/2014, có hiệu lực
ngày 01/01/2016.
Thực tiễn công tác quản lý hộ tịch, ở nước ta trong những năm qua, các cấp
chính quyền đã có nhiều cố gắng tổ chức thực hiện công tác quản lý hộ tịch. Vì vậy
công tác quản lý hộ tịch đã dần đi vào nề nếp, đạt được một số kết quả nhất định: số
trẻ em được khai sinh đạt tỷ lệ cao, đăng ký kết hôn đúng quy định.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý hộ tịch còn
một số hạn chế, từ khi Luật Hộ tịch ra đời và có hiệu lực, những vướng mắc khi áp
dụng, việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cho

UBND cấp huyện là nhiệm vụ mới, phức tạp đòi hỏi công chức tư pháp hộ tịch phải
có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ. Trong khi đó, đội ngũ này từ trước tới nay
hầu như rất ít khi sử dụng đến ngoại ngữ và đang phải kiêm nhiệm nhiều công việc
khác nên dễ dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc; cùng với thực tế biên chế
của phòng tư pháp có giới hạn, để đảm đương được khối lượng công việc trên là
một khó khăn, thách thức và nhiều áp lực. Không chỉ gặp khó khăn về nguồn nhân

1


lực, qua thực tiễn triển khai Luật Hộ tịch, đã xuất hiện những vướng mắc trong các
thông tư, nghị định quy định chi tiết thi hành Luật. Có thể kể đến một số vướng mắc
như: Luật Hộ tịch không quy định về việc cấp giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân
cho người đã chết. Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều giao dịch dân sự hiện nay cần
đến giấy tờ này. Hay những vướng mắc trong cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
cho người đã qua nhiều nơi cư trú khác nhau; về thay đổi hộ tịch... Một khó khăn
nữa khi triển khai Luật trong thực tế là kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị ở một
số đơn vị cấp huyện, cấp xã còn thiếu thốn cũng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện
nhiệm vụ. Trình độ, năng lực của đội ngũ công chức làm công tác quản lý hộ tịch
chưa đáp ứng được yêu cầu; việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hộ tịch chưa
được quan tâm đúng mức cũng là những tồn tại vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu
giải pháp tháo gỡ. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ
tịch vẫn còn hạn chế; phần mềm đăng ký hộ tịch chưa có sự thống nhất, đồng bộ
nên mục tiêu cải cách thủ tục hành chính trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
còn gặp khó khăn. Việc cấp số định danh cá nhân; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư để phục vụ công tác quản lý; thí điểm áp dụng Dịch vụ công mức độ ba
cũng bộc lộc nhiều bất cập với khu vực nông thôn, miền núi như Ba Vì - huyện có tỉ
lệ người dân tộc thiểu sổ cao nhất thành phố Hà Nội.
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa, nằm về phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội,
trong những năm qua, huyện Ba Vì đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong quản lý nhà

nước về công tác hộ tịch trên địa bàn huyện. Với sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp
ủy đảng, chính quyền (huyện, xã) công tác quản lý hộ tịch ở Ba Vì đã từng bước
được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, chính xác. Song cũng như nhiều địa phương
khác, quản lý hộ tịch ở Ba Vì cũng còn nhiều hạn chế như đã nêu ở trên. Để khắc
phục tình trạng này, các cơ quan chức năng cần rà soát để tháo gỡ vướng mắc, ứng
dụng đồng bộ công nghệ thông tin vào công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, đồng
thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tư pháp- Hộ tịch, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn hiện nay và để Luật Hộ tịch thực sự phát huy được vai trò thiết thực
trong đời sống xã hội. Vì vậy, nghiên cứu về công tác quản lý hộ tịch nói chung cũng
như từ thực tế huyện Ba Vì nói riêng, nhằm làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận, thực tiễn của
công tác quản lý hộ tịch, chỉ ra các nguyên nhân của những hạn chế, trên cơ sở đó, đưa

2


ra những khuyến nghị góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về công
tác hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì là một điều cấp thiết hiện nay.
Là một công chức trực tiếp chỉ đạo và thực hiện công tác hộ tịch trên địa bàn
huyện, ý thức được rất rõ về vai trò của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trong hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, học viên chọn đề tài: “Quản lý nhà nƣớc về
hộ tịch từ thực tiễn huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ đề quản lý nhà nước về hộ tịch trong những năm gần đây được sự quan
tâm của một nhà khoa học ở các cơ sở đào tạo, nghiên cứu ở Việt Nam. Việc nghiên
cứu được xem xét dưới nhiều cách tiếp cận, phương diện khác nhau, cho đến nay đã
có một số công trình nghiên cứu, có thể kể ra một số công trình nghiên cứu cụ thể
sau đây:
Trong cuốn:
Giáo trình “Quản lý hành chính – tư pháp” của Học viện Hành chính quốc gia,

Nxb Khoa học kỹ thuật năm 2008, khẳng định công tác tư pháp là một bộ phận của
công tác quản lý nhà nước, là nơi triển khai trên thực tế các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác tư pháp, bảo đảm sự thống nhất quản lý nhà
nước về công tác tư pháp từ trung ương đến cơ sở.
Tài liệu “Hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp xã, phường, thị trấn” của Sở Tư pháp
thành phố Hà Nội, Nxb Tư pháp năm 2010. Tài liệu là tập hợp những nghiệp vụ
dành cho công chức Tư pháp- hộ tịch cơ sở trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được nhà nước phân công. Tập tài liệu gồm: Nghiệp vụ công tác hộ tịch,
chứng thực, công tác hòa giải ở cơ sở.
Trung tâm thông tin khoa học, Viện nghiên cứu lập pháp, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội (2013), “Chuyên đề một số vấn đề lý luận và so sách pháp luật về hộ
tịch”. Chuyên đề cập đến dự án luật Hộ tịch, sự biến đổi mô hình quản lý nhà nước
về hộ tịch ở Việt Nam và đưa ra một số mô hình cơ quan quản lý hộ tịch phổ biến
trên thế giới làm đối tượng tham khảo.
Các đề tài khoa học, luận văn cao học:
Nguyễn Thị Vũ Thuỷ (2011), Quản lý nhà nước về đăng ký hộ tịch bằng công
nghệ thông tin của thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính công,

3


Học viện hành chính Quốc gia. Luận văn đã đưa ra những căn cứ về lý luận và phân
tích thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch qua việc ứng dụng công nghệ thông tin
của thành phố Hà Nội, từ đó nghiên cứu cũng đưa ra những giải pháp ứng dụng
công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hộ tịch.
Vũ Thị Bích Liên (2016), Quản lý nhà nước về hộ tịch tại tỉnh Vĩnh Phúc,
luận văn thạc sỹ quản lý công, Học viện hành chính. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn
tại địa bàn nghiên cứu, tác giả đã phân tích thực trạng, để ra giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu, luận văn thạc sỹ nghiên cứu về vấn

đề đăng ký, quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về quản lý
nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục tiêu của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về hộ tịch; đánh giá thực trạng quản lý
hộ tịch trên địa bàn Huyện Ba Vì Thành phố Hà Nội; đưa ra các giải pháp nhằm bảo
đảm quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài phải thực hiện một số nhiệm
vụ cụ thể như sau:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hộ tịch, quản lý nhà nước, đưa ra được
khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch, chỉ ra đặc điểm, nội dung của quản lý nhà
nước về hộ tịch.
Khảo sát, đánh giá thực trạng đăng ký và quản lý nhà nước về hộ tịch trong
giai đoạn hiện nay trên địa bàn huyện Ba Vì, chỉ ra những điểm tích cực và hạn chế
của quản lý nhà nước về hộ tịch.
- Đưa ra được một số giải pháp bảo đảm quản lý hộ tịch của huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn của quản lý nhà nước về hộ tịch tại
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

4


4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Các hoạt động quản lý hộ tịch trên địa huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội.
- Phạm vi không gian: Huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 (năm ban hành Luật Hộ tịch) cho đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hộ tịch, quản lý nhà nước về
hộ tịch, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, các phương pháp cụ thể được
sử dụng, bao gồm: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, logic,
phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận, luận văn góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về hộ
tịch, quản lý nhà nước về hộ tịch.
6.2. Về thực tiễn, luận văn đề xuất được một số giải pháp có có tính khả thi
nhằm nâng cao chất lượng đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội. Những giải pháp này có giá trị tham khảo cho các cơ quan quản
lý có thẩm quyền trong việc ban hành và thực hiện các chính sách, chương trình
nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hộ tịch nói chung và huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội nói riêng. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng về quản lý hộ tịch.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn được chia thành
3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý quản lý nhà nước về hộ tịch
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hộ tịch tại huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về hộ tịch

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HỘ TỊCH

1.1 Hộ tịch và đăng ký hộ tịch
Đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng luôn được nhà nước, các
địa phương quan tâm thực hiện. Hoạt động này còn là cơ sở để Nhà nước công nhận
và bảo hộ quyền con người, quyền, nghĩa vụ công dân, đồng thời có biện pháp quản
lý dân cư một cách khoa học, phục vụ thiết thực cho việc xây dựng, hoạch định
chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước. Tại hầu
hết các nước, các sự kiện hộ tịch của con người từ khi sinh ra đến khi chết như khai
sinh, kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ tịch, khai tử…
đều được đăng ký và được quản lý chặt chẽ.
1.1.1 Hộ tịch
1.1.1.1 Khái niệm hộ tịch
Nhìn nhận từ góc độ ngôn ngữ tiếng Việt, “Hộ tịch” là một từ ghép gốc Hán
chính phụ, được ghép bởi hai thành tố có nghĩa độc lập, trong đó “tịch” là thành tố
chính. Xét về mặt từ loại thì đây là một danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ khái niệm
trừu tượng. Nếu tìm hiểu riêng từng thành tố, có thể thấy các từ điển tiếng Việt hiện
nay khá thống nhất trong cách hiểu về từng từ đơn. Theo đó, từ “hộ” khi sử dụng là
danh từ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong đó có một nghĩa trực tiếp là “dân
sự” hoặc “nhà ở” hiểu rộng ra là “đơn vị để quản lý dân số, gồm những người cùng
ăn ở với nhau”. Tương tự, từ “tịch” có nghĩa là sổ sách, hoặc là sổ đăng ký quan hệ
lệ thuộc”. Tuy nhiên, việc tổ hợp hai từ đơn này thành danh từ “hộ tịch” lại là một
trường hợp rất đặc biệt về mặt ngôn ngữ và được sử dụng với thuộc tính kết hợp
hạn chế (hạn chế về việc sử dụng và khả năng tổ hợp của từ ngữ” [74, Tr.9]. Do tính
chất đặc biệt ấy nên khảo cứu qua các từ điển tiếng Việt thì thấy có nhiều cách giải
nghĩa từ “hộ tịch”
Theo từ điển của nhiều tác giả khác nhau thì có cả sự tương đồng và sự khác
biệt trong cách giải nghĩa từ “hộ tịch”. Dưới đây là một số quan điểm, cách giải
nghĩa từ một số từ điển:

6



Theo “Đại Nam Quốc âm tự vị” tác giả Huỳnh Tịnh Paulus được biên soạn
năm 1895 với phương pháp “tham dụng chữ Nho và lấy 24 chữ cái phương Tây làm
chữ bộ” thì trong bộ chữ “hộ chưa có từ “hộ tịch” [58]; “Hộ tịch: Quyển sổ của
Chính phủ biên chép số người, chức nghiệp và tịch quán của từng người” [1, tr.
384]; “Hộ tịch: Sổ biên dân số có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng
người” [47, tr. 404]; “Hộ tịch: Sổ biên nhận số địa phương hoặc cả toàn quốc, trong
có ghi rõ tên họ, quê quán và chức nghiệp của từng người” [74. Tr. 296]; “Hộ tịch:
Sổ sách ghi chép tên, họ, nghề nghiệp dân cư ngụ trong xã, phường” [49. Tr. 841];
“Hộ tịch: Sổ sách ghi chép tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong
một địa phương” [50, tr. 321];
Bên cạnh những cách giải nghĩa của các từ điển Hán – Việt nói trên, một số từ
điển lại giải nghĩa từ “hộ tịch” ở những khía cạnh khác hẳn. Ví dụ: “Hộ tịch: sổ của
cơ quan dân chính đăng ký cư dân trong địa phương mình theo từng hộ” [59,
tr.442]; “Hộ tịch: Các sự kiện trong đời sống của một người thuộc sự quản lý của
pháp luật” [85, tr.835]; “Hộ tịch: Quyền cư trú, được chính quyền công nhận của
một người tại nơi mình ở thường xuyên, của những người thường trú thuộc cùng
một hộ, do chính quyền cấp cho từng hộ để xuất trình khi cần” [37, tr. 385];
Như vậy, xét về góc độ ngôn ngữ, từ “hộ tịch” có nhiều cách hiểu khác nhau.
Thực tế có cả cuốn từ điển giải nghĩa còn thể hiện sự nhầm lẫn khái niệm “hộ tịch”
và “hộ khẩu”, điều này phản ánh sự nhầm lẫn trong nhận thức hai khái niệm này là
khá phổ biến.
Trong các công trình khoa học cũng có những quan điểm khác nhau về
hộ tịch:
Thuật ngữ “hộ tịch” lần đầu tiên được định nghĩa trong các giáo tình giảng dạy
của Đại học Luật khoa Sài Gòn dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, trong đó nổi lên
quan điểm của một số tác giả sau:
Tác giả Phan Văn Thiết có thể coi là người đầu tiên trình bày quan niệm “hộ
tịch” trong cuốn tài liệu chuyên khảo xuất bản năm 1958 như sau: “Hộ tịch - còn
gọi là nhân thế bộ - là cách sinh hợp pháp của một công dân trong gia đình và trong

xã hội. Hộ tịch căn cứ bào ba hiện tượng quan trọng nhất của con người: sinh, giá

7


thú và tử” [77, tr. 7]; Các tác giả Vũ Văn Mẫu - Lê Đình Chân trình bày một định
nghĩa khác về khái niệm “hộ tịch”: “Hộ tịch là sổ biên chép các việc liên hệ đến các
người trong nhà. Hộ tịch gồm ba sổ để ghi chép các sự khai giá thú, khai sinh và
khai tử” [54, tr.111]; Trần Thúc Linh, tác giả cuốn Danh từ pháp luật lược giải - vốn
được đánh giá là một trong những từ điển chuyên ngành pháp lý đầu tiên không đưa
ra định nghĩa về khái niệm “hộ tịch” mà chỉ định nghĩa khái niệm “chứng thư hộ
tịch’: “Chứng thư hộ tịch là những giấy tờ công chứng dùng để chứng minh một
cách chính xác thân trạng người ta như ngày tháng sinh, tử, giá thứ, họ tên, con trai,
con gái, con chính thức hay con tư sinh, tư cách vợ chồng... tóm lại tình trạng xã hội
của con người từ lúc sinh ra đến khi chết.
Các sổ sách hộ tịch ghi lại mọi việc sinh, tử, giá thú và các viêc thay đổi về
thân trạng người ta (nhìn nhận con ngoại hôn, chính thức hóa con tư sinh, khước từ
phụ hệ, ly thân...” [52, Tr. 42].
Trong khoa học pháp lý nước ngoài cũng có những quan điểm quan điểm khác
nhau về “ hội tịch”. Từ góc độ so sánh luật, qua tham khảo một số tài liệu pháp lý
nước ngoài có thể thấy, trong khoa học pháp lý một số nước cũng có những khái
niệm tương đương với khái niệm “hộ tịch” trong tiếng Việt, đó là các thuật ngữ:
“civil registration” (tiếng Anh), “register d’etat civil (tiếng Pháp), “das
Personensdsregister” (tiếng Đức).
Về mặt ngôn ngữ, ta khái niệm trong ba ngôn ngữ nói trên đều có thể chuyển
nghĩa sang tiếng Việt là “đăng ký tình trạng dân sự của cá nhân”. Trong khoa học
pháp lý của nhà nước theo truyền thống luật thành văn (Continental - còn gọi là hệ
thống luật lục địa), mà đại diện tiêu biểu nhất là Pháp và Đức thì khái niệm này gắn
liền với khái niệm “thân trạng”, được biểu hiện là “tình trạng dân sự của cá nhân”
(tiếng Pháp: état des presonnes; tiếng Đức: Personenstand).

Xem xét từ khía cạnh pháp lý, khái niệm hộ tịch được định nghĩa trong một số
tài liệu nước ngoài như sau:
Trong tiếng Anh, khái niệm “Civil Registration” được hiểu là “việc đăng ký
đúng hạn các sự kiện sinh, tử, kết hôn với chính quyền trong thời hạn quy định”
[88, tr. 59]. Trong tiếng Đức, khái niệm “das Personensdsregister” được hiểu là

8


“việc đăng ký công về tình trạng dân sự của mỗi cá nhân được thực hiện bởi các cơ
quan hộ tịch” [86, Tr. 1340]. Trong Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, chế định hộ
tịch là một trong những chế định hết sức quan trọng. Tuy nhiên, luật dân sự Pháp
không đưa ra khái niệm về hộ tịch mà chỉ đưa ra khái niệm chứng thư hộ tịch.
Khái niệm “Civil Registration” được Liên hợp quốc định nghĩa trong tài liệu
“Principles and recommendation for a Vital Statistics System” xuất bản năm 2002
như sau: “Đăng ký dân sự là việc ghi nhớ liên tục đặc điểm về sự tồn tại và tình
trạng dân sự của mỗi cá nhân liên quan đến dân số được quy định bởi sắc lệnh, luật
hoặc điều lệ phù hợp với yêu cầu của pháp luật mỗi quốc gia” [87. Tr. 52].
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “hộ tich” được sử dụng là một thuật ngữ
chuyên môn, được định nghĩa trong văn bản pháp luật. Theo đó định nghĩa về “hộ
tịch” được duy trì từ Nghị định số 83/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10-10-1998,
Nghị định 158/NĐ-CP năm 2005 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch cho đến Luật
Hộ tịch 2014, các định nghĩa này thực chất vẫn là một sự ước định. Về giá trị biểu
đạt, với cách định nghĩa như vậy, sẽ chính xác hơn nếu coi đây là định nghĩa cho
thuật ngữ “sự kiện hộ tịch” chứ không phải thuật ngữ “Hộ tịch”.
Từ những trình bày nêu trên, có thể hiểu: Hộ tịch là các sự kiện dân sự xác
định về tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết được Nhà
nước đăng ký nhằm bảo đảm cá nhân có các quyền công dân, quyền lợi và lợi ích
hợp pháp khác, đồng thời cũng là cơ sở để Nhà nước bảo hộ các quyền và lời ích
này, giúp cho Nhà nước quản lý dân cư một cách chính xác để hoạch định các

chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của hộ tịch
Từ những phân tích về những quan niệm về hộ tịch ta có thể thấy hộ tịch có
những đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, hộ tịch là một quyền nhân thân, gắn chặt với cá nhân con người từ
khi sinh ra đến khi chết. Các sự kiện về hộ tịch được đăng ký để nhận biết người
này với người khác như: Họ tên, ngày tháng năm sinh, dân tộc, giới tính, cha mẹ.
Thứ hai, hộ tịch là những giá trị về nguyên tắc không thể chuyển đổi cho
người khác. Vì vậy pháp luật quy định người đăng ký hộ tịch trong các trường hợp

9


sau không được phép ủy quyền cho người khác như: đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi
con nuôi, đăng ký giám hộ, đang ký nhận cha, mẹ, con. Trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác như đăng ký khai sinh, khai tử, thay đổi, cải chính hộ tịch có thể ủy
quyền bằng văn bản, trường hợp người ủy quyền là ông bà, cha mẹ, con, vợ chồng,
anh chị em ruột thì không phải văn bản ủy quyền nhưng phải có giấy tờ chứng minh
mối quan hệ này.
Thứ ba, hộ tịch là những sự kiện gắn liền với nhân thân, nên không thể tự ý
xâm phạm để thực hiện các giao dịch dân sự nếu không được cá nhân đó cho phép.
1.1.1.3. Phân biệt hộ tịch và hộ khẩu
Xem xét các vấn đề về hộ tịch và hộ khẩu, có thể phân biệt như sau:
- Hộ khẩu là một hình thức quản lý nhân khẩu. Trong đó, đơn vị quản lý xã
hội là hộ gia đình, tập thể do một chủ hộ chịu trách nhiệm thông qua việc đăng lý
trong sổ hộ khẩu.
+ Số hộ khẩu do cơ quan công an cấp và quản lý được lập theo khu vực dân cư
của đơn vị hành chính phường, xã, thôn, xóm, bản, đường phố, tổ dân phố hoặc theo
nhà ở tập thể của các cơ quan, tổ chức và là tài liệu pháp lý, làm cơ sở để xác nhận
việc việc cư trú của công dân, là căn cứ để điều chỉnh số hộ khẩu gia đình, giấy

chứng nhận nhân khẩu tập thể và một số việc khác. Sổ hộ khẩu gia đình được cấp
cho từng hộ gia đình để đăng ký hộ khẩu thường trú trên địa bàn trong cả nước. Khi
thay đổi chỗ ở, người dân phải thực hiện thủ tục thay đổi hộ khẩu.
+ Mục đích của đăng ký hộ khẩu là để chính quyền kiểm tra, theo dõi người
dân; sổ tạm trú khi người dân cư trú tạm thời trong thời gian ngắn ở địa phương
khác nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.
- Hộ tịch là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ghi và lưu lại
các sự kiện hộ tịch quan trọng của công dân từ khi sinh ra đến khi chết.
+ Các sự kiện về hộ tịch được đăng ký để nhận biết người này với người khác
trong trường hợp có sai sót khi đăng ký hoặc có lý do chính đáng mới được thay
đổi, cải chính nội dung đã thực hiện đăng ký;

10


+ Giấy tờ hộ tịch do cơ quan cấp giấy tờ hộ tịch quản lý, khi đăng ký mỗi
người được cấp một loại giấy tờ hộ tịch ví dụ khi đăng ký khai sinh được cấp giấy
khai sinh…
Nội dung đăng ký hộ tịch là cơ sở để thực hiện đăng ký hộ khẩu, mục đích
quản lý hộ khẩu là để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, để giúp nhà nước quản lý dân cư một
cách chính xác, xây dụng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính
sách dân số, kế hoạch hóa gia đình…
1.1.2 Đăng ký hộ tịch
Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời từ thời phong
kiến nhà Trần và các triều đại phong kiến tiếp theo. Tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch
được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc.
Điểm nổi bật trong hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch của thời kỳ Pháp thuộc là có
một đội ngũ hương chức chuyên làm công tác hộ tịch, gọi là Hộ lại. Hộ lại là người
nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng ký các việc hộ tịch trong địa bàn cấp xã do

mình phụ trách. Vì việc quản lý hộ tịch đòi hỏi phải nắm rất kỹ từng người dân,
từng gia đình nên chức danh Hộ lại được bổ nhiệm suốt đời (trừ khi bị truất chức do
vi phạm), thậm chí được khuyến khích “cha truyền con nối”. Điểm nổi bật thứ hai
trong quản lý hộ tịch thời Pháp thuộc là có hệ thống sổ sách hộ tịch (gọi là “sổ bộ”)
đầy đủ, khoa học và được bảo quản rất cẩn thận. Hiện nay, một số sổ sách hộ tịch
thời Pháp thuộc vẫn còn được lưu giữ tại các thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Thành
phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ.
Sau Cách mạng Tháng tám năm 1945, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn
được Nhà nước ta tiếp tục duy trì và phát triển. Theo tinh thần của Sắc lệnh số
47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thể lệ đăng ký hộ tịch đã
được quy định trong Bộ Dân luật giản yếu được áp dụng ở Nam kỳ, Hoàng Việt hộ
luật được áp dụng ở Trung kỳ và Dân luật Bắc Kỳ vẫn được tiếp tục áp dụng.
Ngày 08/5/1956, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 764/TTg kèm
theo Bản Điều lệ hộ tịch. Ngày 16/01/1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị
định số 04/CP, kèm theo Bản Điều lệ đăng ký hộ tịch mới thay thế Bản điều lệ được

11


ban hành kèm theo Nghị định số 764/TTg. Theo quy định tại hai bản điều lệ nói
trên, thì Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) là cơ quan được Hội đồng Chính phủ giao
nhiệm vụ thống nhất chỉ đạo, tổ chức quản lý hộ tịch, việc đăng ký hộ tịch do Uỷ
ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố phụ trách.
Từ năm 1987, nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch được chuyển giao từ Bộ Nội
vụ sang Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân các cấp trên cơ sở Nghị định số 219/HĐBT
ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ); từ thời điểm này, Bộ Tư
pháp được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý Nhà nước về hộ tịch trên phạm vi cả nước.
Đến thời điểm hiện tại, theo quy định tại Luật Hộ tịch 2014 của Quốc hội,
đăng ký hộ tịch được hiểu như sau:
Đăng ký hộ tịch: là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi

vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo
hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư [65].
Nội dung đăng ký hộ tịch gồm:
1. Xác nhận vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch: Khai sinh; Kết hôn; Giám hộ;
Nhận cha, mẹ, con; Thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông
tin hộ tịch; Khai tử.
2. Ghi vào Sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch của cá nhân theo bản án, quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Thay đổi quốc tịch; Xác định cha, mẹ, con;
Xác định lại giới tính; Nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi; Ly hôn, hủy
việc kết hôn trái pháp luật, công nhận việc kết hôn; Công nhận giám hộ; Tuyên bố
hoặc huỷ tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành
vi dân sự.
3. Ghi vào Sổ hộ tịch sự kiện khai sinh; kết hôn; ly hôn; hủy việc kết hôn;
giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; thay đổi hộ tịch;
khai tử của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài.
4. Xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các việc hộ tịch khác theo quy định của
pháp luật.

12


Như vậy có thể thấy, với mỗi vấn đề hộ tịch thì có các loại giấy tờ về vấn đề
đó, gọi là giấy tờ về hộ tịch. Giấy tờ về hộ tịch là giấy tờ có giá trị chứng minh thực
tế thân trạng của mỗi công dân.
Giấy tờ về hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Đó là cơ sở pháp
lý chứng minh các quyền và nghĩa vụ của công dân phát sinh từ sự kiện hộ tịch. Do
tính chất quan trọng như vậy của các giấy tờ về hộ tịch cho nên pháp luật có quy
định chặt chẽ, cụ thể các nguyên tắc, thủ tục, trình tự đăng ký và cấp các loại giấy tờ
về hộ tịch.

Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy
định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó.
Giấy tờ hộ tịch do cơ quan đại diện Ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam
ở nước ngoài cấp có giá trị như giấy tờ hộ tịch được cấp ở trong nước.
Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi một cá nhân. Do vậy, tất cả các
loại giấy tờ về hộ tịch đều phải thống nhất với Giấy khai sinh của cá nhân người đó.
Chính vì vậy, đăng ký hộ tịch là nhiệm vụ bắt buộc không chỉ đối với công dân mà
còn đối với cả các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2 Quản lý nhà nƣớc về hộ tịch
1.2.1 Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là hoạt động mang tính đặc thù của con người, là sự tác động có mục
đích của các chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý. Quản lý xuất hiện ở bất
kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó có hoạt động chung của con người, phối hợp hoạt
động riêng lẻ của từng cá nhân thành một hoạt động chung thống nhất của cả tập thể
và hướng dẫn hoạt động chung đó theo những phương hướng thống nhất, nhằm đạt
được mục tiêu đã định trước.
Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, đó là quản lý toàn
xã hội. Xét về mặt chức năng, quản lý nhà nước bao gồm ba chức năng:
Thứ nhất: chức năng lập pháp – do các cơ quan lập pháp thực hiện
Thứ hai: Chức năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống hành
chính nhà nước đảm nhiệm;
Thứ ba: Chức năng tư pháp do các cơ quan tư pháp thực hiện.

13


Quản lý nhà nước mang những đặc điểm:
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước là cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà
nước được trao quyền, gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp;
Thứ hai, đối tượng quản lý của Nhà nước là tất cả các cá nhân, tổ chức sinh

sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia công dân làm việc bên ngoài
lãnh thổ quốc gia.
Thứ ba, quản lý nhà nước là quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao;
Thứ tư, quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng công cụ
pháp luật nhà nước, chính sách để quản lý xã hội;
Thứ năm, mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn
định và phát triển của toàn xã hội.
Như vậy, quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật và chính sách để điều chỉnh hành vi của
cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ
máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển
của xã hội.
1.2.2 Khái niệm quản lý nhà nước về hộ tịch
Là một nội dung trong quản lý hành chính nhà nước về hành chính – tư pháp,
quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch tập trung chủ yếu vào các hoạt động: ban
hành hoặc trình cơ quan quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật
về hộ tịch; xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, kế hoạch, định hướng về hoạt
động hộ tịch; phổ biến, giáo dục pháp luật về hộ tịch; quản lý hệ thống tổ chức và
hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động hộ tịch; đào tạo, bồi dưỡng,
hướng dẫn nghiệp vụ về đăng ký hộ tịch, kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi
phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động đăng ký hộ tịch; đảm bảo kinh
phí, cơ sở vật chất, phương tiện cho một số hoạt động hộ tịch; tổng kết hoạt động hộ
tịch; báo cáo cơ quan nhà nước cấp trên về hoạt động đăng ký hộ tịch.
Quản lý nhà nước đối với hộ tịch ở nước ta có nhưng đặc điểm sau đây:

14


Thứ nhất, quản lý hành chính nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang tính

quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước trong quản lý hành chính nhà nước đối
với hộ tịch trước hết thể hiện ở việc các chủ thể có thẩm quyền thể hiện ý chí nhà
nước thông qua phương tiện nhất định, trong đó phương tiện cơ bản và đặc biệt
quan trọng được sử dụng là văn bản quản lý hộ tịch.
Bằng việc ban hành văn bản, chủ thể quản lý hộ tịch thể hiện ý chí của mình
dưới dạng các hoạt động áp dụng pháp luật; dưới dạng các mệnh lệnh cá biệt nhằm
áp dụng pháp luật vào thực tiễn, trực tiếp thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ quản lý; dưới những dạng mệnh lệnh chỉ đạo trong hoạt động,
nhằm tổ chức thực hiện pháp luật trong thực tiễn; dưới dạng những thông tin hướng
dẫn người dân để thực hiện việc đăng ký hộ tịch thông qua hệ thống của bộ máy
quản lý hộ tịch của nhà nước.
Bên cạnh đó, quyền lực nhà nước còn thể hiện trong việc các chủ thể có thẩm
quyền tiến hành những hoạt động cần thiết để đảm bảo thực hiện ý chí nhà nước
như các biện pháp về tổ chức, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục, hòa giải... chính
những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ nét sức mạnh của nhà nước, nhờ
đó ý chí của chủ thể quản lý hộ tịch được đảm bảo thực hiện.
Thứ hai, quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là hoạt động được tiến hành
bởi những chủ thể có quyền hành pháp là các công chức trong bộ máy nhà nước.
Chủ thể chủ yếu thực hiện quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước (chính phủ, bộ, UBND, cơ quan chuyên môn thuộc
UBND, đội ngũ công chức làm công tác tư pháp hộ tịch).
Thứ ba, quản lý hành chính nhà nước về hộ tịch là hoạt động có tính thống
nhất, được tổ chức chặt chẽ. Để đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động hộ tịch, bộ
máy các cơ quan hộ tịch được tổ chức thành một khối thống nhất từ trung ương đến
địa phương, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất,
đảm bảo lợi ích chung của cả nước, đảm bảo sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa
các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả nước, tránh được sự cục bộ phân
hóa giữa các địa phương hay vùng miền khác nhau.

15



Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện
kinh tế, xã hội nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng dịa phương, tạo
sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy quản lý hộ còn được tổ chức
theo hướng phân cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động sáng tạo cho chính
quyền địa phương.
Thứ tư, hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch có tính chấp hành và điều hành.
Tính chấp hành và điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện
trong việc những hoạt động này được tiến hành trên cơ sở pháp luật và nhằm mục
đích thực hiện pháp luật, cho dù đó là hoạt động chủ động sáng tạo của chủ thể quản
lý thì cũng không được vượt quá khuôn khổ pháp luật, trên cơ sở quy định pháp luật
nhằm hiện thực hóa pháp luật.
Tính điều hành của hoạt động quản lý nhà nước về hộ tịch thể hiện trong việc
chủ thể có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Trong quá
trình đó, các chủ thể này, không chỉ tự mình thực hiện pháp luật mà quan trọng hơn
cả là chúng đảm nhận chức năng chỉ đạo nhằm vận hành hoạt động của các cơ quan,
đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ chức để mọi đối tượng có liên
quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ quản lý.
Thứ năm, quản lý nhà nước đối với hộ tịch là hoạt động mang tính liên tục,
kịp thời và linh hoạt để đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội.
Chính điểm đặc thù này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy
định về tổ chức và hoạt động, quy chế làm việc của công chức trong bộ máy
quản lý nhà nước về hộ tịch; tạo sự gọn nhẹ, có sự linh hoạt trong tổ chức, có đội
ngũ công chức làm công tác hộ tịch năng động, sáng tạo dám chịu trạch nhiệm
đối với hoạt động của mình.
Như vậy, có thể hiểu quản lý hành nước về hộ tịch là một hình thức hoạt động
của nhà nước, do các chủ thể có thẩm quyền (trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan
hành chính nhà nước, người có thẩm quyền) thực hiện trên cơ sở pháp luật và đảm

bảo pháp luật về hộ tịch được thi hành góp phần bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.

16


1.2.3 Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nước về hộ tịch
Để tạo cơ sở pháp lý cho quản lý nhà nước về hộ tịch, trong những năm qua ở
nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP ngày 25/3/2010 của Bộ tư pháp về việc ban hành và
hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch. Luật số
52/2010/QH12 ngày 17 tháng 6 năm 2010 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành Luật nuôi con nuôi. Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày
02/02/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
về hộ tịch, hôn nhân và gia đình và chứng thực. Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày
05/05/2014 của Chính phủ, quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Luật số 52/2014/QH13 ngày
19/6/2014 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật
Hôn nhân và Gia đình. Luật số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật Dân sự. Ngày
20/11/2014, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 8 đã thông
qua Luật số 60/2014/QH13 ban hành Luật Hộ tịch và Luật chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/1/2016. Luật gồm 7 chương và 77 điều, quy định nguyên tắc, nội dung,
thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong
đăng ký hộ tịch; sổ bộ hộ tịch, sổ hộ tịch cá nhân, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử;
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý hộ tịch. So với các quy định
hiện hành, Luật Hộ tịch có nhiều điểm mới tích cực và được đánh giá là một "cuộc
cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cư nói
chung. Luật Hộ tịch ra đời đã tạo bước đột phá về thể chế của công tác hộ tịch. Là

cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, là cơ sở
quan trọng để xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại. Việc xây dựng Luật Hộ tịch nhằm tạo cơ sở pháp lý ổn định, thống
nhất, lâu dài cho công tác đăng ký, quản lý hộ tịch ở nước ta theo hướng từng bước
chuyên nghiệp, hiện đại, bảo đảm thuận lợi cho người dân thực hiện quyền, nghĩa
vụ đăng ký hộ tịch theo quy định của Bộ luật Dân sự, các luật chuyên ngành khác,

17


góp phần tăng cường quản lý dân cư trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch; Thông tư 15/2015/TT-BTP
ngày 16/11/2015 của bộ Tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ
tịch và Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở trung
ương ban hành, Ủy ban nhân dân thanh phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân Huyện Ba Vì
đã ban hành một số văn bản để thực hiện: Quyết định số 270/QĐ-UBND ngày 20
tháng 6 năm 1993 của UBND tỉnh Hà Tây về việc thành lập Phòng Tư pháp thuộc
UBND huyện Ba Vì; Chương trình số 01-CTr/HU ngày 12/12/2011 của Huyện uỷ
Ba Vì về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy đảng và chất
lượng đội ngũ đảng viên; năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền, chất
lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân các cấp giai đoạn
2011-2015” và Kế hoạch số 52-KH/BCĐ của Ban Chỉ đạo Chương trình số 01CTr/HU của Huyện ủy. Quyết định số 5043/QĐ-UBND ngày 2/11/2012 của UBND
Thành phố Hà Nội về việc ban hành Đề án nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý điều
hành của hệ thống cơ quan hành chính Thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016.
1.2.4 Chủ thể thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch và đăng ký hộ tịch
1.2.4.1 Chủ thể thực hiện quản lý nhà nước hộ tịch
Quản lý hộ tịch là một nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý tư

pháp, do vậy chủ thể quản lý cao nhất trong lĩnh vực hoạt động này đó là Chính phủ
- cơ quan hành chính cao nhất của nước ta. Nhiệm vụ quyền hạn của chính phủ
trong quản lý hộ tịch được quy định tại Khoản 3 Điều 6 Luật Tổ chức Chính phủ năm
2015: “Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục hiến pháp và
pháp luật; đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi
hành hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp,
bồi thường nhà nước thi hành án” .
Luật Hộ tịch ra đời và có hiệu lực đã thực hiện sự phân cấp mạnh mẽ theo
hướng chuyển giao một số loại việc trước đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch

18


của UBND cấp tỉnh, Sở tư pháp cho UBND cấp huyện và UBND cấp xã. Thẩm
quyền quản lý hộ tịch gồm: Chính phủ; bộ Tư pháp, bộ Ngoại giao, bộ Công an; ủy
ban nhân dân (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 71 Luật Hộ tịch năm 2014: “UBND cấp xã
thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch tại địa phương và có nhiệm vụ, quyền hạn:
thực hiện đăng ký hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch. Căn cứ quy định của
UBND cấp trên, bố trí công chức TP-HT thực hiện việc đăng ký hộ tịch. Tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về hộ tịch; quản lý, sử dụng sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch
theo quy định; quản lý, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và cấp bản
sao trích lục hộ tịch theo quy định. Tổng hợp tình hình và thống kê hộ tịch báo cáo
UBND cấp huyện theo quy định của chính phủ; lưu trữ sổ hộ tịch, hồ sơ đăng ký hộ
tịch. Giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về hộ tịch theo thẩm quyền”.
Luật cũng quy định rõ tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch – đối tượng
được trao quyền thực hiện công tác quản lý nhà nước về hộ tịch: công chức TP-HT
phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên, được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch và có
trình độ tin học phù hợp theo yêu cầu công việc.
1.2.4.2 Chủ thể thực hiện đăng ký hộ tịch

Theo Luật Hộ tịch các chủ thể đăng ký hộ tịch gồm:
- Sở Tư pháp;
- UBND cấp huyện;
- UBND cấp xã;
- Cơ quan đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.5 Đối tượng, phạm vi, nội dung quản lý về hộ tịch, nguyên tắc đăng ký hộ tịch
1.2.5.1 Đối tượng, phạm vi
Là một hoạt động quản lý con người, hoạt động quản lý hộ tịch hướng đến đối
tượng quản lý là các đặc điểm nhân thân làm nên căn cước của mỗi cá nhân. Tuy
nhiên các yếu tố thuộc về căn cước của mỗi người rất phong phú và là đối tượng
của nhiều hoạt động quản lý khác nhau. Do vậy để phân biệt đối tượng của quản lý
hộ tịch với đối tượng của một số hoạt động quản lý thuộc phạm trù quản lý căn

19


cước của con người như quản lý hộ khẩu, quản lý lí lịch tư pháp, quản lý chứng
minh nhân dân…cần xem xét, xác định phạm vi của quản lý hộ tịch.
Căn cước của mỗi cá nhân được hình thành từ rất nhiều đặc điểm nhân thân
gắn liền cá nhân đó: như họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, dân tộc, tôn giáo,
quốc tịch, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú, các mối quan hệ gia đình, tiền án, tiền
sự… tất cả những dấu hiệu đặc trưng đó đảm bảo cho việc phân biệt chính xác một
cá nhân này với một cá nhân khác. Nghiên cứu vấn đề này, có thể căn cứ vào mức
độ ổn định của các dấu hiệu nhân thân để phân loại chúng thành các nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm dấu hiệu nhân thân không bao giờ thay đổi gồm có:
ngày, tháng, năm sinh; quan hệ gia đình (cha – mẹ - con, anh - chị - em); ngày,
tháng, năm chết…
Thứ hai, nhóm dấu hiệu nhân thân có thể thay đổi nhưng chỉ hạn chế trong
một số trường hợp nhất định và việc thay đổi phải tiến hành theo thủ tục rất chặt chẽ
gồm có: họ tên, dân tộc, quốc tịch...

Tất cả các đặc điểm nhân thân của cá nhân nói trên đều là đối tượng quản lý
của hoạt động quản lý nhà nước về căn cước của cá nhân. Trong đó, hoạt động quản
lý hộ tịch giới hạn phạm vi quản lý trong các nhóm đặc điểm nhân thân có các thuộc
tính sau: Tính ổn định cao; Tính công khai; Có khả năng phổ biến thông tin.
Nhìn từ góc độ quản lý thì vi phạm quản lý hộ tịch không chỉ giới hạn trong
đối tượng công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả người nước ngoài, người không
quốc tịch. Phạm vi quản lý đó được thực hiện thông qua các nội dung quản lý đã
được nêu trong Điều 3 Luật Hộ tịch năm 2014, bao gồm:
- Quản lý các sự kiện sinh; tử; kết hôn; nuôi con nuôi; nhận cha, mẹ, con,
giám hộ;
- Quản lý việc thay đổi hộ tịch; cải chính hộ tịch; bổ sung hộ tịch điều chỉnh
hộ tịch; bổ sung hộ tịch điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại dân
tộc;
- Quản lý sự thay đổi các đặc điểm nhân thân do các sự kiện ly hôn; xác định
cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; chấm dứt nuôi con nuôi.

20


×