Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 211 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH MIN

PHáT TRIểN NÔNG NGHIệP THEO HƯớNG BềN VữNG
ở TỉNH NAM ĐịNH

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: KINH T PHT TRIN

H NI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .....................................................................................6
1.1. Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài
luận án ..................................................................................................................6
1.2. Đánh giá chung về những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án và vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ........................................................22
Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG
NGHIỆP THEO HƢỚNG BỀN VỮNG Ở ĐỊA BÀN CẤP TỈNH ............25

2.1. Khái niệm và nội dung phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững .....................25
2.2. Chỉ tiêu đánh giá phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở địa bàn
cấp tỉnh ..............................................................................................................35
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
ở địa bàn cấp tỉnh ............................................................................................. 44
2.4. Kinh nghiệm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững của một số


địa phương và bài học rút ra cho tỉnh Nam Định ..............................................52
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƢỚNG
BỀN VỮNG Ở TỈNH NAM ĐỊNH ..........................................................62

3.1. Những thuận lợi và khó khăn của tỉnh Nam Định trong phát triển nông
nghiệp theo hướng bền vững .............................................................................62
3.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Nam
Định giai đoạn 2006 - 2016...............................................................................68
3.3. Đánh giá chung về phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh
Nam Định giai đoạn 2006 - 2016......................................................................95
Chƣơng 4: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
THEO HƢỚNG BỀN VỮNG Ở TỈNH NAM ĐỊNH ĐẾN NĂM 2030 .....117

4.1. Bối cảnh mới và định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững ở tỉnh Nam Định đến năm 2030 ............................................................117
4.2. Giải pháp cơ bản nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
tỉnh Nam Định đến năm 2030.........................................................................125
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................. 153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 153
PHỤ LỤC ................................................................................................................166


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATVSTP
BĐKH
BVMT
BVTV

CCKT
CĐLK
CĐML
CMKT
CNCB
CNH,HĐH
ĐBSH
DN
ĐTN
GTNT
GTSX
HTX
KCHT
KH&CN
KHCN
KHKT
NN&PTNT
NSLĐ
NTM
NTTS
ONMT
PTBV
PTNN
SXNN
TNBQ
TNTN
UBND
WTO

: An toàn vệ sinh thực phẩm

: Biến đổi khí hậu
: Bảo vệ môi trường
: Bảo vệ thực vật
: Cơ cấu kinh tế
: Cánh đồng liên kết
: Cánh đồng mẫu lớn
: Chuyên môn kỹ thuật
: Công nghiệp chế biến
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
: Đồng bằng sông Hồng
: Doanh nghiệp
: Đào tạo nghề
: Giao thông nông thôn
: Giá trị sản xuất
: Hợp tác xã
: Kết cấu hạ tầng
: Khoa học và công nghệ
: Khoa học công nghệ
: Khoa học kỹ thuật
: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
: Năng suất lao động
: Nông thôn mới
: Nuôi trồng thủy sản
: Ô nhiễm môi trường
: Phát triển bền vững
: Phát triển nông nghiệp
: Sản xuất nông nghiệp
: Thu nhập bình quân
: Tài nguyên thiên nhiên
: Ủy ban nhân dân

: Tổ chức Thương mại Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Bộ chỉ tiêu đánh giá phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
ở địa bàn cấp tỉnh .....................................................................................43
Bảng 3.1: Tỷ lệ VAnn/Gonn tỉnh Nam Định (theo giá so sánh 2010) giai
đoạn 2006 - 2016......................................................................................72
Bảng 3.2: Cơ cấu ngành trồng trọt tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 - 2016 ...............75
Bảng 3.3: Số việc làm và tỷ lệ việc làm thủy sản trong tổng số việc làm
ngành nông nghiệp tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2016 (việc làm
trong độ tuổi) ............................................................................................ 81
Bảng 3.4: Tỷ lệ hộ nghèo nông nghiệp tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2016 ..........82
Bảng 3.5: Hệ số co giãn của nghèo với tăng trưởng nông nghiệp Nam Định
giai đoạn 2006 - 2016...............................................................................83
Bảng 3.6: Tốc độ tăng lượng thuốc BVTV sử dụng qua các vụ (2013-2014) ..........89
Bảng 3.7: Tổng hợp đánh giá PTNN theo hướng bền vững ở tỉnh Nam Định
giai đoạn 2006-2016.................................................................................98
Bảng 3.8: Trình độ CMKT của lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản Nam
Định trong độ tuổi lao động ...................................................................104


DANH MỤC CÁC BIỂU, HÌNH
Biểu đồ 3.1: Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp Nam Định theo giá so sánh
2010 giai đoạn 2006-2016 .................................................................68
Biểu đồ 3.2: Động thái tăng trưởng nông nghiệp Nam Định, Thái Bình và cả
nước theo giá so sánh 2010 giai đoạn 2006-2016 .............................. 69
Biểu đồ 3.3: Năng suất lao động nông nghiệp Nam Định và cả nước theo giá
hiện hành giai đoạn 2006-2016 ..........................................................70
Biểu đồ 3.4: Hiệu quả đầu tư nông nghiệp Nam Định và cả nước theo giá

hiện hành giai đoạn 2007 - 2016 ........................................................71
Biểu đồ 3.5: Tỷ lệ VAnn/GOnn Nam Định, Thái Bình và cả nước theo giá so
sánh năm 2010 giai đoạn 2006-2016 ..................................................72
Biểu đồ 3.6: Tỷ trọng thủy sản trong GTSX ngành nông nghiệp tỉnh Nam
Định theo giá hiện hành giai đoạn 2006-2016 ....................................73
Biểu đồ 3.7: Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành nông nghiệp thuần Nam
Định theo giá hiện hành giai đoạn 2006-2016 ....................................74
Biều đồ 3.8: Cơ cấu GTSX (%) ngành chăn nuôi Nam Định giai đoạn 2006-2016 .......76
Biểu đồ 3.9: Chuyển dịch cơ cấu GTSX ngành thủy sản Nam Định giai đoạn
2006-2016 ........................................................................................... 77
Biểu đồ 3.10: TNBQ/người/năm của nhân khẩu nông nghiệp Nam Định theo
giá hiện hành giai đoạn 2006-2016.....................................................83
Biểu đồ 3.11: TNBQ/người/năm theo giá hiện hành giữa nông nghiệp, phi
nông nghiệp và thành thị Nam Định giai đoạn 2006-2016 ................85
Biểu đồ 3.12: Giá trị sản phẩm thu được/ha đất nông nghiệp Nam Định giai
đoạn 2006 - 2016 ................................................................................87
Biểu đồ 3.13: Diện tích rừng ngập mặn và tốc độ giảm diện tích rừng ngập
mặn của Nam Định giai đoạn 2006-2016 ...........................................94
Hình 2.1: Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ...........................................31


1
MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là ngành kinh tế có vị trí đặc biệt trong nền kinh tế thị trường
hiện đại. Mặc dù ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong cơ cấu GDP, song ý nghĩa
và tầm quan trọng của ngành nông nghiệp không ngừng tăng lên. Ngoài cung cấp
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, nông nghiệp còn cung cấp nguyên liệu
cho nhiều ngành kinh tế khác. Đối với các nước đang thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) như Việt Nam, nông nghiệp còn góp phần quan trọng vào
tạo việc làm, tạo thu nhập cho đại bộ phận dân cư và xóa đói giảm nghèo. Nông

nghiệp thực hành tốt góp phần giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường
(BVMT) và sự đa dạng sinh học.
Sau 30 năm đổi mới và phát triển, nông nghiệp Việt Nam ngày càng khẳng
định vị thế của mình với việc cung cấp sinh kế trực tiếp cho 8,61 triệu hộ nông, lâm,
thủy sản [6, tr.17], tạo việc làm cho 44% lao động (trên 23 triệu người) [106, tr.138],
đóng góp trên 17% GDP cho nền kinh tế [106, tr.170] và gần 20% giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập sâu rộng và biến đổi khí
hậu (BĐKH) ngành nông nghiệp nước ta đang phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức, đó là: sự cạnh tranh gay gắt từ các nhà sản xuất nước ngoài có cùng
chủng loại nông sản ở thị trường trong và ngoài nước; thời tiết cực đoan, xâm nhập
mặn, dịch bệnh và ô nhiễm môi trường (ONMT) gia tăng; đa dạng sinh học suy
giảm. Trong khi đó, các nguồn lực cần thiết cho sản xuất nông nghiệp (SXNN), như:
đất đai, chất lượng nguồn lao động và vốn đầu tư cho nông nghiệp đang ở mức thấp;
công nghệ sản xuất lạc hậu; một số yếu tố đầu vào cho SXNN còn phụ thuộc vào
nước ngoài (máy móc, phân bón, xăng dầu, thuốc trừ sâu…) đã làm cho sản xuất và
kinh doanh nông nghiệp không hiệu quả, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế
của đất nước. Điều này đã hạn chế tốc độ tăng trưởng nông nghiệp và ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của người SXNN. Nhằm khắc phục tình trạng này, trong
những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh mục tiêu phát triển ngành
nông nghiệp theo hướng bền vững.
Nam Định là tỉnh ven biển nằm ở phía Nam đồng bằng sông Hồng (ĐBSH),
có nhiều tiềm năng để phát triển SXNN toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thủy sản (NTTS) và trồng rừng ngập mặn. Mặc dù là địa phương có công


2
nghiệp, làng nghề tương đối phát triển, song đến nay nông nghiệp vẫn là ngành sản
xuất quan trọng, đóng góp lớn vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Năm
2016, ngành nông nghiệp Nam Định tạo việc làm cho gần 60% lao động xã hội và
cung cấp sinh kế cho khoảng 80% dân số, đóng góp 22,99% vào giá trị gia tăng của

Tỉnh [25, tr.47]. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Nam Định vẫn còn nhiều hạn chế,
yếu kém như chất lượng tăng trưởng nông nghiệp thấp; chuyển dịch cơ cấu ngành
nông nghiệp diễn ra một cách chậm chạp; thu nhập và đời sống của người SXNN
thấp, tình trạng ONMT gia tăng. Đặc biệt, SXNN của tỉnh đang chịu tác động của
BĐKH ngày càng gia tăng. Hàng năm, Nam Định phải hứng chịu từ 2 đến 4 cơn bão
với cường độ lớn, bất thường, khó dự đoán; tình trạng sâu bệnh, ngập úng, khô hạn
làm thoái hóa đất nông nghiệp ngày càng gia tăng, xâm nhập mặn ngày càng lấn sâu
nội đồng, đa dạng sinh thái ngày càng suy giảm nên SXNN của Tỉnh không hiệu quả,
kém bền vững, chưa đảm bảo cuộc sống cho nông dân. Những bất cập đó khiến cho
một bộ phận nông dân không thiết tha với đồng ruộng, tình trạng ruộng đất bị bỏ hoang
ngày càng tăng và đến vụ xuân năm 2016 có 83 xã, thị trấn với 950 ha tập trung ở các
huyện Ý Yên, Trực Ninh, Nam Trực, Mỹ Lộc [3]. Vì vậy, cần phải tìm ra cách thức sản
xuất mới để ngành nông nghiệp của Tỉnh khai thác được tiềm năng, lợi thế phát triển
hiệu quả và bền vững.
Nhận thức được tình hình trên, Nam Định đã ban hành chính sách khuyến
khích doanh nghiệp (DN) đầu tư vào nông nghiệp; hỗ trợ tổn thất trong sản xuất
nông, thủy sản; khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ (KHCN) vào
SXNN; thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng
và phát triển bền vững (PTBV)… Tuy nhiên, kết quả thực hiện chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra.
Để góp phần vào giải quyết vấn đề này, cần có những nghiên cứu cơ bản về
lý luận, tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn và phải có những phân tích đánh giá thực
trạng, từ đó phát hiện ra các nguyên nhân, tìm kiếm giải pháp để ngành nông nghiệp
của Tỉnh phát triển theo hướng bền vững. Vì vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài:
“Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở tỉnh Nam Định” làm luận án tiến
sỹ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế phát triển vừa có tính cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.


3

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp (PTNN) theo hướng bền vững ở
tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 - 2016 và đề xuất giải pháp thúc đẩy PTNN theo
hướng bền vững ở tỉnh Nam Định đến năm 2030.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về PTNN theo hướng bền vững ở địa bàn cấp tỉnh;
- Nghiên cứu kinh nghiệm về PTNN theo hướng bền vững ở một số địa
phương có điều kiện tương đồng để rút ra bài học cho tỉnh Nam Định;
- Phân tích, đánh giá thực trạng PTNN theo hướng bền vững ở tỉnh Nam
Định giai đoạn 2006 - 2016 trên cơ sở khung lý luận đã xây dựng ở chương 2;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp PTNN theo hướng bền vững ở tỉnh
Nam Định đến năm 2030.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là PTNN tỉnh Nam Định dưới góc
nhìn bền vững. Đề tài luận án chỉ tập trung nghiên cứu phát triển ngành nông nghiệp
dựa trên cơ sở lý luận về PTBV, không đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực chuyên môn,
kỹ thuật liên quan đến PTNN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài luận án nghiên cứu ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng,
bao gồm nông, lâm, thủy sản, không nghiên cứu diêm nghiệp do Nam Định chưa có
số liệu thống kê về nghề muối. PTNN theo hướng bền vững được tiếp cận dưới góc
độ kinh tế phát triển, tức là xem xét, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển của
ngành nông nghiệp tỉnh Nam Định trên ba trụ cột: bền vững về kinh tế, tức là tăng
trưởng nông nghiệp ổn định trong thời gian dài và sử dụng hiệu quả các nguồn lực;
bền vững về xã hội được xem xét trên giác độ tăng trưởng nông nghiệp gắn với giải
quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong SXNN như: việc làm, xóa đói giảm nghèo,
thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống người SXNN; bền vững về môi trường
được xem xét tăng trưởng nông nghiệp gắn với sử dụng hiệu quả tài nguyên, BVMT

và ứng phó BĐKH.


4
- Về không gian: Đề tài luận án nghiên cứu PTNN theo hướng bền vững trên
địa bàn tỉnh Nam Định.
- Về thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu thực trạng PTNN theo hướng bền
vững trên địa bàn tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 - 2016, đề xuất giải pháp phát triển
ngành nông nghiệp theo hướng bền vững của tỉnh đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được tiến hành dựa trên cơ sở lý luận về PTBV đã được Hội nghị
thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazin)
năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV tổ chức ở Johannesburg (Cộng
hòa Nam Phi) năm 2002 đã xác định: PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. Dựa
trên cơ sở đó, luận án nghiên cứu PTNN theo hướng bền vững dưới ba góc độ kinh
tế, xã hội và môi trường. Ngoài ra, luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước Việt Nam về PTBV nói chung, PTNN theo hướng bền vững nói
riêng; chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, PTNN của tỉnh Nam Định. Đồng thời,
luận án kế thừa những lý thuyết kinh tế hiện đại như PTNN trong điều kiện BĐKH,
hội nhập quốc tế, chuỗi giá trị và giá trị gia tăng, quan hệ giữa nông nghiệp với công
nghiệp và dịch vụ v.v..
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử Mác - Lênin để nghiên cứu. Ngoài ra, luận án sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác, trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh… Đồng thời để có thêm các thông tin liên quan đến PTNN theo hướng

bền vững ở tỉnh Nam Định, NCS sử dụng phương pháp điều tra thu thập thông tin
bằng bảng hỏi dành cho 50 cán bộ ở các chi cục thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn (NN&PTNT) Nam Định, như: Chi cục Thủy sản, Chi cục Kiểm lâm, Chi
cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm và Thủy
sản, Chi cục Chăn nuôi thú Y; một số cán bộ thuộc phòng NN&PTNT các huyện


5
Hải Hậu, Trực Ninh, Nam Trực và Vụ Bản; một số cán bộ thuộc Sở Tài nguyên và
Môi trường, sở Lao động và Thương binh Xã hội (LĐ&TBXH) Nam Định; một số
cán bộ cấp xã ở các xã khảo sát và với 436 hộ nông dân ở các huyện: Hải Hậu,
Nghĩa Hưng, Trực Ninh, Nam Trực và Vụ Bản (xem Phụ lục 1).
- Nguồn tài liệu nghiên cứu
+ Nguồn tài liệu thứ cấp được sử dụng, tổng hợp, phân tích trong luận án chủ
yếu là các tài liệu đã được công bố trên sách, báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu
có liên quan trong và ngoài nước; tài liệu của các cơ quan quản lý tỉnh Nam Định,
Cục Thống kê Nam Định, Tổng cục Thống kê.
+ Nguồn tài liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra theo bộ câu hỏi soạn
thảo sẵn dành cho 50 cán bộ cấp Sở, phòng, xã của Tỉnh; 436 hộ nông dân trực tiếp
sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, NTTS ở các xã thuộc 5 huyện trong Tỉnh.
5. Đóng góp mới của luận án
- Đưa ra cơ sở lý luận về PTNN theo hướng bền vững ở địa bàn cấp tỉnh, bao
gồm: khái niệm, nội dung, chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến PTNN
theo hướng bền vững ở địa bàn này;
- Đánh giá đúng, khách quan, khoa học thực trạng PTNN theo hướng bền vững
ở tỉnh Nam Định giai đoạn 2006 – 2016, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế đó;
- Đưa ra quan điểm và đề xuất có căn cứ khoa học các định hướng, giải pháp
nhằm PTNN theo hướng bền vững ở tỉnh Nam Định đến năm 2030.
6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận án gồm 4 chương và 11 tiết.


6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước được
công bố liên quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án. Các công trình đã đạt được
những kết quả nhất định, là cơ sở để định hướng cho nghiên cứu tiếp theo của luận án.
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về phát triển nông nghiệp
theo hƣớng bền vững
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về khái niệm, nội dung và chỉ tiêu đánh
giá phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Tùy từng giai đoạn phát triển, tùy từng góc độ tiếp cận, các nhà nghiên cứu
có quan niệm khác nhau về PTNN theo hướng bền vững, theo đó, khái niệm PTNN
theo hướng bền vững cũng có nội dung và chỉ tiêu đánh giá khác nhau. Có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu sau:
Những năm 90 của thế kỷ XX, SXNN ở các quốc gia đang phát triển tiêu tốn
nhiều nguồn lực (đất đai, nguồn nước, lao động), gây ONMT song năng suất thấp,
chưa đảm bảo cuộc sống của dân cư nông nghiệp. Trước vấn đề đặt ra của PTNN thời
kì đó, các công trình nghiên cứu về PTNN đã hướng vào vấn đề BVMT đất, nước và
khởi xướng PTNN theo hướng bền vững. Mục đích của PTNN theo hướng bền vững
là nhằm kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với bảo tồn, duy trì hệ sinh thái trong
SXNN để thỏa mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, có nhiều khái niệm về PTNN theo
hướng bền vững đã được đưa ra. Chẳng hạn, TAC/CGIARC (Ban cố vấn kỹ thuật

thuộc nhóm chuyên gia quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp của Liên hợp quốc) đưa ra
quan niệm: Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững phải bao hàm quản lý thành
công tài nguyên thiên nhiên (TNTN) nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời
cải tiến chất lượng môi trường và gìn giữ được TNTN [70, tr.12]. Quan niệm này chỉ
ra, PTNN theo hướng bền vững cần bảo tồn và phát triển TNTN.
Tổ chức Lương thực của Liên hiệp Quốc (FAO) (1990) trong “World Food
Dry” [134] cho rằng: “Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý và duy trì sự


7
thay đổi về tổ chức, kỹ thuật và thể chế nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng
tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau” Quan niệm của FAO nhấn mạnh
cách thức để PTNN theo hướng bền vững, đó là phải thay đổi tổ chức, kỹ thuật và
thể chế.
Richard R. Harwood (1990) trong công trình nghiên cứu “Lịch sử nông
nghiệp bền vững” [137] cho rằng: “Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp
mà các hoạt động của các tổ chức kinh tế đều hướng đến bảo vệ và phát huy lợi ích
của con người và xã hội trên cơ sở duy trì và phát triển nguồn lực, tối thiểu hóa chi
phí để sản xuất một cách hiệu quả các sản phẩm nông nghiệp và hạn chế tác hại
môi trường, trong khi duy trì và không ngừng nâng cao thu nhập cho dân cư nông
nghiệp”. Quan niệm về PTNN theo hướng bền vững trên đã chỉ ra cách thức để
cộng đồng thế giới, nhất là các quốc gia đang phát triển thay đổi tư duy cũng như
hành động: sản xuất nông nghiệp phải tối thiểu hóa chi phí, nâng cao cuộc sống của
cư dân nông nghiệp và BVMT. Như vậy, có thể thấy rằng, quan niệm về PTNN theo
hướng bền vững đã nhấn mạnh đến mối quan hệ hài hòa giữa mục tiêu kinh tế với
mục tiêu xã hội và môi trường trong PTNN.
Đến thập niên đầu của thế kỷ XXI, trước những tác động của SXNN đến tự
nhiên như: làm tăng khí nhà kính, ô nhiễm và làm giảm độ màu của đất, ô nhiễm và
cạn kiệt nguồn nước, làm giảm sự đa dạng sinh học, Tổ chức Sinh thái và Môi
trường thế giới (WORD) cho rằng: “Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa

mãn được các yêu cầu của thế hệ hiện nay, mà không làm giảm khả năng ấy đối với
các thế hệ mai sau [93, tr.32]. Quan niệm này có tính tổng hợp và khái quát cao:
phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững nghĩa là nền nông nghiệp không chỉ
cho phép các thế hệ hiện nay khai thác TNTN vì lợi ích của họ mà còn duy trì được
khả năng ấy cho thế hệ mai sau.
Tác giả Nguyễn Văn Mẫn và Trịnh Văn Thịnh (2002) trong công trình “Nông
nghiệp bền vững cơ sở và ứng dụng” [68, tr.8] đã chỉ ra: “Nông nghiệp bền vững
không chỉ bảo vệ những hệ sinh thái đã có trong tự nhiên mà còn tìm cách khôi phục
những hệ sinh thái đã bị suy thoái”. Quan niệm này chỉ ra, PTNN theo hướng bền
vững, ngoài việc bảo vệ hệ sinh thái hiện có còn phải phục hồi, tái tạo những hệ sinh
thái trong tự nhiên đã bị suy thoái.


8
Tác giả Vũ Đình Thắng và cộng sự (2006) trong “Giáo trình Kinh tế nông
nghiệp” cho rằng, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững là khả năng duy trì
hay tăng thêm năng suất và sản lượng nông sản trong một thời gian dài mà không
ảnh hưởng xấu đến điều kiện sinh thái. Đồng thời, các tác giả cũng cho rằng, nông
nghiệp bền vững chỉ có ý nghĩa tương đối, con người cần phải điều chỉnh để lập nên
một thế bền vững mới [93, tr.32].
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu của một số tổ chức và cá nhân trong các hội
nghị, hội thảo cũng đưa ra quan niệm về PTNN theo hướng bền vững, như: “Phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững phải bao hàm quản lý thành công TNTN nhằm thỏa
mãn nhu cầu của con người đồng thời cải tiến chất lượng môi trường và gìn giữ được
TNTN” [70, tr.12]; hoặc: sản xuất nông nghiệp bền vững là chúng ta cần chọn một biện
pháp sản xuất để cây trồng, vật nuôi của chúng ta tiếp tục cho mỗi năm một lãi, chất
lượng nguồn nước và đất đai hàng năm vẫn được duy trì tốt để thế hệ con cháu chúng
ta tiếp tục được hưởng cái lợi từ đất và môi trường nước v.v... [55]. Quan niệm về
SXNN theo hướng bền vững như trên cũng đã đề cập đến vấn đề kinh tế, môi trường và
xã hội trong quá trình phát triển.

Như vậy có thể thấy, trong từng giai đoạn, trước yêu cầu thực tiễn phát triển
của ngành nông nghiệp đặt ra, quan niệm về PTNN theo hướng bền vững có sự khác
nhau nhất định, song về cơ bản đã nhấn mạnh đến giải quyết hợp lý, chặt chẽ, hài
hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng nông nghiệp với BVMT và cải thiện cuộc sống
con người. Các nghiên cứu này mới dừng lại ở quan niệm, chưa đưa ra chỉ tiêu đánh
giá PTNN theo hướng bền vững.
Gần đây, một số công trình nghiên cứu đã đưa ra nội dung và các chỉ tiêu
đánh giá PTNN theo hướng bền vững. Mặc dù còn một vài khác biệt, song các
nghiên cứu này đều từ nội dung PTNN theo hướng bền vững để đưa ra chỉ tiêu đánh
giá. Chẳng hạn, Serey Mardy (2014) trong “Nghiên cứu phát triển nông nghiệp bền
vững ở tỉnh Svay Riêng, Campuchia” [82] cho rằng, phát triển nông nghiệp bền
vững phải đảm bảo được mục đích là kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt kinh
tế, xã hội và môi trường. Về kinh tế, SXNN phải đạt hiệu quả cao, làm ra nhiều sản
phẩm, không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, thức ăn chăn nuôi, dự trữ lương
thực mà còn xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Về xã hội, phải đảm bảo cho người


9
nông dân có đầy đủ công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, đời sống vật chất và tinh
thần ngày càng được nâng cao. Về môi trường là không hủy hoại TNTN, giữ nguồn
nước ngầm trong sạch và không gây ONMT. Để phản ánh nội dung, tác giả đã đưa
ra hệ thống các chỉ tiêu. Về mặt kinh tế, đó là: Quy mô SXNN; Đầu tư cho PTNN
(đầu tư công cho nông nghiệp, đầu tư cho kết cấu hạ tầng); Năng suất, sản lượng sản
phẩm; Thu nhập của nông hộ; Hiệu quả kinh tế của SXNN. Các chỉ tiêu phản ánh về
mặt xã hội, gồm: Lao động và việc làm; xóa đói giảm nghèo; Cân bằng giới trong
PTNN. Chỉ tiêu phản ánh về mặt môi trường, gồm có: Sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật (BVTV); Chất thải nông nghiệp; Xử lý chất thải và ONMT nông nghiệp. Theo
tác giả, tùy vào từng vùng, từng quốc gia và điều kiện nghiên cứu, các chỉ tiêu được
sử dụng để đánh giá PTNN bền vững có thể khác nhau.
Nguyễn Thanh Hải (2014) trong “Phát triển nông nghiệp các tỉnh trung du miền

núi phía Bắc Việt Nam theo hướng bền vững”[34] cho rằng, nội dung bền vững về kinh
tế chính là sự tăng lên ổn định của năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi trong
từng giai đoạn nhất định (3-5 năm). Vì vậy, các tiêu chí đánh giá PTNN theo hướng bền
vững về kinh tế chủ yếu dừng ở động thái hay mặt lượng của tăng trưởng nông nghiệp,
như: (i) Năng suất cây trồng; (ii) Năng suất vật nuôi; (iii) Giá trị sản xuất (GTSX) của
toàn ngành nông nghiệp và từng ngành riêng biệt; (iv) Tốc độ tăng của SXNN nói
chung, của từng ngành riêng biệt, hoặc của từng sản phẩm cụ thể; (v) Giá trị sản xuất
tính trên 1 ha đất nông nghiệp; (vi) Giá trị sản xuất do 1 lao động tạo ra; (vi) Cơ cấu
giữa các ngành của SXNN. Các chỉ tiêu phản ánh cấu trúc và hiệu quả tăng trưởng của
ngành nông nghiệp chưa được bàn đến. Còn bền vững về xã hội đó là nâng cao thu
nhập cho người dân và đảm bảo tính công bằng trong việc hưởng thụ các thành quả do
phát triển mang lại. Tiêu chí đánh giá, gồm có: (i) Thu nhập bình quân một nhân
khẩu/tháng; (ii) Tỷ lệ người nghèo; (iii) Trình độ dân trí của nông dân; (iv) kết cấu hạ
tầng (KCHT) kinh tế - xã hội trên địa bàn. Bền vững về môi trường là bảo vệ và không
ngừng nâng cao độ phì của đất, bảo vệ và nâng cao chất lượng nguồn nước và bảo vệ
rừng. Tiêu chí phản ánh, gồm có: (i) Diện tích đất bị hoang hóa; (ii) Diện tích đất không
được tưới tiêu hợp lý; (iii) Lượng phân hóa học, lượng thuốc trừ sâu, thuốc BVTV và
các loại hóa chất sử dụng trong nông nghiệp; (iv) Tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì đa dạng
sinh học; (v) Diện tích rừng và tỷ lệ che phủ rừng; (vi) Số vụ và diện tích rừng bị cháy,


10
bị chặt phá. Nhìn chung, mặc dù chưa đầy đủ, song nghiên cứu đã đưa ra hệ thống chỉ
tiêu đánh giá PTNN theo hướng bền vững tương đối khá toàn diện.
Phí Văn Hạnh (2016) trong “Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở
vùng ĐBSH” [37] đưa ra 4 nội dung, gồm có: (1) Chuyển dịch kinh tế (CCKT) nông
nghiệp theo hướng bền vững; (2) Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả SXNN
theo hướng bền vững; (3) Tăng trưởng nông nghiệp toàn diện gắn với đảm bảo công
bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống nhân dân; (4) Tăng trưởng nông
nghiệp gắn với bảo vệ môi trường (BVMT) bền vững. Từ 4 nội dung trên, tác giả đã

đưa ra 4 nhóm tiêu chí đánh giá PTNN theo hướng bền vững. Tuy nhiên, dưới góc độ
kinh tế chính trị, các chỉ tiêu mới được xem xét dưới góc độ định tính. Cụ thể, về
chuyển dịch CCKT nông nghiệp theo hướng bền vững, tác giả đưa ra các tiêu chí phản
ánh CCKT nông nghiệp trong nội bộ ngành (tính hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu toàn
ngành nông nghiệp dưới sự tác động của phát triển lực lượng sản xuất; tính hợp lý và
hiệu quả trong chuyển dịch của các phân ngành trồng trọt, chăn nuôi; phân ngành khai
thác, trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; phân ngành khai thác, NTTS). Phản ánh cơ cấu
nông nghiệp theo vùng, lãnh thổ, gồm có (nông hộ: quy mô, diện tích, số nhân khẩu
trong hộ; hợp tác xã (HTX): số lượng, doanh thu, cơ cấu HTX…; trang trại: số lượng,
cơ cấu, loại hình, quy mô; diện tích đất nông nghiệp được bảo vệ; bình quân đất nông
nghiệp; khả năng sử dụng hợp lý và mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Phản ánh về cơ
cấu nông nghiệp theo thành phần kinh tế, luận án đưa chỉ tiêu đánh giá về quy mô, tốc
độ, hiệu quả tăng trưởng nông nghiệp. Về mặt xã hội, luận án đưa ra hệ thống các chỉ
tiêu, gồm: kết cấu hạ tầng; giải quyết việc làm, an sinh xã hội cho người lao động; thu
nhập; thiết chế văn hóa cộng đồng; tỷ lệ hộ nghèo; phân hóa giàu nghèo. Về môi
trường, luận án đưa ra các chỉ tiêu: diện tích đất được bảo vệ; tỷ lệ diện tích cây trồng
hàng năm được tưới tiêu; tỷ lệ che phủ rừng, diện tích rừng được bảo tồn và duy trì đa
dạng sinh học; tỷ lệ diện tích đất được bảo vệ, duy trì đa dạng sinh học; hàm lượng chất
hữu cơ ven biển, cửa sông; mức phân hóa học, lượng thuốc trừ sâu, thuốc BVTV và các
loại hóa chất sử dụng nông nghiệp trên diện tích đất canh tác; tỷ lệ chất thải nông
nghiệp được thu gom, xử lý. Có thể nói, công trình nghiên cứu đã xây dựng được hệ
thống chỉ tiêu đánh giá tương đối toàn diện về PTNN theo hướng bền vững, song chưa
chỉ ra mối quan hệ giữa ba trụ cột trong PTBV về nông nghiệp.


11
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nông nghiệp theo hướng bền vững
Ở hướng nghiên cứu này, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra hệ thống chính
sách, các nguồn lực đầu vào như: khoa học công nghệ (KHCN), vốn đầu tư, lao động,

…, hội nhập kinh tế và BĐKH có ảnh hưởng đến PTNN theo hướng bền vững. Tiêu
biểu có thể kể đến như:
Frans Elltis (1994) trong “Chính sách nông nghiệp của các nước đang phát
triển” [135] cho rằng, ở các nước đang phát triển, chính sách vùng, chính sách hỗ
trợ đầu vào, đầu ra cho SXNN, chính sách thương mại nông sản, những vấn đề phát
sinh trong quá trình đô thị hóa ảnh hưởng lớn đến PTNN.
Phạm Thị Khanh (2004) trong “Huy động vốn trong nước phát triển nông
nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng” [57] chỉ ra, vốn tác động đến SXNN nông
nghiệp một cách gián tiếp thông qua đất đai, cây trồng, vật nuôi hay phương tiện kỹ
thuật… Sự gia tăng vốn đầu tư PTNN làm tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy gia tăng
năng suất, sản lượng và nâng cao chất lượng nông sản phẩm hàng hóa. Bởi vì, vốn
là tiền để phát triển kết cấu hạ tầng (KCHT), ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển
các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ SXNN, chuyển dịch CCKT và nâng cao
chất lượng lao động nông nghiệp.
Nguyễn Thị Tố Quyên (2012) trong “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới” [80] cho rằng, các nguồn lực đầu vào, như:
vốn, đất đai, chất lượng lao động, KCHT có ảnh hưởng đến PTNN theo hướng bền
vững vì đây là điều kiện để phát triển SXNN.
Đào Duy Khuê (2012) trong “ Khoa học và công nghệ thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp hàng hóa - giảm nghèo nhanh cho nông dân” [59] đã chỉ ra, KHCN
phát triển và được ứng dụng mạnh mẽ vào lĩnh vực nông nghiệp đã tạo ra sản phẩm
hàng hóa có giá trị cao và đây là cơ sở hàng đầu để PTNN theo hướng bền vững.
Vũ Trọng Bình (2013) trong “Phát triển nông nghiệp bền vững: Lý luận và
thực tiễn” [8] chỉ ra có sáu yếu tố chính ảnh hưởng tới PTNN theo hướng bền vững,
đó là: (i) Hội nhập quốc tế; (ii) Phát triển công nghiệp, đô thị; (iii) Quy hoạch không
gian giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp; (iv) Quá trình hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn; (v) Vai trò của nông dân; (vi) Chính sách PTNN. Qua phân


12

tích, luận giải của tác giả cho thấy sáu yếu tố trên có ảnh hưởng rất lớn đến PTNN
theo hướng bền vững trong điều kiện hiện nay.
Trong điều kiện hội nhập và BĐKH đang trực tiếp tác động đến ngành nông
nghiệp, các công trình gần đây đã tập trung nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng to lớn của
hội nhập quốc tế và BĐKH đến ngành nông nghiệp.
Về ảnh hưởng của hội nhập đến ngành nông nghiệp, tác giả Nguyễn Từ và
các cộng sự (2010) trong công trình nghiên cứu “Tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam” [110] cho rằng, ảnh hưởng của hội
nhập kinh tế quốc tế đến ngành nông nghiệp Việt Nam có cả hai mặt: tích cực và
tiêu cực. Do đó, cần phải biết tận dụng ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực để nông nghiệp phát triển.
Tác giả Vũ Trọng Bình (2013) đã chỉ ra: Hội nhập nền nông nghiệp Việt Nam
dần dần trở thành một ngành sản xuất mở, các chuỗi ngành hàng nông nghiệp kết
nối và là một bộ phận của chuỗi giá trị toàn cầu, thị trường đầu vào và đầu ra của
nông nghiệp cũng dần dần được kết nối. Do đó, sự ổn định và bền vững của nền
nông nghiệp Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào cách thức hội nhập quốc tế, cách
thức chống rủi ro từ các cú sốc thị trường thế giới [8].
Ngoài các công trình trên, còn có nhiều bài viết tham luận về PTNN trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Các
nghiên cứu này đã chỉ ra, hội nhập kinh tế quốc tế có tác động hai mặt đến phát triển
ngành nông nghiệp. Trước hết, hội nhập kinh tế sẽ mang lại cơ hội cho ngành nông
nghiệp Việt Nam như mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, học hỏi được kinh
nghiệm tổ chức sản xuất tiên tiến, nhập khẩu vật tư, nguyên liệu trong nước chưa
sản xuất được phục vụ SXNN. Tuy nhiên, thách thức do hội nhập mang lại cho
ngành nông nghiệp cũng không hề nhỏ, đó là: cạnh tranh ngày càng gay gắt cả ở thị
trường trong nước và quốc tế; ảnh hưởng đến tăng trưởng, xuất khẩu của ngành
nông nghiệp… Tiêu biểu cho các nghiên cứu này, có thể kể đến như: “Hai điểm yếu
của nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế”, của Nguyễn Quốc Vọng [124];
“Để phát triển bền vững ngành chăn nuôi trong giai đoạn hiện nay”, của Việt Hà
[34]; “Nông nghiệp Việt Nam: “Chìa khóa” nào để hội nhập, phát triển?” của Văn

phòng Bộ Nông nghiệp [121]; “Hội nhập kinh tế quốc tế ngành nông nghiệp: Thách
thức từ nội tại” của Khánh Nguyên [73]...


13
Ảnh hưởng của BĐKH đến phát triển ngành nông nghiệp cũng đã được nhiều
nghiên cứu chỉ ra. Chẳng hạn, tác giả Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu (2012) trong
“Biến đổi khí hậu và sinh kế ven biển” [29] chỉ ra, BĐKH tác động lên hệ sinh thái
biển và hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, BĐKH vùng ven biển với
những biểu hiện cụ thể: nước biển dâng, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan đã ảnh
hưởng đến SXNN, qua đó, ảnh hưởng đến sinh kế người dân. Tác giả Đinh Vũ Thanh,
Nguyễn Văn Viết (2012) trong “Tác động của biến đổi khí hậu đến các lĩnh vực nông
nghiệp và giải pháp ứng phó” [94] cho rằng, BĐKH đã tác động đến các lĩnh vực của
ngành nông nghiệp, như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; tài nguyên nước và thủy
lợi,…; Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác chỉ ra, BĐKH đã tác động đến
SXNN, như: (1) Làm giảm các đầu vào cơ bản của SXNN và ảnh hưởng trực tiếp đến
sản lượng của các ngành này; (2) Làm thay đổi quy trình sinh trưởng và mùa vụ, giảm
năng suất và hiệu quả của SXNN; (3) Biến đổi khí hậu đã và đang đe dọa nghiêm
trọng đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp làm tăng mức độ rủi ro và tổn thất cho các ngành
sản xuất; (4) Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các ngành nông nghiệp chủ lực và gây
ra tổn thất lớn cho nền kinh tế. Điển hình cho các công trình này có thể kể đến nghiên
của Mai Hạnh Nguyên (2010) [73]; Tô Văn Trường (2011) [107]; Bùi Thị Kim Dung
(2012) [31]; DARA International (2013) [131].
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nông nghiệp trong phát
triển bền vững
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng không chỉ của Việt Nam mà còn
của nhiều nước trên thế giới. Trong điều kiện đẩy nhanh CNH,HĐH, phát triển kinh
tế thị trường, hội nhập và BĐKH, vai trò của nông nghiệp không hề bị mất đi mà
ngược lại càng được coi trọng. Điều này đã được các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước đề cập đến. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:

FAO (1990) trong “World Food Dry”[134] chỉ ra rằng, PTNN là điều kiện,
phương tiện để nền kinh tế đạt được sự bền vững. Điều này được thể hiện: (i) Trong
các chu kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính, nông nghiệp ít bị tác động nên nông
nghiệp tăng trưởng cao sẽ giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng dễ dàng và tạo
điều kiện phục hồi kinh tế nhanh hơn; (ii) Tăng trưởng nông nghiệp cao giúp giảm
nghèo nhanh chóng ở nông thôn và cả thành thị. Tăng trưởng nông nghiệp làm tăng


14
sản lượng lương thực và tăng thu nhập của người dân ở nông thôn nên sự đói nghèo
sẽ giảm theo. Tăng trưởng trong nông nghiệp làm giảm giá lương thực, thực phẩm ở
khu vực thành thị nên người lao động thành thị sẽ có cơ hội thoát đói, nghèo. Điều
này có thể tác động trên phạm vi toàn cầu khi sản lượng lương thực thế giới tăng,
giá nông sản toàn cầu sẽ giảm theo. Do vậy, PTNN giúp ổn định về mặt xã hội khi
đời sống của con người được đảm bảo; (iii) Phát triển nông nghiệp còn làm chậm
quá trình BĐKH toàn cầu. Quá trình PTNN gắn với BVMT, bởi môi trường sinh
thái và TNTN là nguồn lực quan trọng của SXNN.
Tác giả Nguyễn Văn Mẫn và Trịnh Văn Thịnh (2002) trong “Nông nghiệp
bền vững cơ sở và ứng dụng” [68] cho rằng, nông nghiệp bền vững chủ trương
BVMT, tạo dựng một môi trường trong lành và sử dụng một cách hợp lý TNTN.
Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về mặt sinh
thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người mà
không làm hủy diệt đất đai, không làm ONMT. Nông nghiệp bền vững quan tâm đến
việc bảo đảm công bằng xã hội và văn hóa dân tộc.
Tác giả Nguyễn Từ (2004) trong công trình nghiên cứu “Nông nghiệp Việt
Nam trong phát triển bền vững” [108] cho rằng, ngành nông nghiệp trong PTBV ở
Việt Nam có 4 vai trò: (i) Cung cấp lương thực, thực phẩm - nhu cầu tối cơ bản cho
con người; (ii) Là ngành chủ yếu tạo việc làm, thu nhập cho đa số dân cư nước ta;
(iii) Là ngành có tầm quan trọng đặc biệt trong bảo vệ TNTN, sinh thái, môi trường;
và (iv) Là hoạt động chính của dân cư ở những vùng có tầm quan trọng đặc biệt về

tài nguyên, môi trường và an ninh, quốc phòng. Tuy nhiên, công trình cũng chỉ ra,
nông nghiệp phải đạt tới một trình độ và hiệu quả phát triển nhất định mới thực hiện
được vai trò quan trọng của nó trong PTBV.
WB (2007) trong cuốn “Tăng cường nông nghiệp cho phát triển” [138] đã chỉ
ra, nông nghiệp là công cụ phát triển sống còn để đạt mục tiêu phát triển Thiên
nhiên kỷ (PTBV và xóa đói giảm nghèo). Bởi vì, nông nghiệp có thể kết hợp với các
ngành khác để đẩy nhanh tăng trưởng, giảm nghèo và bảo tồn môi trường. Công
trình đã chỉ ra: (1) Nông nghiệp tăng trưởng sẽ cung cấp các cơ hội đầu tư cho khu
vực tư nhân và động lực chính của các ngành công nghiệp, dịch vụ liên quan đến
nông nghiệp. (2) Nông nghiệp là một sinh kế: nông nghiệp tạo việc làm cho 1,3 tỉ
nông hộ nhỏ và những nông dân không có ruộng đất, tài trợ cho “phúc lợi xã hội


15
dựa vào nông nghiệp” khi có những biến động tại đô thị và là nền tảng đối với
những cộng đồng nông thôn. Tăng trưởng nông nghiệp đã tạo nên sức mạnh đặc biệt
trong xóa đói giảm nghèo ở tất cả các loại hình quốc gia… (3) Nông nghiệp là nơi
cung cấp các dịch vụ môi trường. Trong khi sử dụng (và thường sử dụng chưa hợp
lý) các nguồn TNTN, nông nghiệp có thể tạo ra tác động môi trường tích cực hoặc
tiêu cực. Đến nay, nông nghiệp là yếu tố chính làm suy kiệt nguồn nước ngầm, ô
nhiễm hóa chất nông nghiệp, bạc màu đất và BĐKH toàn cầu. Song nông nghiệp
cũng chính là nơi cung cấp các dịch vụ môi trường thường không được công nhận
và không được trả tiền như cố định carbon, quản lý lưu vực sông và bảo tồn đa dạng
sinh học. Do đó, để nông nghiệp phát triển cần phải hài hòa mối quan hệ giữa
SXNN với bảo tồn TNTN và môi trường.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn về phát triển nông nghiệp
theo hƣớng bền vững
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về kinh nghiệm phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững
Ở hướng nghiên cứu này, từ thực tiễn PTNN bền vững trên thế giới và của

Việt Nam, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra, PTNN theo hướng bền vững cần
phải PTNN hữu cơ, tiết kiệm các nguồn lực đầu vào (lao động, đất đai, vốn), thực
hiện chính sách “ưu đãi nông dân”, áp dụng cơ giới hóa, nông nghiệp sinh thái…
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, có thể kể đến như:
Tác giả Phạm Thăng (2012) trong công trình “Kinh nghiệm của thế giới về
PTNN nông thôn” [92] trên cơ sở phân tích kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc
về PTNN nông thôn, tác giả đã đưa ra khuyến nghị sau: (i) Cần duy trì lâu dài, ổn
định nông hộ là đơn vị sản xuất cơ bản trong chiến lược PTNN nông thôn. (ii) Thực
hiện chính sách “ưu đãi nông nghiệp nông thôn” để ổn định chính trị, xã hội. (iii)
Nhà nước hướng dẫn, hỗ trợ về tổ chức, tài chính, khoa học kỹ thuật (KHKT), công
nghệ cho nông dân. (iii) Đẩy nhanh việc sửa đổi Luật đất đai và tuyên truyền để
nhân dân thực hiện dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất cho sản xuất hàng hóa lớn
theo hướng chuyên canh các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, tạo thuận lợi cho
thâm canh, áp dụng cơ giới hóa SXNN.
Tác giả Dinesh Kumar, Sivamohan, Nitin Bassi (2013) trong “Quản lý nước,
an ninh lương thực và nông nghiệp bền vững trong các nền kinh tế đang phát triển”


16
(Water Management, Food Security and Sustainable Agriculture in Developing
Economies) [132] đã đề cập đến chiến lược an ninh lương thực và nông nghiệp bền
vững trong nền kinh tế đang phát triển. Công trình tập trung nghiên cứu Ấn Độ quốc gia có nền nông nghiệp tương đối phát triển, có TNTN đất, nước phong phú,
thuận lợi cho PTNN nhưng hiện nay đang chịu áp lực lớn do phát triển kém bền
vững. Bên cạnh đó, công trình còn nghiên cứu một số dự án làm ONMT, gây thiệt
hại cho SXNN và buộc chủ dự án phải bồi thường cho những người dân bị thiệt hại.
Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thành công và một số
tồn tại trong công tác thủy lợi, làm cơ sở cho nâng cao năng suất nông nghiệp.
Tác giả Koyu (2013) trong cuốn “ Hướng tới một nền văn minh và xã hội bền
vững: Quan điểm văn minh sinh thái từ xã hội Nhật Bản” (Towards A Sustainable
Civilization and Society: A Socio-cultural Ecological Perspective from Japan) [136]

đã chỉ ra, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại, nhiều vấn đề đe dọa tới
cuộc sống con người đang đặt ra như: môi trường bị tàn phá, suy giảm khả năng đa
dạng sinh học, tỷ lệ thất nghiệp cao và gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Dựa trên
kinh nghiệm PTBV của nền nông nghiệp hữu cơ ở Nhật Bản, lối sống thân thiệt với
môi trường và nông nghiệp sinh thái, an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP), tác giả
phân tích và đề xuất sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, quản lý môi trường,
nguồn lực con người hướng tới PTNN theo hướng bền vững.
Tác giả Nguyễn Văn Kiên (2016) trong “Chính sách quản lý nước và kinh
nghiệm trồng lúa thích ứng với khô hạn ở Ô-xtrây-li-a” [60] đã chỉ ra, nhờ có chính
sách quản lý nước đúng đắn mà nhiều người trồng lúa đã nhận thức đúng về việc
phải tiết kiệm triệt để và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước - vốn được
xem là một chi phí đầu vào quan trọng hàng đầu để trồng lúa. Đây là kinh nghiệm
Việt Nam cần tham khảo để PTNN trong điều kiện tình trạng hạn hán, xâm nhập
mặn, BĐKH ngày càng gia tăng.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu về giải pháp phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững
Liên quan đến hướng nghiên cứu này, có nhiều công trình trên cơ sở nghiên
cứu thực trạng PTNN trong các bối cảnh, điều kiện khác nhau như: sự tác động của
chính sách, của hội nhập, của BĐKH… đã đưa ra hệ thống giải pháp. Có thể kể ra
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau:


17
Tác giả Maureen (1990) trong “Nông nghiệp ứng biến” (Alternative
agriculture) [133] đã dẫn quan điểm của Hội đồng nghiên cứu quốc gia Mỹ cho
rằng: “Nông nghiệp bền vững” tương ứng với nông nghiệp tùy cơ ứng biến, chứa
một phổ đa dạng về các loại hình canh tác, trong đó mỗi loại hình lại có khả năng
thích ứng với một kích cỡ trang trại cụ thể trong những điều kiện cụ thể về điều kiện
tự nhiên, đất đai và con người. Do vậy, không thể có một khuôn mẫu chung về
PTNN bền vững cho các vùng khác nhau, các trang trại khác nhau.

Tác giả Đặng Kim Sơn (2008), trong “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Việt Nam hôm nay và mai sau” trên cơ sở nghiên cứu thực trạng nông nghiệp Việt
Nam sau 20 năm đổi mới đã chỉ ra, để nông nghiệp PTBV cần phải chú trọng phát
triển cả nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Cụ thể, đối với nông dân, tác giả đã phân
ra thành 3 nhóm: nông dân SXNN lâu dài; nông dân chuyển đổi sang sản xuất phi
nông nghiệp; nông dân tham gia vào sản xuất ở đô thị, công nghiệp và từng tùy
nhóm nông dân sẽ có các chính sách tác động khác nhau cho phù hợp. Đối với nông
nghiệp, để PTBV cần phải tăng tỷ lệ đầu tư và đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng
đầu tư vào KCHT, phát triển KHCN, thu hút DN; đẩy mạnh chuyển giao và ứng
dụng rộng rãi tiến bộ KHCN từ nước ngoài, kết hợp tăng cường đầu tư nghiên cứu
trong nước; bảo vệ quỹ đất lúa, cân bằng lợi ích giữa các vùng quy hoạch SXNN;
tăng cường đầu tư KCHT phục vụ đời sống nông dân và SXNN; phát triển sản xuất
và chế biến; ưu tiên hỗ trợ xây dựng hệ thống HTX kiểu mới. Đối với nông thôn,
quy hoạch nông thôn; huy động các thành phần kinh tế tập trung xây dựng KCHT
nông thôn, trọng tâm là đường nông thôn và hệ thống thủy lợi, thông tin liên lạc, cấp
điện, cấp thoát nước; xây dựng phong trào nông thôn mới (NTM) dựa vào các tổ
chức cộng đồng; đưa công nghiệp đô thị phân tán về nông thôn [90, tr.199-208].
Tác giả Trần Đại Nghĩa (2012), trong “Liên kết nông dân doanh nghiệp trong
sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa quy mô lớn tại Việt Nam” chỉ ra yêu cầu
tất yếu của liên kết nông dân - DN trong SXNN theo quy mô lớn và khẳng định “mối
liên kết nông dân - DN mang lại lợi ích cho cả hai bên. Việc áp dụng đồng bộ các tiến
bộ kỹ thuật và sử dụng dịch vụ phục vụ SXNN chỉ phát huy hiệu quả tối đa khi thực
hiện theo thời gian nhất định và đồng loạt trên một diện tích lớn” [71, tr.17]. Đồng
thời, tác giả chỉ ra, liên kết sẽ giúp SXNN tiết kiệm chi phí, gia tăng năng suất và chất
lượng nên ngành nông nghiệp sẽ tăng giá trị, tăng lợi nhuận và PTBV.


18
Bộ NN&PTNT (2013) trong “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và PTBV” [10] trên cơ sở chỉ ra những hạn chế, bất cập mà

ngành nông nghiệp Việt Nam đang gặp phải, như: giá trị gia tăng thấp, thu nhập của
người làm nông nghiệp thấp, ONMT gia tăng đã đưa ra hệ thống giải pháp, như:
nâng cao chất lượng quy hoạch; khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân; nâng cao hiệu
quả quản lý đầu tư công; cải cách thể chế; hoàn thiện hệ thống chính sách để ngành
nông nghiệp PTBV.
Nguyễn Thanh Hải (2014) trong “Phát triển nông nghiệp các tỉnh trung du
miền núi phía Bắc Việt Nam theo hướng bền vững“ [34] trên cơ sở đánh giá thực
trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến PTNN theo hướng bền vững ở các tỉnh trung du
miền núi phía Bắc Việt Nam, đưa ra hệ thống giải pháp nhằm PTNN theo hướng bền
vững trong thời gian tới, như: tập trung làm tốt công tác quy hoạch PTNN trên địa
bàn toàn vùng cũng như từng địa phương; xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất
hàng hóa ở các tỉnh hoặc liên tỉnh có lợi thế; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ cho sản xuất của toàn vùng cũng như của từng tỉnh trong vùng; lựa chọn hình
thức tổ chức SXNN phù hợp với điều kiện và đặc điểm của vùng trung du miền núi
phía Bắc; lựa chọn phương thức canh tác phù hợp với điều kiện của vùng trung du
miền núi phía Bắc nói chung, của từng tỉnh trong vùng nói riêng; ứng dụng các tiến
bộ mới của khoa học và công nghệ (KH&CN) vào SXNN; đầu tư thỏa đáng cho đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ SXNN; đầu tư phát triển các dịch vụ hỗ trợ
PTNN; mở rộng thị trường tiêu thụ các loại nông sản hàng hóa do người dân trong
vùng làm ra; giải quyết có hiệu quả vấn đề an sinh xã hội cho người dân.
Tác giả Hoàng Thị Chỉnh (2015) trong “Những vấn đề đặt ra đối với nông
nghiệp Việt Nam và các giải pháp đề xuất” [13] đã chỉ ra, để nông nghiệp Việt Nam
PTBV cần phải có những thay đổi căn bản cả trong tư duy lẫn hành động. Cụ thể,
cần phải làm lại quy hoạch; thúc đẩy nhanh hơn tái cơ cấu ngành nông nghiệp; tổ
chức lại sản xuất; tăng cường tính liên kết trong SXNN; nâng cao trình độ dân trí
cho người lao động, tăng cường sự hội nhập vào nền nông nghiệp thế giới; vai trò
quan trọng của Chính phủ.
Tác giả Nguyễn Thị Hường (2015) trong công trình “Phát triển nông nghiệp
Việt Nam trong điều kiện biến đổi khí hậu” [54] đã đưa ra hệ thống giải pháp PTNN
Việt Nam trong điều kiện BĐKH, như: (i) Nâng cao chất lượng của chiến lược, quy



19
hoạch, kế hoạch PTNN của quốc gia, của từng địa phương; (ii) Hoàn thiện chính
sách huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho PTNN; (iii) Thực hiện tái
cơ cấu các ngành sản xuất phù hợp với xu hướng BĐKH và nâng cao giá trị gia
tăng, sức cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp; (iv) Hoàn thiện các chính sách
hỗ trợ cho nông dân và thúc đẩy liên kết trong PTNN để mở rộng thị trường xuất
khẩu giảm rủi ro và tăng hiệu quả cho các ngành SXNN; (v) Nâng cao nhận thức
của nông dân và cộng đồng về BĐKH và tác động của BĐKH đối với PTBV nông
nghiệp ở Việt Nam; (vi) Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với
nông nghiệp và một số tài nguyên quan trọng; (vii) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
ứng phó với BĐKH và huy động nguồn lực cho PTNN.
Tác giả Phí Văn Hạnh (2016) trong “phát triển nông nghiệp theo hướng bền
vững ở vùng đồng bằng sông Hồng“ [37] trên cơ sở đánh giá thực trạng PTNN theo
hướng bền vững ở các tỉnh ĐBSH, chỉ ra hạn chế và nguyên nhân của hạn chế cùng
những vấn đề đặt ra đã đưa ra 4 nhóm giải pháp, như: nhóm giải pháp chung; nhóm
giải pháp nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả PTNN theo hướng bền vững;
nhóm giải pháp đảm bảo môi trường bền vững trong quá trình PTNN; và nhóm giải
pháp bảo đảm bền vững về xã hội trong PTNN ở vùng ĐBSH.
Ngoài ra, còn một số nghiên cứu của các tác giả, như: Phạm Thị Khanh
(2005) [58]; Nguyễn Kế Tuấn (2006) [112]; Hoàng Thị Chỉnh (2010) [13]; Đinh Phi
Hổ (2010) [42]; Ngô Sỹ Tiệp (2013) [101]; Vũ Văn Hùng (2013) [52]; Đỗ Kim
Chung, Kim Thị Dung (2013) [18]; Vương Đình Huệ (2014)[51]; Lê Vũ Phong
(2016) [77] đã chỉ con đường để PTNN theo hướng bền vững, như: tối đa hóa lợi
ích của sự phát triển kinh tế trên cơ sở duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên
theo thời gian và tuân thủ các quy luật; can thiệp vào tự nhiên theo cách nào đó để
thực hiện một cân bằng có thể chấp nhận được giữa lợi ích mang lại từ việc sử dụng,
khai thác nguồn lực tự nhiên cho sản xuất với lợi ích từ việc gìn giữ chức năng sinh
thái của nó; con đường thực hiện tăng trưởng nông nghiệp chính là thâm canh.

Phương thức này đòi hỏi sử dụng các kỹ thuật sinh học như giống mới, nhiều phân
bón, sự thay đổi cơ cấu cây trồng, kết hợp nông lâm và NTTS, các kỹ thuật sinh hóa chống lại sâu hại và dịch bệnh. Nếu các kỹ thuật này có thể đảm bảo không làm
suy thoái môi trường, nông nghiệp sẽ đảm bảo tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên,
nếu trình độ văn hóa của nông dân quá thấp, sẽ rất khó khăn cho họ để hiểu được


20
các khái niệm về bền vững - suy thoái môi trường và hiểu được các kỹ thuật nhằm
giảm suy thoái tài nguyên. Điều này trở thành rào cản cho việc áp dụng các kỹ thuật
mới vừa đem lại lợi ích cho họ vừa BVMT. Do đó, tăng trưởng nông nghiệp mà
không gắn với cải thiện trình độ dân trí nông thôn sẽ ảnh hưởng tới suy thoái môi
trường; quy hoạch nông nghiệp theo hướng thị trường mở; PTNN sạch và nông
nghiệp hữu cơ; hỗ trợ nông dân về kỹ thuật, đào tạo, đời sống vật chất...; tăng đầu tư
công và thu hút mạnh hơn đầu tư toàn xã hội vào nông nghiệp, nông thôn; ứng dụng
KHCN; Tái cơ cấu ngành nông nghiệp…
1.1.2.3. Các công trình nghiên cứu về phát triển nông nghiệp theo hướng
bền vững ở một số địa phương và Nam Định
- Các công trình nghiên cứu về PTNN theo hướng bền vững ở một số địa
phương. Ở hướng nghiên cứu này, trên cơ sở lý luận chung về PTNN theo hướng bền
vững, dựa trên các điều kiện cụ thể của địa phương, của ngành hàng các tác giả đã xây
dựng bộ tiêu chí đánh giá PTNN, phát triển ngành hàng theo hướng bền vững, đồng
thời, chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến PTNN địa phương, phát triển ngành hàng theo
hướng bền vững, từ đó đưa ra giải pháp nhằm PTNN địa phương hoặc ngành hàng theo
hướng bền vững. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này có thể kể đến như:
Nguyễn Văn Hóa (2014) với công trình: “Phát triển cà phê bền vững trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk” [45] đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển cà phê bền
vững, đó là quá trình phát triển hướng tới thay đổi kỹ thuật và công nghệ sản xuất, chế
biến cà phê thân thiện với môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế, công bằng xã hội
nhằm đảm bảo thỏa mãn nhu cầu sản phẩm cà phê chất lượng cao của con người cho
thế hệ hôm nay. Đồng thời, công trình nghiên cứu cũng làm rõ các nhân tố tác động đến

phát triển cà phê bền vững gồm: điều kiện tự nhiên, năng lực của các tổ chức sản xuất
kinh doanh cà phê, thị trường và tác động của chính phủ, từ đó đưa ra các giải pháp
nâng cao năng lực của người sản xuất kinh doanh, phát triển thị trường, đầu tư đổi mới
công nghệ và kỹ thuật sản xuất kinh doanh cà phê, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên,
xây dựng chính sách hợp lý và đầu tư công cho phát triển cà phê bền vững.
Nguyễn Minh Luân (2016) với “Nông nghiệp tỉnh Cà Mau phát triển theo
hướng bền vững” [67] đã hệ thống hóa và cụ thể hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về
nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững nói chung và ở tỉnh Cà Mau nói riêng,
phân tích quá trình nông nghiệp phát triển theo hướng bền vững ở tỉnh Cà Mau từ


×