BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
ẢNH HƢỞNG CỦA LUẬT TỤC ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH TRONG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI
CHỖ Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................. 7
1.1. Những công trình đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài ..................................... 7
1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. 27
Kết luận chương 1.................................................................................................... 31
Chƣơng 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƢỞNG CỦA LUẬT TỤC
ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TRONG CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI CHỖ Ở TÂY NGUYÊN .......................................... 32
2.1. Luật tục về hôn nhân và gia đình của các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên32
2.2. Thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình ......................................................... 46
2.3. Khả năng ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật hôn nhân gia đình
trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên ...................................................... 51
2.4. Các yếu tố tác động tới ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật hôn
nhân và gia đình trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên ........................... 61
Kết luận chương 2.................................................................................................... 72
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG ẢNH HƢỞNG CỦA LUẬT TỤC ĐỐI VỚI THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TRONG CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ TẠI CHỖ Ở TÂY NGUYÊN ............................................................. 74
3.1. Ảnh hưởng của luật tục các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên tới việc thực hiện
các quy định pháp luật về kết hôn ............................................................................ 74
3.2. Ảnh hưởng của luật tục các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên tới việc thực
hiện pháp luật về quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ................................... 89
3.3. Ảnh hưởng của luật tục các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên tới việc thực
hiện pháp luật về ly hôn, phân chia tài sản và nhận con nuôi.................................. 101
3.4. Nguyên nhân những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của luật tục tới việc thực hiện
pháp luật hôn nhân và gia đình trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên ... 108
Kết luận chương 3.................................................................................................. 115
Chƣơng 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƢỞNG TÍCH
CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƢỞNG TIÊU CỰC CỦA LUẬT TỤC ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TRONG CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ TẠI CHỖ Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY ....................................... 117
4.1. Quan điểm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật
tục đến việc thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong các dân tộc thiểu số tại chỗ
ở Tây Nguyên hiện nay .......................................................................................... 117
4.2. Các giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của luật tục đến việc thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong các dân tộc thiểu
số tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay .......................................................................... 122
Kết luận chương 4.................................................................................................. 157
KẾT LUẬN..............................................................................................................158
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển
xã hội loài người. Chính vì vậy, ở mọi thời đại, gia đình luôn có vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển xã hội, làm rạng rỡ bản sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ
Chí Minh từng khẳng định “Quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại
mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình”. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, HN&GĐ chịu
sự tác động có tính quyết định của điều kiện kinh tế xã hội. Lịch sử phát triển của xã
hội loài người gắn liền với quá trình phát sinh, thay đổi những hình thái HN&GĐ. Đặc
biệt từ khi xuất hiện nhà nước, sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng gia đình
được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quyền và nghĩa vụ giữa các bên
trong quan hệ pháp luật. Quan hệ HN&GĐ không chỉ thể hiện ý chí của cá nhân mà
còn mang ý chí nhà nước.
Với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật
HN&GĐ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực HN&GĐ nhằm xây
dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ, bình đẳng. Trong giai đoạn hiện nay, việc
củng cố và xây dựng quan hệ HN&GĐ là vấn đề rất quan trọng, một mặt góp phần vào
việc ổn định trật tự xã hội, mặt khác tạo cơ sở pháp lý cho việc xác lập quan hệ
HN&GĐ theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tây Nguyên là vùng đặc thù trong cả nước về vị trí địa lý, điều kiện kinh tế - xã
hội và dân cư với 54 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có 12 dân tộc thiểu số tại chỗ.
Mỗi dân tộc đều có những giá trị văn hóa truyền thống, mang bản sắc riêng với hệ
thống luật tục giữ vai trò quan trọng trong quá trình tự quản, điều hòa xã hội. Hiện
nay, ở Tây Nguyên, trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ, luật tục trong
lĩnh vực HN&GĐ vẫn giữ vai trò chủ đạo. Họ hoặc không biết đến những quy định
của pháp luật hoặc vẫn chưa hiểu rõ các quy định của pháp luật về chế độ HN&GĐ,
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ HN&GĐ cũng như các nguyên tắc cơ
bản của chế độ HN&GĐ. Tồn tại vấn đề này, một phần là do trình độ phát triển của
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên vẫn đang còn một khoảng cách đáng kể
so với trình độ chung của cả nước. Do đó, việc áp dụng pháp luật vào đời sống của
cộng đồng các dân tộc thiểu số nơi đây đã và đang gặp không ít khó khăn. Quy định
của pháp luật do nhiều lý do mà chưa thể đến được với toàn thể người dân. Nhưng trên
2
thực tế, nguyên nhân chủ yếu là do chi phối bởi luật tục, thứ đã ăn sâu bám rễ trong
tâm trí mỗi người dân làm cho họ tuân theo luật tục như một thói quen, một điều hiển
nhiên mà không quan tâm đến pháp luật. Trong tham luận của Sở Tư pháp tỉnh Đắc
Lắc tại hội thảo “Mối quan hệ giữa luật tục, hương ước và pháp luật hiện hành” do
Viện Khoa học pháp lý tổ chức đã nhận định: “có những vụ việc mặc dù Tòa án nhân
dân các cấp đã xét xử, nhưng người dân vẫn yêu cầu buôn làng xử lại và bản án xét xử
theo luật tục được buôn làng chấp nhận hơn bất kỳ một bản án nào khác”. Vì vậy, vấn
đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để có thể kết hợp hài hòa, có sự hỗ trợ, bổ sung cho
nhau giữa luật pháp của Nhà nước và luật tục của buôn làng, nghiên cứu và áp dụng
luật tục trong thực tế sẽ góp phần rất lớn trong việc ổn định trật tự xã hội ở địa
phương. Đánh giá được thực trạng ảnh hưởng của luật tục đối với việc thực hiện pháp
luật HN&GĐ trong cộng đồng người dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn Tây Nguyên
hiện nay, xác định được những tác động tích cực và tiêu cực của luật tục trong lĩnh vực
này và tìm ra giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế, khắc phục và từng bước
loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực của luật tục, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật HN&GĐ trong khu vực này là điều cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận lẫn
thực tiễn. Đó cũng là lý do để nghiên cứu sinh chọn và nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng
của luật tục đến việc thực hiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong các dân tộc
thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này là tìm ra các giải pháp phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế, tiến tới từng bước loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của
luật tục đến việc thực hiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
HN&GĐ ở cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ của Tây Nguyên trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án đã thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật
HN&GĐ mà chủ yếu là các nội dung: khái niệm và đặc điểm của luật tục; khái
niệm, các hình thức thực hiện pháp luật HN&GĐ; khả năng ảnh hưởng của luật tục
tới việc thực hiện pháp luật HN&GĐ; các yếu tố tác động đến ảnh hưởng của luật
tục tới việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây
Nguyên.
3
- Đánh giá được thực trạng ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp
luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên từ năm 2006 tới nay,
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp phù hợp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của luật tục tới việc thực hiện
pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng các
dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu và đánh giá thực trạng ảnh hưởng của luật tục
tới việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên
từ năm 2006 đến năm 2016, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, các giải pháp cần
thực hiện để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của luật tục nhằm làm cho việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng các
DTTSTC ở Tây Nguyên được nghiêm chỉnh và tự giác hơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian là địa bàn cư trú của 6 dân tộc thiểu số tại
chỗ theo chế độ gia đình mẫu hệ ở Tây Nguyên, đó là các dân tộc Ê đê, Gia rai, Chu
ru, Raglai, Cơ ho và M'nông cư trú chủ yếu ở 4 tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và
Lâm Đồng. Địa bàn khảo sát tại 4 tỉnh trên là ở một số huyện như Chư pưh, Chư Sê,
thành phố Pleiku tỉnh Gia Lai, huyện CưMgar, huyện Buôn Đôn và Thành phố Buôn
Ma Thuật tỉnh Đắc Lắc, huyện Tuy Đức, huyện Đắc Song và Thị xã Gia Nghĩa tỉnh Đắc
Nông, huyện Đơn Dương, huyện Lạc Dương và huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và hƣớng tiếp cận của luận án
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật mà chủ
yếu là về thực hiện pháp luật HN&GĐ. Các vấn đề thuộc nội dung của đề tài sẽ được
nghiên cứu trên cơ sở của quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm phân tích, tổng hợp,
so sánh, lịch sử cụ thể, xã hội học, lý thuyết hệ thống, thống kê… Các phương pháp
trên được sử dụng như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, so sánh được sử dụng để nghiên
cứu những vấn đề lý luận, xây dựng các khái niệm và rút ra các nhận xét, đánh giá.
4
- Phương pháp liên ngành dân tộc học - văn hóa học - luật học là phương pháp
quan trọng được sử dụng trong việc xác định quan niệm, biểu hiện của luật tục, ảnh
hưởng của luật tục. Những tư liệu điền dã tại địa bàn là minh chứng cho những nhận
định, những lý giải về ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ tại
các DTTSTC ở Tây Nguyên trong thực tế và nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng đó.
- Phương pháp thống kê, khảo sát, điều tra xã hội học với các công cụ như bảng
hỏi cấu trúc, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được sử dụng để thu thập và xử lý
thông tin về các vấn đề liên quan đến việc đánh giá thực trạng ảnh hưởng của luật tục
đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ ở Tây Nguyên thời gian qua. Các công cụ
nghiên cứu định tính sẽ hỗ trợ làm sáng tỏ các thông tin thống kê thu thập được, thông
qua các kỹ thuật phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm.
Việc sử dụng các phương pháp trên trong luận án nhằm đảm bảo tính chỉnh thể
và liên thông giữa nội dung các chương và đảm bảo sự cân đối về kết cấu cũng như
tính đồng bộ, toàn diện trong các đánh giá và đề xuất các giải pháp.
4.2. Về hƣớng tiếp cận của luận án
- Hướng tiếp cận mang tính lịch sử, hệ thống: Trên cơ sở tập hợp, hệ thống các
công trình nghiên cứu ngoài nước và trong nước có liên quan đến đề tài của luận án đã
được thu thập, luận án sẽ kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trên cơ sở phân
tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu đó trong điều kiện lịch sử cụ thể, trong một hệ
thống các mối liên hệ qua lại, ràng buộc lẫn nhau giữa các vấn đề nghiên cứu và định
hướng tiếp tục nghiên cứu.
Hướng tiếp cận hệ thống được sử dụng để xem xét các bộ luật tục của các đồng
bào dân tộc thiểu số, mà những quy định về HN&GĐ là một phần trong các quy định
của luật tục.
- Hướng tiếp cận mang tính liên ngành: Luận án được nghiên cứu trên cơ sở sử
dụng phối hợp các tri thức khoa học và phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học xã hội và nhân văn như khoa học lịch sử, khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học,
văn hóa học, luật học để xây dựng cơ sở lý luận cho các vấn đề nghiên cứu.
- Hướng tiếp cận mang tính thực tiễn: Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của
luật tục đến việc thực hiện pháp luật về HN&GĐ trong thực tế, luận án sẽ cho thấy bức
tranh toàn cảnh về những ảnh hưởng cụ thể của luật tục đến việc thực hiện pháp luật
HN&GĐ ở Tây Nguyên. Cách tiếp cận này sẽ là phương án tối ưu để đề xuất những giải
pháp riêng và cụ thể cho việc phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh
5
hưởng tiêu cực của luật tục đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các DTTSTC ở
Tây Nguyên.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu
dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật về ảnh hưởng của luật tục đến
việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng 6 dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây
Nguyên từ năm 2006 đến năm 2016.
Luận án đã tập hợp, hệ thống hóa và xác định được các kết quả nghiên cứu cụ
thể của nhiều công trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước về luật tục, luật tục Tây
Nguyên, vai trò của luật tục trong đời sống xã hội cũng như về thực hiện pháp luật
HN&GĐ và ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ.
Luận án đã phân tích làm rõ được những nội dung lý luận về khả năng ảnh
hưởng và các yếu tố tác động đến ảnh hưởng của luật tục tới việc thực hiện pháp luật
HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên.
Luận án đã trình bày được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của luật tục tới
việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên trong
thực tế và xác định được một số nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng đó.
Luận án đề xuất được một số giải pháp để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn
chế và từng bước loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của luật tục đến việc thực hiện pháp
luật nhằm giúp cho việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở
Tây Nguyên thời gian tới được nghiêm chỉnh và tự giác hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về luật tục
nói chung, lí luận về luật tục về HN&GĐ nói riêng và lý luận về ảnh hưởng của luật tục
đến việc thực hiện thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các DTTSTC ở Tây Nguyên.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các nhà hoạt động
thực tiễn trong quá trình hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật về HN&GĐ ở khu
vực miền núi. Đồng thời cung cấp tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước ở Tây
Nguyên trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển kinh tế xã
hội, chính sách và pháp luật về hôn nhân gia đình ở địa phương. Kết quả nghiên cứu
của luận án cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng
6
dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung và khoa học Lý luận chung về
nhà nước và pháp luật nói riêng.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan liên quan
tới đề tài luận án
Chương 2. Những vấn đề lý luận về ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện
pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên
Chương 3. Thực trạng ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện pháp luật
HN&GĐ trong các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên thời gian qua
Chương 4. Quan điểm và giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của luật tục đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ trong các dân tộc
thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên hiện nay
7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những công trình đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về luật tục, luật tục Tây nguyên và vai
trò của luật tục đối với đời sống xã hội
Ở phương Tây luật tục đã được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX bởi các nhà luật học và các nhà cai trị địa phương, khi mà chủ nghĩa thực dân
được thiết lập ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước Châu Á,
Châu Phi, Nam Mỹ. Các nhà luật sử thời kỳ này đã hợp nhất một cách hài hòa giữa
luật La Mã và tập quán pháp. Học giả thuộc trường phái lịch sử ở Đức là Henry
Sumner Maine (1822-1888) đã kết hợp nghiên cứu luật pháp như là một hiện tượng
văn hóa trên cơ sở số liệu từ lịch sử cổ đại và dân tộc học, luật pháp đương đại.
Dưới góc độ tập quán trở thành luật pháp thì A. Wantson trong bài viết “An
approach to costomary law” in trong cuốn “Folk law” (1994) cho rằng tập quán trở
thành luật khi và chỉ khi nó được đạo luật hay quyết định của tòa án công nhận, khi nó
được biết như là luật, được chấp nhận như là luật và thi hành như là luật.
Theo T.O Elias thì vào khoảng những thập kỷ nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện
bốn loại công trình thuộc dạng văn bản luật tục. Đó là:
- Những cuốn cẩm nang (handbook) về luật tục, như cẩm nang luật Tswanan và
tập quán in năm 1938, cuốn Sổ tay luật Neur của P.P.Howell in năm 1954.
- Những cuốn luật tục đầu tiên, như “Luật tục của bộ lạc Haya thuộc lãnh thổ
Tanganyika” in năm 1945 hay “Luật Sukuma và tập quán” in năm 1953 của Cory.
Thuộc loại này có thể kể tới hàng loạt sách được xuất bản trước đó hay đồng thời, như
“Luật và tập quán bản địa” (1911) của Sey Mour, “Luật bản địa được áp dụng ở
Natal” (1935) của Stafford”.
- Cuốn “Luật tục shona” (1952) và cùng với nó là các cuốn: “Luật tục kamba”
của D.Y.Penwill, “Luật tục Nam di” (1954) của G.S.Snell là thuộc loại chuyên khảo
mô tả luật tục trong môi trường xã hội, văn hóa và luật pháp của dân tộc.
- Loại mô tả luật tục theo các vụ án mà các tòa án địa phương thực hiện và kèm
theo đó là những bình luận của tác giả, như cuốn “Quá trình tòa án của người Brottse
ở Bắc Phodesia” (1955) của Max Gluckam.
8
Ở châu Á, phải kể tới công trình do Masaji Chiba (Nhật Bản) chủ biên, xuất bản
năm 1986, bao gồm nhiều chương viết về luật bản địa của nhiều dân tộc và quốc gia
khác nhau, như người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan,
Nhật Bản. Trong tác phẩm này, Masaji Chiba (Nhật Bản) đưa ra sự phân loại luật ở
các nước Châu Á thành ba hình thức: Luật (Received law), Luật bản địa (Indigenous
law) và dạng hỗn hợp giữa hai hình thức kể trên.
Gần đây xuất hiện rất nhiều những công trình có giá trị về luật tục của các dân
tộc châu Phi và châu Á (Woodman, Gordon R. và A.O.Obilade: African Law and
Legal Theory (Luật châu Phi và Lý thuyết luật pháp). NewYork, NewYork University
Press, 1995). Châu Á và Châu Phi là đối tượng tập trung chú ý của các nhà nghiên cứu
lịch sử luật pháp, chủ yếu người phương Tây, để tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề nảy
sinh giữa pháp luật và luật tục. Khi thực dân Đức, Pháp và Anh sang cai trị và đặt ách
đô hộ ở một số nước ở hai châu lục này, một trong những vấn đề mâu thuẫn căng
thẳng là mâu thuẫn giữa luật bản địa và luật pháp phương Tây.
Nhìn chung, trong thế kỷ XX, thế giới đã có một khối lượng đồ sộ các công
trình nghiên cứu về luật tục từ các góc độ khác nhau dưới góc độ lý luận, phương pháp
và nghiên cứu các trường hợp cụ thể. Các công trình nghiên cứu này cung cấp những
hiểu biết căn bản về luật tục được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh và tạo ra những nền
tảng cần thiết cho các nghiên cứu về luật tục.
Từ đầu thế kỷ XX, các học giả người Pháp đã có một số công trình nghiên cứu
về luật tục Tây Nguyên, hơn một thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu của các ngành khoa
học xã hội khác nhau ở Việt Nam đã bắt đầu sưu tầm luật tục của dân tộc Ê đê,
M’nông, Thái, Jrai...Đây mới là sự khởi đầu của việc sưu tầm và nghiên cứu về luật
tục của các dân tộc ở Việt Nam nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu
về thực tế các dân tộc áp dụng luật tục như thế nào, đặc biệt ở những tộc người đa sắc
thái với nhiều cụm điểm dân cư từ nơi khác đến sinh sống mang theo phong tục tập
quán riêng của họ.
Để thúc đẩy việc sưu tầm, dịch và công bố luật tục Tây Nguyên phải kể đến Chỉ
thị của Pierre Pasquier (có thời gian làm toàn quyền Đông Dương), năm 1923,
Pasquier yêu cầu ghi chép và thu thập luật tục của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Tại Thông tri 578 - ca ngày 30 tháng 7 năm 1923, ông yêu cầu viên chức dưới quyền
tiến hành ghi chép và thu thập luật tục của tất cả các nhóm dân tộc đông người như
Jrai, Xơ đăng, Bana, M’nông; quy tắc hóa các luật tục như đã làm ở Đắc Lắc với người
Ê đê. Thông tri 578 - ca chỉ rõ rằng người Pháp cần biết luật tục các dân tộc Tây
9
Nguyên để tiến hành việc cai trị. Sưu tầm luật tục Tây Nguyên vì lợi ích của chính
quyền đô hộ Pháp cho nên có thể “cải biên” và “thu xếp” một cách có lợi; có thể ủng
hộ cả những việc thử tội có tính chất Trung cổ và biện hộ cho cuộc chiến tranh giữa các
bộ lạc. Thông tri 578 - ca đã thúc đẩy việc ra đời của nhiều tài liệu khác về luật tục.
Năm 1913, Leopold Sabatier đã sưu tầm, hệ thống và cho công bố bộ luật tục Ê
đê: Ruôn Hra Kley Duc key bhiam dum in trong Imprimerie d’Extrêmi - Orient, 1927
bằng tiếng Ê đê. Năm 1940, L. Sabatier cho xuất bản cuốn Sưu tầm luật tục người Ê đê
ở Đắc Lắc do D. Antomarchi dịch và chú thích (Hà Nội, IDEO). Cuốn sách là công
trình sưu tầm, hệ thống và ứng dụng đầu tiên về luật tục. Tuy nhiên, cuốn sách không
chỉ sưu tầm và văn bản luật tục Ê đê, mà bên cạnh luật tục thực tế, ông còn thêm
những quy định của mình vào nhằm mục đích thực thi việc cai trị.
Tiếp theo, lần lượt 5 cuốn sách về luật tục được ra đời gồm:
1.
Jacques Dournes: Nri, sưu tầm luật tục của người Sre ở Thượng Đồng
Nai, Sài Gòn, France - Asie, 1951. Cuốn sách đã phản ánh được những nét cơ bản của
luật tục Sre, gồm hai phần, phần đầu là những điều chung về hình phạt, trách nhiệm,
làm chứng, thử tội, các giao kèo… và phần chính là các điều luật cụ thể. Cuốn sách
trình bày 92 điều luật bằng song ngữ tiếng Sre và tiếng Pháp, đề cập đến các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội như tội chống cấp trên, tù trưởng sai phạm, làm hại
người khác, hôn nhân, tội ác, tài sản, gia súc, đất đai...
2.
Theophile Gerber: Luật tục Stiêng, Tạp chí Trường Viễn đông bác cổ,
1951. Cuốn sách là những ghi chép về luật tục Stiêng ở Bù lơ theo chế độ phụ hệ (khác
với người Stiêng ở Bù đéc theo chế độ mẫu hệ). Cuốn sách gồm 5 chương: Chương I
là một số quan niệm về tập quán pháp, chương II là việc tổ chức xét xử, hình phạt,
chứng cứ, trách nhiệm và liên đới trách nhiệm, chương III về người đứng đầu làng và
các thành viên trong làng, chương IV về HN&GĐ, chương V, về sở hữu tài sản và
thừa kế. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ ghi chép bằng tiếng Pháp mà không có phần ghi
bằng chữ Stiêng. Bên cạnh đó, một số “tiền lệ pháp” trong chương II quy định hành
chính trong xét xử, bản thân luật tục Stiêng không có.
3.
Paul Guilleminet: Luật tục của bộ lạc Bana, Xedang và Jrai ở tỉnh Kon
Tum, Paris, Trường Viễn Đông bác cổ, 1952. Cuốn sách gồm hai tập, mặc dù tên gọi là
Luật tục của bộ lạc Bana, Xedang và Jrai ở tỉnh Kon Tum, song lại tập trung đề cập
đến luật tục Bana. Cuốn sách không giới thiệu toàn văn hoặc từng phần của luật tục
Bana mà chủ yếu là dẫn ra và bình luận về những luật lệ mà chính quyền thực dân
10
Pháp sử dụng. Dournes đã nhận xét: “Ở đây không hề có luật tục truyền thống của
nhân dân”[49, tr.9].
4.
Jean Boulbet: Vài khía cạnh của luật tục (N’ri) người Cau Ma, Tạp chí
xã hội và nghiên cứu Đông Dương, Sài Gòn 1957. Cuốn sách gồm bốn chương:
chương 1 về xứ sở Mạ, chương 2 sắc thái đùa cợt của người Mạ - một thú vui trong
nói chuyện, chương 3, luật tục Mạ, chương 4, về thơ ca của người Mạ. Đối với luật tục
của người Mạ, tác giả dẫn ra 68 điều liên quan đến các lĩnh vực như xử kiện, chiến
tranh, thủ lĩnh, nói dối, quan hệ trai gái, cưới xin và hôn nhân, gia đình, ngoại tình,
không ly dị, loạn luân...bao gồm tiếng Mạ và phần dịch sang tiếng Pháp. Cuốn sách là
thể hiện sự nghiêm túc, thận trọng và am hiểu của tác giả về cách nói, cách suy nghĩ
của tộc người Mạ; trong tác phẩm này, luật tục được vận dụng với mong muốn hòa
giải các tranh chấp.
5.
Pierre Bernard Lafont: Tơ lơi djuat, luật tục của bộ lạc Jrai, Paris,
Trường Viễn đông bác cổ, 1963. J. Dournes cho rằng đối với luật tục Jrai: “mục đích
của tất cả quá trình luật tục Jrai là để đạt đến sự thỏa thuận chung, thông qua một sự
dàn xếp chấp nhận được. Và do vậy mà giải quyết sự căng thẳng trong một bộ phận
nhỏ của cộng đồng.” Và ông đánh giá rất thấp cuốn sách nói trên “cuốn sách này có lẽ
là đáng chê cười nhất trong số các tác phẩm về luật tục của người bản xứ. Tác giả
không hiểu sâu về cả ngôn ngữ và văn hóa Jrai. Những đoạn văn bản luật tục trong
sách được Lafont tập hợp từ những thanh niên ít hiểu biết về truyền thống Jrai. Việc
dịch của Lafont lại kì dị hơn: sự bình luận dựa vào luật La Mã và sự tưởng tượng của
ông”[49, tr.10].
Bên cạnh đó, còn có thể kể tới các cuốn sách và bài viết của Canivery, quan cai
trị Pháp, Ghi chép về tập quán và các phong tục của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
ở Đà Lạt (1913); Cunhac, quan cai trị Pháp: Ghi chép ngắn trên cơ sở luật tục người
dân tộc thiểu số Tây Ngyên ở Thượng Đồng Nai, cao nguyên người Mạ (1921); Adelé,
quan cai trị Pháp: Tập hợp thông tin về luật tục người Mạ (1931); Jean Cassaigne, nhà
truyền giáo đạo Gia Tô người Pháp: Luật tục Kơho (1937);
Như vậy là trong một khoảng thời gian không dài lắm nhiều sách về luật tục
Tây Nguyên đã được xuất bản. Không phải tất cả các nhà khoa học trên đều tuân thủ
chặt chẽ chỉ thị của P. Pasquier. Tuy nhiên, không thể phủ nhận tính mục đích của toàn
bộ xu hướng sưu tầm, nghiên cứu và xuất bản sách luật tục thời bấy giờ theo tinh thần
Chỉ thị ngày 30 tháng 7 năm 1923 này.
11
- Một số Luật tục và Luật cổ ở Đông Nam Á, Vũ Quang Thiện, Tô Viễn (biên
dịch), Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1995. Cuốn sách giới thiệu về Luật tục Chin
(My-an-ma), Luật tục Ka-Chin (My-an-ma), Luật Lào, Luật Luổng Pha-băng (Lào),
Luật hôn nhân và thừa kế của người Gia-va Hồi giáo.
- Customary law rural develement in Viet Nam today(Luật tục và phát triển
nông thôn ở Việt Nam hiện nay), Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000. Với các bài viết có liên quan như:
+ Một số nhận xét về việc nghiên cứu luật tục, GS. G.Condominas (Pháp),
trong bài viết tác giả đưa ra nhận xét về luật tục dưới góc độ liên quan đến tính chất
của luật tục đó là tính truyền miệng, và dưới góc độ của đời sống xã hội là đức tin và
thực hành tín ngưỡng. Tác giả kết luận rằng, khi nghiên cứu luật tục, người ta phải
nghiên cứu dưới nền tảng vững chắc đó là sự hiểu biết về dân tộc học, xã hội học về
nhóm người và phải biết quan sát nguồn gốc xung đột, cách tổ chức sự kiện, việc xử
kiện và phải có kiến thức về khoa học pháp lý.
+ Luật tục của người Minangkabuau, H. Idrus Hakimi Datuak Rajo Panghulu
(Indonexia), bài viết nhằm miêu tả sự đóng góp của adat istiadat (các tập tục) của
Minangkanuau trong sự phát triển của miền Tây tỉnh Sumatra thuộc Indonexia, tuy
nhiên bài viết lại viết dưới góc độ là viết riêng cho Việt Nam với mong muốn là nó có
thể được sử dụng để nghiên cứu và so sánh.
- Văn hóa chính trị và tộc người, Toh Goda (Chủ biên), Trung tâm nghiên cứu
Việt Nam, Đông Nam Á, Võ Văn Sen, Chu Thị Quỳnh Giao, Ngô Thị Phương Lan,
Dương Thị Hải Yến dịch, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh, 2001. Đây là cuốn sách do GS. TS. Toh Goda chủ biên và Nhà xuất bản New
Day, Philippines ấn hành tháng 3 năm 1999, là tập hợp những bài viết mới của các nhà
khoa học và nghiên cứu Nhật bản, Philippines được đúc kết qua thời gian theo dõi và
tiếp cận trực tiếp đời sống sinh hoạt của một số tộc người nhỏ ở Philippines, Indonesia,
Malaysia và Đài Loan. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và mô tả nhiều khía cạnh của
nội dung văn hóa chính trị của các tộc người này. Mặc dù, cuốn sách chưa bao quát
đời sống sinh hoạt của nhiều tộc người khác ở các nước Đông Nam Á, nhưng bước
đầu đã giúp cho chúng ta một cái nhìn mới về phương pháp nghiên cứu, lựa chọn vấn
đề nghiên cứu và tư duy khoa học. Cuốn sách vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa mang
giá trị thực tiễn. Đặc biệt là bài viết Luật tục trong thời ký quá độ: sự quan tâm phát
triển luật tục ở Negeri Sembilan, Malaysia của Hisashi Endo, Khoa Nghiên cứu con
người, Đại học Kyoto Bunkyo - Nhật Bản.
12
Ngày nay, luật tục được coi là một trong những đối tượng của ngành lịch sử - so
sánh pháp luật, một ngành nghiên cứu đạt được nhiều thành quả trong lịch sử pháp luật
cũng như trong nhân loại học luật pháp. Kinh nghiệm của các học giả nước ngoài
trong nghiên cứu lịch sử pháp luật nói chung và luật tục nói riêng đã phần nào giúp
chúng ta khám phá và đi sâu nghiên cứu luật tục của Việt Nam, đặc biệt trong tình
hình Nhà nước và các ngành nghiên cứu đang xem xét lại các giá trị truyền thống của
các dân tộc.
Sau khi các tác phẩm luật tục của người Pháp được công bố, một thời gian dài,
người Việt Nam bỏ trống lĩnh vực này. Mãi đến năm 1986 - 1987 trong đợt sưu tầm
văn hóa dân gian Đắc Lắc của Viện nghiên cứu văn hóa dân gian phối hợp với Sở văn
hóa thông tin Đắc Lắc, vấn đề luật tục mới được đề cập. Và trong các cuốn sách Văn
hóa dân gian Ê đê (Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1992) và
Văn hóa dân gian M’nông (Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
1993) có một chương viết về luật tục các dân tộc này.
Ở góc độ các nhà Dân tộc học, văn hóa học, luật tục được xem xét dưới góc độ
văn hóa của các tộc người. Trong đời sống của cộng đồng ngày nay, khi chúng ta đang
tập trung sức xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc tập trung trí tuệ hoàn thiện pháp
luật của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội hiện nay và những năm tiếp theo là một vấn đề đặc biệt quan trọng
mang ý nghĩa sống còn của đất nước và của dân tộc. Song cũng không thể phủ định
những giá trị tích cực của luật tục đang tồn tại trong đời sống cộng đồng, đặc biệt
trong điều kiện xây dựng dân chủ ở cơ sở thì việc nghiên cứu luật tục dưới góc độ luật
học là vấn đề cần thiết.
- Hỏi đáp về luật tục các dân tộc Việt Nam, Tủ sách văn hóa, Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2009. Công trình này đề cập đến quá trình phát triển của luật tục
các dân tộc Việt Nam, khái niệm luật tục, hình thức, trình độ, quá trình phát triển của
luật tục các dân tộc Việt Nam (gồm Luật tục Tây Nguyên, Luật tục Thái và Hương
ước của người Việt); luật tục và việc thi hành luật tục của các dân tộc Việt Nam.
- Tác động của luật tục đối với việc quản lý xã hội ở các dân tộc Thái, Hmông
thuộc Tây Bắc Việt Nam, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp bộ, chủ nhiệm Bùi Xuân
Trường, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phân viện Hà Nội, 1997. Đây là
công trình tập hợp những bài viết liên quan đến luật tục, điển hình là:
+ Luật tục, sự hình thành và vai trò trong đời sống của một số cư dân, PGS.
PTS. Phan Sỹ Giáo, đề cập đến nguồn gốc của luật tục, vai trò của luật tục trong đời
13
sống xã hội truyền thống của một số tộc người ở nước ta dưới góc độ duy trì trật tự xã
hội, đảm bảo các yêu cầu của hoạt động sản xuất, ngăn chặn các hành vi phạm tội, bảo
vệ tài sản của các gia đình và cá nhân, trên cơ sở đó, tác giả cũng trình bày một số nội
dung cụ thể thông qua luật tục của người Hmông ở miền núi phía Bắc nước ta.
+ Luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Cầm Trọng, trong bài viết tác
giả đề cập đến các luật lệ liên quan đến sản xuất, những hành vi làm mất an ninh trật
tự, đặc biệt là các luật lệ liên quan đến HN&GĐ, từ việc tìm hiểu nhau, các quy định
về cưới xin và ly hôn, chia thừa kế. Từ những nghiên cứu đó tác giả cũng đưa ra nhiều
điều suy nghĩ về dân tộc này.
+ Một số luật tục cơ bản của dân tộc Hmôngz ở Việt Nam, Phan Thanh, bài viết
nêu lên các luật tục cơ bản trong dân tộc Hmôngz từ những luật tục cơ bản đó nêu lên
những kiến nghị về các luật, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đáp ứng,
sửa đổi thế nào cho phù hợp với lòng dân
- Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Viện Nghiên cứu dân
gian, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Đây là công trình tập hợp những bài viết liên
quan đến luật tục nói chung và luật tục Tây Nguyên nói riêng, điển hình là các bài viết:
+ Vai trò của phong tục tập quán và việc kế thừa phong tục tập quán trong xây
dựng pháp luật, TS. Lê Hồng Sơn, đề cập đến khái niệm, đặc trưng của phong tục tập
quán (thể hiện tập trung ở hai hình thức chính là hương ước và luật tục), vị trí, vai trò
của hương ước, luật tục trong quản lý xã hội, việc kế thừa phong tục tập quán trong
hoạt động xây dựng pháp luật thông qua việc Nhà nước thừa nhận phong tục, tập quán
hay “đề lên thành luật” những quy phạm phù hợp với mục đích quản lý của Nhà nước.
+ Một số vấn đề về luật tục và pháp luật ở Đắc Lắc hiện nay, TS. Hoàng Thị
Kim Quế. Bài viết trình bày về những nội dung cơ bản của luật tục Ê đê và M’nông
dưới góc độ pháp lý, gồm những nét đặc thù về hình thức thể hiện của luật tục Ê đê và
M’nông, bản chất và những thuộc tính cơ bản của luật tục Ê đê và M’nông, những đặc
điểm về các biện pháp xử phạt và đối tượng điều chỉnh trong luật tục Ê đê và M’nông.
Tác giả cũng nêu khái quát về thực trạng luật tục và pháp luật ở Đắc Lắc hiện
nay. Theo tác giả, thực trạng của luật tục và pháp luật ở Tây Nguyên hiện nay là vấn
đề lớn, phức tạp, liên quan đến hàng loạt vấn đề như: xã hội dân sự, chính quyền, đoàn
thể, kinh tế, văn hóa xã hội, …
+ Luật tục và việc trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc, Tạ Thị Minh Lý. Bài
viết đã nêu được khái niệm luật tục, vai trò to lớn của luật tục trong đời sống thực tế ở
các bản làng; những ưu điểm, nhược điểm của luật tục hiện nay nhưng chỉ là những
14
điều chung chung nhất. Tuy nhiên, bài viết chủ yếu trình bày về chức năng, nhiệm vụ
và phạm vi hoạt động của tổ chức trợ giúp pháp lý; mục đích, ý nghĩa chung của hoạt
động trợ giúp pháp lý, đặc biệt là đối với việc góp phần giữ gìn và phát triển luật tục;
các giải pháp trợ giúp pháp lý trong việc loại bỏ những quy định lạc hậu của luật tục.
+ Giá trị của luật tục từ góc nhìn pháp lý, ThS. Nguyễn Việt Hương. Bài viết
nêu lên khái niệm luật tục và giá trị của luật tục nhìn từ góc độ pháp lý. Theo tác giả,
trong mối quan hệ với pháp luật, giá trị của luật tục được thể hiện ở ba phương diện:
Thứ nhất, luật tục, trong những phạm vi nhất định và ở một số lĩnh vực nhất định có
khả năng thay thế pháp luật; thứ hai, luật tục có vai trò bổ sung cho pháp luật trong
những điều kiện nhất định; thứ ba, luật tục có tác dụng hỗ trợ cho pháp luật trong
nhiều lĩnh vực.
+ Hướng đi đến bảo tồn và duy trì luật tục ở Việt Nam, Hà Quế Lâm và Cần
nghiên cứu vận dụng phong tục tập quán của người thiểu số vào quá trình thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, Trần Xuân Hiệp. Cả hai bài viết đều nêu lên vai trò của luật
tục trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng đồng buôn làng, dân tộc và
quan hệ gia đình. Những yêu cầu bức bách về phát triển xã hội đã đòi hỏi phải nghiên
cứu, đánh giá, chọn lọc về giá trị, vai trò, nội dung của luật tục, đặc biệt là giá trị bản
sắc văn hóa và phải đặt ra các chính sách để bảo tồn, phát huy giá trị của luật tục.
+ So sánh luật tục Ê đê và luật tục M’nông với một số vấn đề trong luật pháp
hiện hành, Trần Đình Long. Bài viết đã phân tích, so sánh nội dung của luật tục Ê đê
và M’nông với quy định của pháp luật dân sự, luật HN&GĐ, luật hành chính và hình
sự. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng ở việc so sánh các quy định mà chưa đưa ra
những nhận xét về ưu điểm, nhược điểm cũng như chưa đưa ra những giải pháp khắc
phục những nhược điểm của luật tục.
- Luật tục với đời sống, GS. TSKH. Phan Đăng Nhật, Nxb. Tư Pháp, Hà Nội,
2007. Cuốn sách đề cập đến các nội dung như khái niệm, phân loại luật tục, quan hệ
giữa luật tục và đời sống, toà án luật tục, sự vận dụng luật tục trong xã hội ngày nay
của đồng bào Tây Nguyên, dân tộc Jrai và luật tục của họ. Tuy nhiên, sách chủ yếu
trình bày về hai dân tộc là Chăm và Raglai, những dân tộc hiện đang sinh sống chủ
yếu ở Ninh Thuận và Khánh Hòa nên không đặc trưng và không phải là những
DTTSTC Tây Nguyên.
- Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam (Understanding customary law of
ethnic group in Viet Nam), Ngô Đức Thịnh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003.
Công trình này khảo sát về các khía cạnh khác nhau của luật tục, như góc độ tiếp cận
15
luật tục, nguồn gốc và bản chất của luật tục, các hình thức phát triển của luật tục, nội dung
luật tục, việc thực thi luật tục, giá trị của luật tục, luật tục và luật pháp; đồng thời giới
thiệu về luật tục Ê đê, luật tục M’nông, luật tục Thái và hương ước của người Việt.
- Luật tục trong đời sống các tộc người ở Việt Nam, GS. TS. Ngô Đức Thịnh,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010. Cuốn sách là cái nhìn chung nhất, hệ thống nhất về
những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình nghiên cứu luật tục các dân tộc ở Việt
Nam. Công trình gồm hai phần chính, phần thứ nhất tập trung vào việc khảo sát các
khía cạnh khác nhau của luật tục và phần giới thiệu luật tục của một số tộc người. Tác
giả giới thiệu chọn lọc luật tục của một số dân tộc ít người, là những đại diện cho các
hình thức và trình độ phát triển khác nhau của luật tục các tộc người ở Việt Nam.
- Vai trò của người phụ nữ trong văn hóa Tây Nguyên nhìn từ luật tục, Ngô Thị
Minh Hằng, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, TP. Hồ Chí Minh, 2009. Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò, vị trí của
người phụ nữ Tây Nguyên mà điển hình là người phụ nữ Ê đê trong văn hóa tổ chức
cộng đồng mà nổi lên là vai trò của người phụ nữ trong việc gắn kết cộng đồng, gắn
kết các thành viên gia đình và tạo sự đoàn kết, gắn bó của các thành viên trong xã hội
trên tư liệu luật tục. Bên cạnh đó, Luận văn cũng đề cập một cách khái quát về những
ảnh hưởng của luật tục đến đời sống của người Ê đê, chỉ ra những yếu tố tích cực và
hạn chế, tiêu cực của luật tục, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống của người Ê đê trong lĩnh vực pháp luật và nhằm góp phần bảo
tồn, phát huy những giá trị của luật tục nói riêng và những giá trị văn hóa Tây Nguyên
nói chung, loại bỏ những yếu tố lạc hậu trong việc xây dựng xã hội mới.
- Tìm hiểu các tộc người ở Nam Tây Nguyên, GS. TS. Ngô Đức Thịnh, TS. Ngô
Văn Lý tập hợp, sắp xếp, biên soạn và giới thiệu, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2004.
Cuốn sách này giới thiệu về luật tục của tộc người Stiêng, Mạ và Kơ ho. Văn bản luật
tục của người Stiêng là phần dịch ra tiếng phổ thông từ bản sưu tầm bằng tiếng Pháp
của Th. Gerber, viên quan cai trị của Pháp ở địa phương năm 1943 vì vậy ngoài việc
sưu tầm và hệ thống lại luật tục Stiêng, Gerber còn thêm nhiều điều vào luật tục nhằm
mục đích cai trị người Stiêng theo chiều hướng có lợi cho thực dân Pháp. Phần nội
dung luật tục Mạ và Kơho của cuốn sách dựa vào các sưu tầm của J. Dournes về luật
tục Kơho và Jean Boulbet về luật tục của người Mạ. Tuy các luật tục này mới chỉ được
giới thiệu sơ lược, song cuốn sách là nguồn tư liệu quý, cung cấp những bộ luật tục
của đồng bào dân tộc Stiêng, Kơho và Mạ.
16
- Luật tục Chăm và luật tục Raglai, Phan Đăng Nhật chủ biên, Trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, Nxb. Văn hóa
dân tộc, Hà Nội, 2003. Đây là công trình giới thiệu về luật tục Chăm và luật tục
Raglai, hệ thống và biên dịch các điều luật tục cổ truyền của hai dân tộc trên và đề cập
đến việc nghiên cứu, kế thừa luật tục truyền thống trong xây dựng các buôn làng mới.
Các văn bản luật tục cũ và quy ước mới đều được thể hiện song ngữ Chăm - Việt và
Raglai - Việt. Những bản quy ước mới này đã được cấp chính quyền địa phương thông
qua và cho phép thực hiện. Đây là một trong những kinh nghiệm quý báu cho các địa
phương khác trong việc nghiên cứu, sưu tầm và vận dụng luật tục của hai dân tộc trên
ở nơi họ sinh sống và cư trú để xây dựng buôn làng mới trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Thể chế xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta
hiện nay, TS. Dương Thị Thanh Mai, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội, 2011. Đây là công
trình nghiên cứu có hệ thống các thể chế xã hội ở nước ta hiện nay, trong đó có cộng
đồng dân cư và luật tục, hương ước với sinh hoạt làng, xã; và gia đình và sinh hoạt
dòng tộc. Đề tài đã phân tích nguồn gốc, bản chất, đặc điểm và vai trò của các thể chế
xã hội như luật tục, hương ước với tư cách là các thể chế xã hội tự quản của cộng đồng
dân cư cũng như chức năng và mối quan hệ giữa gia đình, dòng họ và xã hội. Đề tài
cũng khảo sát thực tế vai trò của luật tục Gia rai ở tỉnh Gia Lai và đưa ra những giải
pháp cho việc hoàn thiện và phát huy thể chế xã hội tự quản ở vùng Tây Nguyên như
phát huy những giá trị tích cực của luật tục và vai trò của những người uy tín trong
cộng đồng...
- Luật tục người K’ho Lạch, Krajan Plin, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2010.
Cuốn sách trình bày khái quát về người K’ho Lạch và luật tục của người K’ho Lạch.
Đây là tài liệu quý, sưu tầm, biên tập một cách chân thực bộ luật tục của người K’ho
Lạch vì tác giả là người K’ho Lạch nên hiểu rất rõ về nguồn gốc, văn hóa của dân tộc
mình. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ mới sưu tầm, văn bản hóa mà chưa đi vào phân tích
nội dung và các điều luật.
- Già làng Tây Nguyên, Linh Nga Niê Kdam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
2007. Cuốn sách tập trung nghiên cứu về các chế tài quản lý xã hội trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số bản địa, về vai trò của già làng trong các cộng đồng nhằm khẳng
định giá trị truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên thông qua vai trò của già làng
dưới góc độ ảnh hưởng của già làng trong luật tục, vai trò của già làng trong cộng
đồng trước năm 1975 và sau năm 1975. Từ đó, tác giả cũng đưa ra những tổng luận về
17
vai trò của già làng trong xã hội truyền thống cũng như trong xã hội hiện nay và những
kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, phát huy tốt hơn vai trò của già
làng trên thực tế để từng bước phát huy những giá trị đó trong công cuộc quản lý, xây
dựng đất nước.
- Vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý cộng đồng người Chăm của
chính quyền cơ sở Tỉnh Ninh Thuận, Trương Tiến Hưng, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Học viện chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008. Luận án tìm hiểu
luật tục dân tộc Chăm nhằm tìm ra những giá trị tiến bộ cần phát huy, xác định vai trò
của luật tục dân tộc Chăm trong quản lý cộng đồng người Chăm của chính quyền cơ
sở, xác định sự cần thiết và những yêu cầu của việc vận dụng luật tục dân tộc Chăm
trong quản lý cộng đồng người Chăm của chính quyền cơ sở. Luận án cũng đánh giá
kết quả vận dụng luật tục dân tộc Chăm của chính quyền cơ sở tỉnh Ninh Thuận,
nguyên nhân của những hạn chế trong việc vận dụng luật tục dân tộc Chăm vào quản
lý cộng đồng người Chăm của chính quyền cơ sở thời gian qua; đề xuất những giải
pháp để vận dụng luật tục dân tộc Chăm vào quản lý cộng đồng người Chăm của chính
quyền cơ sở nhằm góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của
luật tục dân tộc Chăm ở tỉnh Ninh thuận trong điều kiện hiện nay.
- Sự biến đổi của luật tục trong đời sống văn hóa của người Gia rai ở tỉnh Gia
Lai, Nguyễn Lưu Thà, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, TP. Hồ Chí Minh, 2013. Luận văn đã nêu lên khái quát luật
tục Gia rai từ việc xây dựng, thi hành đến hiệu lực và đánh giá được thực trạng luật tục
Gia rai trong đời sống văn hóa truyền thống, trong đó có đề cập tới lĩnh vực HN&GĐ;
đồng thời tập trung trình bày những biến đổi của luật tục trong đời sống văn hóa hiện
nay, nêu ra nguyên nhân và dự báo những xu hướng biến đổi của luật tục trong thời
gian tới, đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị tốt
đẹp của luật tục Gia rai. Đây là một trong số hai công trình có liên quan nhiều tới đề
tài luận án.
Bên cạnh những tác phẩm là sách, các công trình nghiên cứu, đề tài, luận án,
luận văn, còn khá nhiều các bài báo viết về vấn đề luật tục, có thể kể đến như:
- Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Tây Nguyên, thực trạng và
những vấn đề đặt ra, PGS. TS. Đào Văn Nam, bài viết nêu lên những tác động của luật
tục đến việc tổ chức và quản lý xã hội hiện nay ở Tây Nguyên, đặc biệt là trong quá
trình tổ chức và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở . Trên cơ sở những tác động đó, tác
giả nêu ra những biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực của thiết chế xã hội cổ
18
truyền và hạn chế những biểu hiện tiêu cực của nó nhằm từng bước nâng cao vai trò
của hệ thống chính trị cơ sở, thực hiện tốt hơn nữa quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc
xây dựng nông thôn mới ở Tây Nguyên hiện nay.
- Một số vấn đề về việc giáo dục pháp luật ở các địa phương có luật tục hiện
nay, Nguyễn Thị Tuyết Mai, Tạp chí Khoa học chính trị, tr 46-53, bài viết lý giải
những điểm đặc thù trong giáo dục pháp luật ở các địa phương có luật tục, từ đó tác
giả khuyến cáo, cần tăng cường việc giáo dục pháp luật ở các địa phương này. Theo
tác giả, những điểm cần chú ý khi giáo dục pháp luật ở các địa phương này là: cần lựa
chọn nội dung giáo dục phải phù hợp; hình thức giáo dục pháp luật phải phong phú,
phù hợp với cách nghĩ, cách làm của người dân; tăng cường đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên; khai thác hiệu quả tủ sách giáo dục; tập hợp và giải thích sâu về giá
trị xã hội của luật tục; tôn trọng văn hóa của nhân dân có luật tục và tiến hành đồng bộ
với các giải pháp nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân.
- Tòa án phong tục - Một kiểu vận dụng luật tục có hiệu quả, Phan Đăng Nhật,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2007, tr. 19-26, bài viết giới thiệu về tòa án
phong tục tỉnh Kon Tum, đây là một tòa án phong tục tiêu biểu trong việc thu thập luật
tục, vận dụng luật tục cho việc xét xử của ba dân tộc chính ở đây là Bana, Sơ đăng,
Jrai. Bài viết phân tích cụ thể về tên gọi, lý do ra đời, thành phần xét xử và luật được
sử dụng cũng như mối quan hệ giữa các điều luật của tòa án phong tục với luật tục mà
chủ yếu là mối quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình và tài sản.
- Vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường thông qua hương ước,
luật tục ở Việt Nam hiện nay, Hoàng Thị Kim Quế, Tuyển tập các Báo cáo khoa học
Hội nghị môi trường toàn quốc 2005, tr.1815-1825. Công trình đã đánh giá vai trò của
các công cụ quản lý xã hội (gồm hương ước, luật tục) tại các cộng đồng dân cư trong
quá khứ và hiện tại trong đó tác giả đã nêu lên khái niệm, quá trình hình thành và phát
triển, hình thức tồn tại, và nội dung của hương ước, luật tục trong việc bảo vệ môi
trường. Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của cộng
đồng thông qua công cụ hương ước, luật tục về bảo vệ môi trường; những nội dung
pháp luật cụ thể về bảo vệ môi trường cần đưa vào hương ước, quy ước. Tác giả kết
luận "Hương ước, luật tục là một trong những công cụ có hiệu quả, tiết kiệm, sát thực
để thu hút sự tham gia của cộng đồng"
- Vai trò của Luật tục trong đời sống xã hội hiện đại ở các cư dân bản địa vùng
biên giới Việt Nam-Campuchia, Nguyễn Duy Thiệu, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam
Á, số 8 năm 2010, tr. 12-15. Bài viết đã nêu lên quá trình hình thành của luật tục, nội
19
dung của luật tục, phạm vi điều chỉnh của luật tục và việc sử dụng luật tục trong điều
chỉnh các quan hệ trong đời sống dân sự ngày nay ở các cộng đồng dân cư, theo tác
giả, việc thực thi luật tục trở thành một hành vi văn hóa, tạo nên một thứ "văn hóa
pháp luật" bởi thế mà hằn sâu vào tâm trí mọi người.
- Trương Tiến Hưng với hàng loạt các bài báo viết về luật tục dân tộc Chăm ở
Ninh thuận như: Những đặc điểm luật tục người Chăm ở Ninh Thuận, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 11/2004; Pháp luật hóa những giá trị luật tục dân tộc Chăm Một giải pháp vận dụng luật tục dân tộc Chăm trong quản lý Nhà nước của chính
quyền địa phương tỉnh Ninh Thuận hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
3/2008, tr. 21-27; sự cần thiết vận dụng luật tục của người Chăm trong quản lý nhà
nước ở chính quyền cấp cơ sở, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2005
Các bài viết là những nghiên cứu sâu về luật tục của người Chăm ở Ninh
Thuận, chỉ ra những đặc điểm, những ưu điểm, hạn chế của luật tục người Chăm; từ
những ưu điểm đó, cho thấy sự cần thiết vận dụng luật tục của người Chăm trong quản
lý nhà nước của chính quyền cơ sở mà một trong những giải pháp để vận dụng có hiệu
quả luật tục dân tộc Chăm trong quản lý nhà nước hiện nay là pháp luật hóa những giá
trị luật tục.
Ngoài các tác phẩm và tác giả kể trên, còn rất nhiều bài báo của các nhà dân tộc
học, văn hóa học và luật học đăng trên các tạp chí chuyên ngành như Ngô Đức Thịnh,
Luật tục và việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, Tạp chí Văn hóa dân gian,
số 4, 1998; Phan Đăng Nhật, Từ thực tế luật tục Jrai, Tạp chí Dân tộc và miền núi, số
tháng 7 năm 1996, tr. 25 – 28; Phan Đăng Nhật, Luật tục Jrai trong đổi mới, báo cáo
khoa học tại Hội nghị về Văn hóa và ngôn ngữ tổ chức ở Nha Trang năm 1998; Phan
Đăng Nhật, Luật tục đối với nông thôn miền núi, Báo nhân dân cuối tuần số ra ngày 27
tháng 6 năm 1999; Phan Đăng Nhật, Từ ngôn ngữ thông thường đến ngôn ngữ thơ ca:
Lời nói vần, Tạp chí Văn học, số 12 năm 1998, tr. 48 - 53; Hà Công Tuấn, Sử dụng
luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ rừng một chiến lược quản lý rừng lâu dài, Tạp chí
Nông nghiệp và phát triển nông thôn kỳ 2 tháng 3/2006, tr.85-88; Nguyễn Văn Hòa,
Luật tục dân tộc với việc rèn luyện đạo đức, lối sống của Đảng viên ở Tây Nguyên,
Tạp chí Xây dựng Đảng số 3/2012, tr. 23-25; Nguyễn Quang Tuyến, Vấn đề thừa kế
đất đai trong luật tục BaNa, Tạp chí Luật học, 02/2008; Nguyễn Quang Tuyến, Vai trò
của luật tục Bana, Jrai trong quản lý sử dụng đất đai, môi trường và bảo vệ rừng, Tạp
chí Luật học 12/2012, tr. 59-68; Phạm Quang Tiến, Nguyễn Thị Hồi, Tập quán và luật
tục bảo vệ môi trường của một số dân tộc ít người ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số
20
6/2010, tr. 53-62; Linh Nga Niê kdăm, Luật tục các dân tộc Tây Nguyên với vấn đề
môi trường sinh thái, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 7/2003, tr.3-4; Phạm Quang
Tiến, Sử dụng tri thức bản địa, tập quán và luật tục để bảo vệ môi trường của một số
dân tộc thiểu số vùng núi Bắc bộ Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển bền
vững, số 3(36), tháng 9/2012, tr. 45-52; Duy Tuấn, Luật tục bảo vệ tài nguyên rừng
của đồng bào Ê đê, M’nông, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, Số 12/2000, tr.4-5; …
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật hôn nhân gia
đình và ảnh hưởng của luật tục đến thực hiện pháp luật hôn nhân gia đình
- Tìm hiểu tác phẩm của Ph. Ăng-ghen Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư
hữu và của nhà nước,TS. Lê Trọng Ân, Nxb. Đại học quốc gia TP. HCM, TP. HCM,
2004. Cuốn sách là những nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm kinh điển của Mác và Ăng
ghen "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", bản in lần thứ tư,
xuất bản năm 1891, đã được Ăng ghen sửa chữa, bổ sung (C. Mác và Ph. Ăng ghen,
Toàn tập, tập 21 tiếng Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1995), là tài liệu
hết sức phong phú về lịch sử loài người ở những giai đoạn sớm nhất, về các hình thức
gia đình, về giai cấp, về nhà nước...đặc biệt là sự giải thích những đặc điểm của sự
phát triển các mối quan hệ và các hình thức gia đình qua các hình thái kinh tế xã hội
khác nhau.
- Hôn nhân và gia đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nhiều tác giả, Nxb.
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012. Đây là công trình đề cập đến HN&GĐ của dân tộc
Khmer Nam bộ, người Chơ ro, người Nùng và người Khơ Mú. Cuốn sách trình bày
khái quát về các dân tộc, về hôn nhân, gia đình truyền thống của các dân tộc, về sự
biến đổi trong HN&GĐ của các dân tộc.
- Tác động của luật tục đối với việc quản lý xã hội ở các dân tộc Thái, Hmông
thuộc Tây Bắc Việt Nam, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp bộ, chủ nhiệm Bùi Xuân
Trường, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phân viện Hà Nội, 1997 với bài viết
Luật HN&GĐ của nước CHXHCN Việt Nam và việc thực thi ở các dân tộc thiểu số
Thái, Hmông, bài viết giới thiệu khái quát về luật HN&GĐ của nước ta và nêu những
ảnh hưởng của luật tục đến việc thực hiện luật HN&GĐ ở các tỉnh miền núi phía bắc
trong các lĩnh vực kết hôn, trách nhiệm và quyền lợi của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ
của người cha, mẹ và các con. Tuy nhiên bài viết chỉ dừng lại dưới góc độ nêu lên
những quy định của luật tục về HN&GĐ của một số dân tộc chưa phù hợp với luật
HN&GĐ hiện hành mà chưa đi sâu phân tích đánh giá những mặt tích cực mà luật tục
mang lại cũng như những nguyên nhân dẫn đến những ảnh hưởng đó.
21
- Hôn nhân và gia đình của người Hoa ở Nam Bộ, Nguyễn Duy Bính, Nxb. Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2005. Cuốn sách giới thiệu
một cách khái quát về người Hoa ở Nam Bộ như quá trình hình thành, dân số và sự
phân bố dân cư, các hoạt động kinh tế, tổ chức xã hội, những hoạt động văn hóa của
người Hoa; đồng thời trình bày những quan niệm về hôn nhân như quan niệm hôn
nhân truyền thống, những biến đổi trong các quan niện hôn nhân, các quy tắc hôn
nhân, các nghi lễ trong hôn nhân và những tiêu chí để phân loại gia đình.
- Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam, Bá Trung Phụ, Luận án
Phó Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, Hồ Chí Minh, 1996. Luận án nghiên cứu về gia đình và hôn nhân của người
Chăm ở Việt Nam, từ đó làm rõ cấu trúc tổ chức xã hội Chăm, gia đình, dòng họ,
phong tục, tập quán, lễ nghi trong HN&GĐ. Đặc biệt, luận án đã nêu ra được những
đặc trưng của HN&GĐ của người Chăm, so sánh sự khác nhau giữa gia đình và hôn
nhân của người Chăm với các dân tộc anh em khác ở Việt Nam.
- Hôn nhân và gia đình của người Chơ-ro truyền thống và biến đổi, Lâm Nhân,
Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2010. Công trình này tập trung vào việc giới thiệu khái
quát về môi trường tự nhiên, dân cư, kinh tế, văn hóa - xã hội của người Chơ-ro ở
Đồng Nai, những quan niệm truyền thống và nghi thức hôn nhân, những vấn đề liên
quan đến gia đình truyền thống như hình thức và cấu trúc gia đình, chức năng cơ bản
của gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và nghi lễ gia đình. Đặc
biệt tác giả tập trung nghiên cứu những biến đổi trong hôn nhân, gia đình và những
yếu tố tác động đến sự biến đổi trong HN&GĐ của người Chơ-ro.
- Luật tục người Chăm và pháp luật trong vấn đề HN&GĐ hiện nay, Văn Món,
in trong Kỷ yếu hội thảo Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam, Nxb.
Chính trị, Hà Nội, 2000. Bài viết tập trung nghiên cứu luật tục và luật hôn nhân gia
đình người Chăm về các nội dung: điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn; ly hôn, ngoại
tình, loạn luân; gia đình, nghĩa vụ của cha mẹ, các con và sở hữu tài sản; các hình thức
xét xử và phạt vạ. Tác giả cũng nhận xét về quy định của pháp luật trong lĩnh vực
HN&GĐ, đưa ra những kiến nghị để pháp luật kết hợp với luật tục, thông qua luật tục,
cùng với luật tục để đưa pháp luật thấm sâu vào đời sống nhân dân.
- Hôn nhân và gia đình của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, Đặng
Thị Kim Oanh, Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Dân tộc học, Trường đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2008. Luận án đi sâu
tìm hiểu những quan niệm, quy tắc cùng những nghi lễ của người Khmer, mà chủ yếu
22
là người Khmer ở Trà Vinh. Từ việc nghiên cứu hôn nhân truyền thống, luận án đã
đánh giá những biến đổi trong hôn nhân của người Khmer hiện tại, đặc biệt chú ý tới
những tác động biến đổi của kinh tế, xã hội cũng như sự cộng cư, giao lưu tiếp xúc văn
hóa với các tộc người khác.
- Thực hiện pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng dân tộc Chăm ở tỉnh Ninh
Thuận, Lưu Tích Thái Hòa, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viên Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008 và Thực hiện pháp luật HN&GĐ trong
đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái, Hà Thành Đê, Luận văn thạc sĩ luật học,
2004. Cả hai luận văn đều tập trung phân tích rõ cơ sở lý luận thực hiện pháp luật và
thực hiện pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng dân tộc Chăm, trong đồng bào dân tộc ít
người ở tỉnh Yên Bái, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật HN&GĐ
của dân tộc Chăm và đồng bào dân tộc ít người tỉnh Yên Bái, từ đó đề xuất những giải
pháp để thực hiện tốt pháp luật HN&GĐ trong cộng đồng dân tộc Chăm và trong đồng
bào dân tộc ít người ở tỉnh Yên Bái.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của luật tục đối với thực
hiện pháp luật hôn nhân gia đình ở Tây Nguyên
Tính đến nay, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về ảnh hưởng của
Luật tục đến việc thực hiện pháp luật HN&GĐ ở Tây Nguyên. Chỉ có một vài công
trình nghiên cứu dưới góc độ dân tộc học về hôn nhân của một dân tộc cụ thể nào đó
về truyền thống và biến đổi. Có thể kể đến các công trình như:
- Ảnh hưởng của nhân tố mới trong HN&GĐ đối với sự phát triển con người
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Đinh Khắc Tuấn, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000. Luận án bước đầu làm rõ quá trình
hình thành và phát triển các nhân tố mới trong HN&GĐ các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên trong giai đoạn cùng cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, chỉ ra những ảnh
hưởng của các nhân tố mới trong HN&GĐ các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, đồng thời
đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần loại trừ và cải tạo các yếu tố HN&GĐ
lỗi thời để hình thành và phát triển các nhân tố mới trong HN&GĐ gắn với quá trình
phát triển con người các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Luận án cũng đã khái quát hóa,
hệ thống hóa, những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về HN&GĐ và vai trò của nó đối với sự phát triển của con người và xã
hội. Phân tích những đặc trưng cơ bản về chế độ HN&GĐ truyền thống, lấy đó là một
trong những cơ sở để luận chứng quá trình hình thành và phát triển những nhân tố mới
trong Hôn nhân và gia đình cư dân bản địa Tây Nguyên. Qua đó phân tích những ảnh