Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Phòng vệ chính đáng theo pháp luật Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.2 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NGỌC TÍN

PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NGỌC TÍN

PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các
công trình khác.
Ngƣời cam đoan

Võ Ngọc Tín


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH
ĐÁNG ............................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm của phòng vệ chính đáng .......................................................... 7
1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng ................................................... 12
1.3. Vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng ........................................... 17
1.4. Phân biệt phòng vệ chính đáng với các trường hợp không phải là
phòng vệ chính đáng và trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khác ......... 20
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................. 30
2.1. Quy định vấn đề phòng vệ chính đáng trong pháp luật hình sự Việt
Nam ................................................................................................................. 30
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về
phòng vệ chính đáng tại Đà Nẵng ................................................................... 40

CHƢƠNG 3. NHỮNG YẾU TỐ ĐẢM BẢO VÀ GIẢI PHÁP ÁP
DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG ........................................................................ 57
3.1. Những yếu tố đảm bảo áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự
về phòng vệ chính đáng................................................................................... 57
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
sự về phòng vệ chính đáng .............................................................................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TATC

: Tòa án tối cao

TP


: Thành phố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây tình hình kinh tế xã hội càng phát triển về công
nghệ khoa học kỹ thuật lẫn cả về nhận thức con người cũng tiến bộ, cuộc sống vật
chất, mức sống con người ngày càng tăng cao hơn so với trước kia. Giá trị con
người ngày càng được đề cao, quyền con người được ghi nhận hơn, mỗi người
đều có những quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức khỏe. Họ được phép bảo
vệ họ chống lại sự tấn công của người khác, đôi khi hành động bảo vệ đó có thể
gây ra những thiệt hại cho người khác, nhưng được pháp Luật hình sự thừa nhận
và được loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, loại trừ trách nhiệm hình sự.
Những trường hợp hành vi gây thiệt hại trong xã hội được loại trừ trách nhiệm
hình sự hiện nay được pháp luật thừa nhận và không coi là tội phạm tương đối
phổ biến trong đó có phòng vệ chính đáng. Phòng vệ chính đáng là hành vi của
người vì muốn bảo vệ những lợi ích hợp pháp có thể của mình hoặc của cá nhân,
tổ chức khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm
phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đang không phải là tội phạm. Chính vì
vậy để phòng và chống lại những hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm
phạm của con người nói chung, xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người được
thể hiện qua hành vi phòng vệ chính đáng nói riêng là việc cấp bách luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cao và chú trọng. Tác giả chọn đề tài “Phòng
vệ chính đáng theo pháp luật Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” để nghiên cứu làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình nhằm đóng góp
một phần công sức nhỏ của mình vào việc xây dựng về mặt Luật hình sự nói
chung và vấn đề xác định phòng vệ chính đáng trong Luật hình sự nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến chế định phòng vệ chính đáng có một số công trình nghiên
cứu như sau:

1


Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng trong luật hình sự Việt Nam là một vấn đề hẹp, được quy định tại một điều
trong Phần chung [38, Điều 15] và hai điều trong Bộ luật hình sự Việt Nam
đó là - Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [38, Điều 96]
và Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [38, Điều 106]. Tuy nhiên, nội dung
nghiên cứu của nó mới gián tiếp được lồng ghép ở các mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, trước đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
như: Sách tham khảo “Về vấn đề phòng vệ chính đáng” (Nxb. Pháp lý, Hà Nội,
1987) của tác giả Đặng Văn Doãn; “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình
sự trong luật hình sự Việt Nam” (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) và
“Bình luận khoa học về loại trừ trách nhiệm hình sự” (Nxb. Tổng hợp thành phố
Hồ Chí Minh, 2009) của ThS. Đinh Văn Quế; “Chương IX - Các trường hợp
loại trừ trách nhiệm hình sự” trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần chung) (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007) của
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; mục 4 Chương 2 “Những trường hợp không phải là
tội phạm” trong sách: Tội phạm và trách nhiệm hình sự (Nxb. Chính trị Quốc gia
Hà Nội, 2013) của TS. Trịnh Tiến Việt;... Những công trình này đã phân tích khái
niệm, nội dung, bản chất pháp lý và điều kiện áp dụng của các trường hợp loại
trừ trách nhiệm hình sự, trong đó có phòng vệ chính đáng.
Xét riêng dưới góc độ khoa học luật hình sự, đáng chú ý là Chương thứ
năm - “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”
trong “Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật
hình sự (Phần chung)” (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005) và một số bài
viết của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về vấn đề này. GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã đề
cập, phân tích tên gọi, ý nghĩa, nội dung, bản chất pháp lý và từ đó xây dựng mô
hình lý luận của Chương riêng trong Bộ luật hình sự về chế định này, trong đó có

trường hợp phòng vệ chính đáng;
Bên cạnh đó, cũng có một số bài viết có giá trị liên quan trực tiếp đến vấn
2


đề này nhưng chỉ đề cập ở mức độ chung như: “Một vài suy nghĩ về phòng
vệ chính đáng“ (Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 2/1996)
của TS. Hoàng Văn Hùng; “Về chế định loại trừ trách nhiệm hình sự” (Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 4/1999) của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Những
trường hợp đặc biệt liên quan đến các yếu tố loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2001) và “Quy định về phòng vệ
chính đáng theo Bộ luật hình sự năm 1999” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
8/2001) của TS. Giang Sơn; “Phải coi đây là phòng vệ chính đáng” (Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 5/2001) và “Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự và
những vấn đề đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam“ (Tạp chí
Khoa học, chuyên san Luật học, số 4/2013) của TS. Trịnh Tiến Việt.
Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề về phòng
vệ chính đáng và gián tiếp là trách nhiệm hình sự do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu
lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề thì phòng vệ chính đáng và các tội
phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam vẫn
chưa được quan tâm một cách đúng mức. Do vậy, trong luận văn này học viên
muốn tiếp tục phát triển và kế thừa những công trình khoa học của các bậc thầy
đi trước, mục đích của đề tài học viên sẽ làm sáng tỏ thêm vấn đề lý luận về
phòng vệ chính đáng để xác định rõ ranh giới giữa người phạm tội và người
không phạm tội từ đó giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đúng người, đúng
tội, tránh bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình

sự và thực tiễn áp dụng tại địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn nhằm mục đích
góp phần hoàn thiện và làm phong phú tâm lý luận chuyên ngành chọn lọc luật
hình sự về chế định phòng vệ chính đáng, đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự và đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
3


sự về phòng vệ chính đáng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ khái niệm, dấu hiệu đặc trưng của phòng vệ chính đáng
trong pháp luật Hình sự Việt Nam.
- Phân tích rõ thế nào là vượt quá phòng vệ chính đáng
- Đi sâu nghiên cứu góc độ tâm lý và quyền con người khi thực hiện hành
vi phòng vệ chính đáng
- So sánh chế định phòng vệ chính đáng trong pháp luật Hình sự Việt Nam
với pháp luật Hình sự một số quốc gia trên thế giới
- Chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong pháp luật Hình sự Việt Nam về chế
định phòng vệ chính đáng
- Đề xuất các kiến nghị để góp phần hoàn thiện các quy định về phòng vệ
chính đáng trong pháp luật Hình sự Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm lý luận, quy định
của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về phòng vệ chính đáng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Luận văn không chỉ nghiên cứu khái niệm, điều kiện của phòng vệ chính
đáng mà còn nghiên cứu những vấn đề khác liên quan đến phòng vệ chính đáng

như vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và các trường hợp phạm tội do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
- Về thời gian, không gian:
Luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về
phòng vệ chính đáng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2012 đến năm 2016.
4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp
luật xã hội chủ nghĩa; về đấu tranh phòng, chống tội phạm; các tri thức của khoa
học luật hình sự về phòng vệ chính đáng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –Lênin tác giả
còn sử dụng các phương pháp so sánh, lôgic, phân tích, chứng minh, tổng họp, so
sánh kết hợp lý luận với thực tiễn và một số phương pháp khác để nghiên cứu các
nội dung trong luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên từ sau khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 2015 đề cập một cách tương đối hệ thống và toàn diện
về chế định phòng vệ chính đáng và những vấn đề khác liên quan đến phòng vệ
chính đáng ở cấp độ một luận văn thạc sĩ. Những kết quả nghiên cứu của luật văn
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn:
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú và hoàn thiện
tâm lý luận chuyên ngành luật hình sự về chế định phòng vệ chính đáng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo để hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự và đảm bảo áp dụng đúng các quy định đó về phòng vệ
chính đáng, qua đó góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, của tổ chức và công dân.
Luận văn còn được sử dụng như là một tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành Luật hình sự
5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu, nội dung của luận văn
gồm 03 chương và phần kết luận, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng vệ chính đáng
Chương 2: Quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về phòng vệ chính đáng
và thực tiễn áp dụng tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Những yếu tố đảm bảo và giải pháp áp dụng đúng quy định của
Bộ luật Hình sự Việt Nam về phòng vệ chính đáng.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
1.1. Khái niệm của phòng vệ chính đáng
1.1.1. Khái niệm
Ở nước ta, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 chưa có văn bản
quy phạm pháp luật nào quy định khái niệm phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, qua
việc tổng kết thực tiễn xét xử, ngày 22/12/1983 Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) đã ban hành Chỉ thị số 07-TANDTC “Về việc xét xử các hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng hoặc trong khi thi hành công vụ”, trong đó đã đưa ra kết luận: “Phòng vệ
chính đáng là hành vi của người bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể hoặc bảo vệ
lợi ích chính đáng của mình hay của người khác mà chống trả một cách tương
xứng các lợi ích nói trên” [49]. Kế thừa những thành tựu của pháp luật, đồng thời
trên cơ sở tổng kết công tác phòng, chống tội phạm. Điều 13 Bộ luật hình sự năm
1985 quy định:
“Phòng vệ chính đáng là hành vi vì bảo vệ lợi ích của nhà nước, của
tập thể, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác mà chống trả lại một
cách tương xứng người có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
Như vậy, định nghĩa trên đây là định nghĩa pháp lý có tính khoa học thể
hiện rõ nét bản chất chính trị, xã hội và pháp lý của phòng vệ chính đáng. Nó là
cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định một hành vi được coi là thực hiện
trong phòng vệ chính đáng, hướng cho mỗi công dân thực hiện quyền phòng vệ
của mình đúng pháp luật, qua đó phát huy tính tích cực chủ động của mình.
Mặc dù vậy, nhưng qua hơn chục năm áp dụng quy định của Bộ luật hình
sự năm 2015 về phòng vệ chính đáng cho thấy, khái niệm phòng vệ chính đáng
được quy định tại Điều 13 có những điểm chưa hợp lý so với yêu cầu đấu tranh
7


phòng, chống tội phạm, cụ thể là trong nội hàm của khái niệm có sử dụng cụm từ
“chống trả lại một cách tương xứng người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích
nói trên”. Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho việc xác định sự tương
xứng giữa hai hành vi (hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ) được thực hiện bởi
hai chủ thể khác nhau và có động cơ, mục đích trái ngược nhau. Mặt khác việc
quy định trong điều luật từ “tương xứng” dễ dẫn đến cách hiểu cơ học, máy
móc - người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện, phương pháp gì thì người
phòng vệ cũng phải sử dụng công cụ, phương tiện tương tự, hoặc có nghĩa thiệt
hại do phòng vệ gây ra cho người có hành vi xâm hại phải ngang bằng hoặc phải

nhỏ hơn thiệt hại mà người xâm hại gây ra.
Khái niệm phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự năm
1985 đã được sửa đổi bổ sung và tiếp tục được quy định tại Điều 15 bộ luật hình
sự năm 1999 như sau:
“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của nhà nước,
của tổ chức, bảo vệ quyền lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác
mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi
ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
So với Điều 13 Bộ luật hình sự năm 1985, điều sửa đổi cơ bản trong Điều
15 Bộ luật hình sự năm 1999 là: thay cụm từ “của tập thể” bằng “của tổ chức”
hay “bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác” bằng cụm từ
“bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác”, và đặc
biệt các nhà làm luật nước ta trong lần pháp điển hóa luật hình sự năm 1999 đã
thay thế cụm từ “tương xứng” bằng cụm từ “cần thiết”. Sự sửa đổi này có ý nghĩa
rất lớn không chỉ về mặt học thuật (thuật ngữ) mà còn động viên, khuyến khích
người dân chủ động, tích cực tham gia đấu tranh ngăn chặn tội phạm; làm cho
người phòng vệ chủ động hơn, tin tưởng hơn trong việc tìm phương pháp, hợp
pháp, công cụ, phương tiện chống trả thích hợp, cần thiết để phòng vệ chính đáng
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đồng thời, sự sửa đổi này còn tạo điều kiện
8


cho các cơ quan bảo vệ pháp luật đánh giá một cách khách quan, toàn diện tính
cần thiết của việc chống trả khi thực hiện quyền phòng vệ chính đáng. Bởi vì, nếu
sử dụng cụm từ “tương xứng” dễ dẫn đến cách hiểu không đúng, máy móc là:
Người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện, phương pháp gì, thì người
phòng vệ cũng phải sử dụng công cụ, phương tiện, pháp pháp tương tự, hoặc
có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người có hành vi xâm hại
phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại mà người xâm hại gây ra hoặc đe dọa

gây ra... cũng như chưa xuất phát từ cái nhìn của người trong cuộc...
Như vậy, một số sửa đổi, bổ sung cơ bản trên có ý nghĩa thực tiễn quan
trọng nhằm góp phần phát huy tính chủ động trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, điều này rất có ý nghĩa trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, người
phòng vệ trên cơ sở tự đánh giá về tính chất quan hệ xã hội bị xâm hại, cường độ
của sự tấn công cũng như tổng hợp các yếu tố khác như thời gian, không gian, địa
điểm… để quyết định biện pháp chống trả cũng nhƣ mức độ chống trả lại người
có hành vi xâm hại các khách thể cần bảo vệ một cách mà họ cho là “cần thiết”
nhằm ngăn chặn, đẩy lùi hành vi xâm hại, bảo vệ khách thể đó.
Như vậy, khái niệm phòng vệ chính đáng trong Bộ luật hình sự năm 1999
có sự hoàn thiện hơn so với khái niệm phòng vệ chính đáng trong Bộ luật hình sự
năm 1985. Khái niệm này thể hiện rõ bản chất xã hội, pháp lý của phòng vệ chính
đáng. Nó là cơ sở thống nhất cho việc xác định một hành vi được coi là phòng vệ
chính đáng, qua đó phát huy được tính tích cực của phòng vệ chính đáng trong
đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam có thể thấy rằng phòng vệ
chính đáng có những đặc điểm cơ bản sau:
- Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Phòng vệ chính đáng thực
chất là sự chống trả một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm đến
những lợi ích hợp pháp bằng cách gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm
hại đến những lợi ích đó. Nếu xét về mặt hình thức hành vi chống trả gây thiệt hại
9


cho người khác trong phòng vệ chính đáng đã có đủ các dấu hiệu của tội phạm
nhưng các nhà làm luật lại không coi phòng vệ chính đáng là tội phạm. Bởi thiệt
hại do người phòng vệ gây ra đối với người có hành vi xâm hại trong trường hợp
phòng vệ chính đáng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể (của
tổ chức)… phù hợp với lợi ích yêu cầu chung của toàn xã hội. Do vậy phòng vệ

chính đáng không những không bị coi là tội phạm mà còn được nhà nước và xã
hội khuyến khích thực hiện và được ghi nhận là quyền của công dân.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm mà là hành vi tự vệ trước sự
tấn công trái pháp luật, nhằm ngăn ngừa, hạn chế hậu quả tác hại do sự tấn công
trái pháp luật gây ra hoặc đe dọa thực tế gây ra. Hành vi phòng vệ chính đáng
không mang tính chất nguy hiểm cho xã hội mà nó hoàn toàn phù hợp với xã
hội thể hiện rõ ý thức trách nhiệm của công dân góp phần vào việc bảo vệ và
củng cố trật tự xã hội. Cũng chính vì thế mà pháp luật cho phép người phòng vệ
có thể thực hiện sự chống trả lại tất cả những hành vi xâm phạm tới những quan
hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ, không chỉ riêng gì quyền và lợi ích hợp
pháp của người phòng vệ.
- Phòng vệ chính đáng là quyền chứ không phải nghĩa vụ pháp lý của công
dân. Vì thế, pháp luật cho phép mọi công dân chủ động trong việc thực hiện
quyền phòng vệ chính đáng của mình. Về vấn đề này, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
đã viết:
“Người phòng vệ mặc dù gây thiệt hại cho kẻ tấn công nhưng đã sử dụng
một quyền, hơn nữa đã thi hành một bổn phận đối với xã hội. Trước một hành
động tấn công xâm hại hay đe dọa trực tiếp lợi ích của xã hội, người phòng vệ
không nên và không thể chờ vào sự can thiệt của chính quyền mà cần phải
phản ứng kịp thời mới bảo vệ được trật tự xã hội, bảo vệ được tính mạng của
bản thân mình hoặc của người khác. Người phòng vệ, nhân danh xã hội thi hành
bổn phận, sử dụng một quyền, đó là quyền phòng vệ cho nên học thuyết này còn
gọi là học thuyết quyền phòng vệ...”. [15].
Tuy nhiên, không phải bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu có sự xâm hại tới
10


khách thể được luật hình sự bảo vệ là chúng ta có cơ sở thực hiện quyền
phòng vệ chính đáng của mình. Để một hành vi nói chung và hành vi phòng vệ
nói riêng được coi là phòng vệ chính đáng cần phải hội tụ trong nó đầy đủ các

yêu cầu của pháp luật cũng như yêu cầu và đòi hỏi cần thiết của thực tế. Nói cách
khác, một hành vi chỉ đƣợc coi là phòng vệ chính đáng khi nó đáp ứng được hai
yêu cầu là hợp pháp và hợp lý. Việc pháp luật hình sự nước ta quy định các điều
kiện chặt chẽ như vậy đối với hành vi phòng vệ chính đáng nhằm loại bỏ mọi
trường hợp tiêu cực trong thực tế xử lý các vụ án hình sự, cũng như tránh những
trường hợp người dân thực hiện quyền phòng vệ một cách thái quá hoặc lợi dụng
quyền phòng vệ của mình nhằm thực hiện những hành vi trái pháp luật và đạo
đức xã hội.
- Phòng vệ chính đáng là một trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì có
căn cứ hợp pháp. Theo quy định của Luật hình sự Việt Nam, một hành vi chỉ
được coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự
khi hành vi đó thỏa mãn những điều kiện sau:
+ Có tính nguy hiểm cho xã hội, tức là hành vi đó phải gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ.
+ Có lỗi, tức là được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
+ Có tính trái pháp luật hình sự, nghĩa là bị luật hình sự cấm thực hiện
hoặc buộc phải thực hiện
+ Do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự mà luật định thực hiện.
Đây là những điều kiện cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Phòng vệ chính đáng là trường hợp chủ thể đã thực hiện hành vi gây thiệt
hại (về tính mạng, sức khỏe hoặc vì tài sản) cho người khác và nếu không xét
đến tình tiết phòng vệ chính đáng thì hành vi đã thực hiện là hành vi phạm tội.
Như vậy, phòng vệ chính đáng đã làm mất tính chất tội phạm của hành vi gây
thiệt hại cho người khác. Đồng thời, phòng vệ chính đáng được pháp luật ghi
nhận là quyền của công dân. Đây là quyền của công dân được chủ động chống
11


trả bằng cách gây thiệt hại cần thiết cho người có hành vi xâm hại bất hợp pháp

đến những lợi ích cần phải bảo vệ. Và vì thế, hành vi chống trả gây thiệt hại
trong phòng vệ chính đáng là hành vi có căn cứ hợp pháp, không trái pháp luật
hình sự.
Với nghĩa như vậy, phòng vệ chính đáng là một trong những trường hợp
có tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự.
1.1.3. Mục đích của việc xây dựng chế độ phòng vệ chính đáng trong
pháp luật Hình sự Việt Nam
Mục đích của việc xây dựng chế định phòng vệ chính đáng trong pháp luật
Hình sự Viêt Nam là tập trung nghiên cứu bản chất, tính chất và mức độ của
phòng vệ chính đáng, hành vi vượt quá giới hạn cho phép trong phòng vệ chính
đáng, từ đó xác định hành vi nào được luật cho phép và hành vi nào vượt quá sự
cho phép đó và phải bị chịu trách nhiệm hình sự.
1.2. Các điều kiện của phòng vệ chính đáng
Với chế định phòng vệ chính đáng Nhà nước cho phép mọi công dân được
bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích xã hội khi có thể
bảo vệ được. Nhưng phòng vệ chính đáng không có nghĩa là tự xử lý, vì quyền tự
xử lý hành vi trái pháp luật thuộc về Nhà nước. Do vậy phòng vệ chính đáng cũng
có giới hạn nhất định của nó. Một hành vi cụ thể được coi là phòng vệ chính đáng
khi nó có đầy đủ các điều kiện chứng minh sự phòng vệ là “chính đáng” phù hợp
với lợi ích xã hội và phải tuân theo những quy định của pháp luật hình sự. Những
điều kiện này phản ánh cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng, thời
điểm thực hiện, nội dung và phạm vi quyền phòng vệ chính đáng và có thể chia
thành hai nhóm:
- Những điều kiện thuộc về hành vi xâm hại;
- Những điều kiện thuộc về hành vi phòng vệ.
1.2.1. Những điều kiện thuộc về hành vi xâm hại
Thứ nhất, hành vi xâm hại phải là hành vi bất hợp pháp, rõ ràng là có tính
chất mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
12



Theo quy định của Luật hình sự Việt Nam, quyền phòng vệ chính đáng chỉ
phát sinh khi hành vi xâm hại đến những lợi ích của Nhà nước, tổ chức, đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người phòng vệ hoặc người khác. Song
hành vi xâm hại với tính chất là cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng
thì:
Một là, phải là hành vi bất hợp pháp (bị luật Hình sự cấm thực hiện) của
con người. Sự tấn công của súc vật khong co con người điều khiển không phải là
cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Đồng thời tính chất bất hợp pháp
của hành vi xâm hại là căn cứ xác định tính hợp pháp của hành vi phòng vệ. Do
vậy, mọi trường hợp chống trả lại những người có hành vi hợp pháp (được pháp
luật cho phép) đều không được coi là phòng vệ chính đáng. Mặt khác, pháp luật
hình sự chỉ cho phép sử dụng quyền phòng vệ chính đáng để chống trả lại những
hành vi bất hợp pháp xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền lợi và
lợi ích hợp pháp của bản thân người phòng vệ hoặc người khác. Với quy định
này, Luật Hình sự Việt Nam cho phép người dân sử dụng quyền phòng vệ chính
đáng không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bản thân mà còn bảo vệ
lợi ích chung của xã hội.
Hai là, hành vi xâm hại bất hợp pháp phải có tính chất, mức độ nguy hiểm
đáng kể cho xã hội. Nếu hành vi xâm hại (hành vi tấn công) mang tính chất nhỏ
nhặt, mức độ nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không làm phát sinh quyền
phòng vệ chính đáng . Thông thường đây là hành vi được Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm, tức là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình
sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Tuy nhiên về nguyên tắc,
công dân có thể sử dụng quyền phòng vệ chính đáng để chống lại không chỉ hành
vi phạm tội mà các hành vi nguy hiểm đáng kể khác cho xã hội từ phía những
người không có năng lực hành vi (như hành vi tấn công của người bị tâm thần, trẻ
em). Song đối với những trường hợp này, xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, trong các trường hợp nếu biết hành vi tấn công là do người điên hoặc
trẻ em thực hiện, thì chỉ nên ngăn chặn khắc phục sự nguy hiểm này bằng các

13


biện pháp (như tránh né hoặc yêu cầu người khác giúp đỡ...) mà không cần thiết
gây thiệt hại cho người đó. Chỉ khi không thể áp dụng được các biện pháp này thì
mới sử dụng các biện pháp cần thiết khác để tự vệ và cố gắng hạn chế thiệt hại ở
mức tối thiểu cho người đó.
Thứ hai, hành vi xâm hại đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực
sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ. Đây là điều kiện về thời điểm
thực hiện quyền phòng vệ chính đáng. Theo điều kiện này quyền phòng vệ chính
đáng của công dân bắt đầu xuất hiện khi hành vi xâm hại đang xảy ra hoặc sẽ xảy
ra sau đó, trực tiếp đe dọa các lợi ích được pháp luật bảo vệ và tồn tại cho đến khi
hành vi xâm hại kết thúc. Như vậy thời điểm thực hiện quyền phòng vệ chính
đáng là thời điểm hành vi xâm hại vất hợp pháp đã bắt đầu xảy ra nhưng chưa
chấm dứt trên thực tế hoặc từ thời điểm mặc dù hành vi xâm hại chưa xảy ra
nhưng có khả năng thực tế xảy ra ngay sau đó. Việc pháp luật cho phép thực hiện
quyền phòng vệ chính đáng trong trường hợp này là hết sức cần thiết nhằm tạo
điều kiện cho người dân chủ động ngăn chặn không để cho hành vi xâm hại xảy
ra gây thiệt hại cho xã hội. Ví dụ, trong vụ cướp người bị tấn công cần phải phòng
vệ ngay khi tên cướp yêu cầu đưa tài sản và đe dọa nếu không đưa sẽ giết hoặc
gây thương tích mà không thể đợi tên cướp thực hiện lời đe dọa đó mới ra tay thì
đã muộn.
Từ điều kiện này thấy rằng, khi hành vi xâm hại bất hợp pháp chưa xảy ra
hoặc chưa có khả năng thực tế xảy ra ngay sau đó thì chưa có cơ sở để thực hiện
quyền phòng vệ chính đáng. Ngược lại, khi nào hành vi xâm hại đã chấm dứt trên
thực tế thì không còn cơ sở để thực hiện quyền phòng vệ chính đáng. Nếu cố tình
thực hiện hành vi chống trả trong trường hợp trên thì không được thừa nhận là
phòng vệ chính đáng mà là trường hợp “Phòng vệ quá sớm” hoặc “Phòng vệ quá
muộn”.
Để xác định chính xác thời điểm bắt đầu và kết thúc hành vi xâm hại trong

mỗi trường hợp cụ thể, cần phải xem xét đầy đủ, toàn điện tất cả tình tiết của vụ
án, các điều kiện, hoàn cảnh khi xảy ra vụ việc...
14


Ngoài những yêu cầu trên, pháp luật còn đồi hỏi hành vi xâm hại bất hợp
pháp phải có thật tức là phải tồn tại khách quan chứ không phải là do người
phòng vệ suy diễn hoặc tưởng tượng ra. Vì thế, những trường hợp hoàn toàn
không có hành vi xâm hại bất hợp pháp xả ra, nhưng người phòng vệ lại tưởng
lầm là có hành vi xâm hại xảy ra nên đã thực hiện hành vi chống trả nhằm bảo vệ
những lợi ích hợp pháp thì không phải là phòng vệ chính đáng mà là trường hợp
“Phòng vệ tưởng tượng”.
Phòng vệ tưởng tượng, thực chất là trường hợp sai lầm về sự việc, do vậy
trách nhiệm hình sự trong trường hợp này được giải quyết như trong trường hợp
sai lầm về sự việc.
Đây là điều kiện về nội dung của quyền phòng vệ chính đáng. Để đáp ứng
điều kiện này, người phòng vệ bắt buộc phải thực hiện hành vi chống trả lại chính
người có hành vi xâm hại bất hợp pháp đến những lợi ích hợp pháp cần bảo vệ.
1.2.2. Những điều kiện thuộc về hành vi phòng vệ
Thứ nhất, hành vi phòng vệ phải là hành vi chống trả lại chính người có
hành vi xâm hại các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Luật hình sự Việt Nam đặt ra
điều kiện này là xuất phát từ mục đích của phòng vệ chính đáng là nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi hành vi xâm hại bất hợp pháp để bảo vệ lợi ích hợp pháp. Để đạt
được mục đích này, người phòng vệ phải chống trả chính người có hành vi xâm
hại chứ không thể người khác.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật, người phòng vệ hoàn toàn được chủ
động thực hiện hành vi chống trả ngay cả khi còn biện pháp khác để bảo vệ lợi
ích chính đáng của mình hoặc lợi ích chung của xã hội mà không phải lựa chọn.
Tuy nhiên, đối với những trường hợp hành vi xâm hại do người ở trong tình trạng
không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình

sự gây ra thì người phòng vệ chỉ được phép chống trả gây thiệt hại cho những
người này khi không còn cách nào khác để bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ hai, thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người có hành vi xâm hại
chủ yếu và thường phải là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe (thiệt hại về thể chất).
15


Do vậy, trường hợp người phòng vệ lại không gây ra thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe mà lại gây ra thiệt hại khác (chẳng hạn như thiệt hại về tài sản) không có
khả năng ngăn chặn, đẩy lùi hành vi xâm hại thì không thừa nhận là phòng vệ
chính đáng, vì không đúng với mục đích của phòng vệ chính đáng.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trong mọi trường hợp, người phòng
vệ chỉ được gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người có hành vi xâm hại.
Trong một số trường hợp, người phòng vệ vẫn có thể gây thiệt hại về tài sản (vật
chất) cho người có hành vi xâm hại nếu việc gây thiệt hại đó có khả năng, tác
dụng ngăn chặn, đẩy lùi hành vi xâm hại. Thực chất đây là trường hợp người
phòng vệ đã thực hiện hành vi chống trả làm vô hiệu hóa công cụ, phương tiện
mà người thực hiện hành vi tấn công sử dụng.
Thứ ba, hành vi phòng vệ (chống trả) phải là hành vi cần thiết để ngăn chặn
sự xâm hại. Đây là điều kiện về giới hạn của người phòng vệ chính đáng. Điều
kiện này đòi hỏi người phòng vệ chỉ được phép chống trả người có hành vi xâm
hại trong phạm vi giới hạn cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi xâm hại.
Mức độ cần thiết của hành vi phòng vệ được xác định trên cơ sở xem xét,
đánh giá của người phòng vệ nhưng phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi xâm hại, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể khi xảy ra sự việc. Điều
đó có nghĩa là trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, người phòng vệ trên cơ
sở tự đánh giá về tính chất quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất, mức độ nguy
hiểm của công cụ, phương tiện tấn công, nhân thân của người có hành vi xâm hại,
cường độ của sự tấn công cũng như các yếu tố khác (tâm lý không bình tĩnh của

người phòng vệ do bị tấn công bất ngờ, thời gian, địa điểm xảy ra...) để quyết
định biện pháp chống trả cũng như mức độ chống trả mà người đó cho là cần thiết
nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại các lợi ích cần bảo vệ.
Mức độ cần thiết của hành vi phòng vệ ở đây không có nghĩa là phương
tiện dùng để phòng vệ chỉ được ngang bằng, hoặc tương đương với phương tiện
mà người xâm hại sử dụng hoặc thiệt hại mà người phòng vệ gây ra cho người
16


xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại mà hành vi xâm hại đã gây ra
hay có thể gây ra. Điều này có nghĩa là biện pháp chống trả của người phòng vệ
đặt trong hoàn cảnh cụ thể, căn cứ vào phương tiện, phương pháp được sử dụng
và thiệt hại do hành vi phòng vệ gây ra là biện pháp cần thiết đủ khả năng và có
tác dụng hạn chế, ngăn chặn, loại trừ được hành vi xâm hại bất hợp pháp, qua đó
mới có khả năng bảo vệ được những lợi ích hợp pháp. Nếu không chống trả bằng
biện pháp đó, gây thiệt hại đến mức độ đó thì không thể ngăn chặn, đẩy lùi được
hành vi xâm hại, không thể bảo vệ được lợi ích của mình cũng như lợi ích của xã
hội khỏi sự xâm hại. Như vậy, sự chống trả cần thiết ở đây không có nghĩa là
người xâm hại sử dụng công cụ, phương tiện gì, bằng phương pháp, thủ đoạn nào
thì người phòng vệ chỉ được đối phó lại bằng những công cụ, phương pháp, thủ
đoạn ấy. Sự chống trả cần thiết ở đây cũng không có nghĩa là thiệt hại do hành vi
phòng vệ gây ra và do hành vi xâm hại gây ra phải ngang bằng nhau. Người
phòng vệ có thể gây thiệt hại ngang bằng hoặc lớn hơn thiệt hại do hành vi xâm
hại gây ra vẫn có thể được đánh giá là cần thiết. Việc người phòng vệ lựa chọn
cách chống trả nào, gây thiệt hại đến mức độ nào là tùy thuộc vào khả năng đánh
giá của họ, cũng tùy thuộc vào tâm lý của họ lúc phòng vệ, miễn sao sự chống trả
đó không là “rõ ràng quá mức cần thiết”, rõ ràng không tương xứng với tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Tóm lại, trong mọi trường hợp để xem xét hành vi phòng vệ có phải là cần
thiết (chính đáng) hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, cần xem xét, đánh

giá đầy đủ và toàn diện tất cả các điều kiện (dấu hiệu) nêu trên có liên quan đến
hành vi xâm hại cũng như hành vi phòng vệ.
1.3. Vƣợt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng
1.3.1. Khái niệm
Một trong những điều kiện của phòng vệ chính đáng là sự chống trả người
có hành vi xâm hại phải là sự chống trả cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Nếu không thỏa mãn điều kiện này thì
bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
17


Khoản 2 Điều 15 BLHS năm 1999 quy định “ Vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng vượt quá mức cần thiết, không phù hợp
với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại”.
Như vậy, vượt quá phòng vệ chính đáng thực chất là trường hợp do đánh
giá sai tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại nên người
phòng vệ đã lựa chọn những công cụ, phương tiện, biện pháp chống trả gây thiệt
hại rõ ràng quá mức cần thiết cho người có hành vi xâm hại, trong khi không cần
thiệt phải chống trả gây thiệt hại đến như vậy vẫn có khả năng bảo vệ được những
lợi ích hợp pháp.
Vấn đề phức tạp về lý luận và thực tiễn là ranh giới giữa phòng vệ chính
đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thật sự chưa rõ ràng, cụ thể. Do
vậy, để phân định trường hợp nào là phòng vệ chính đáng, trường hợp nào là vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng không phải đơn giản và thường có những ý
kiến khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Trong khi đó, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS về
vấn đề này cũng chỉ nêu một cách chung chung là: “Vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng là trường hợp người phòng vệ đã dùng những phương tiện và phương
pháp gây ra thiệt hại quá đáng cho người có hành vi xâm hại mà tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại cũng như hoàn cảnh cụ thể

chưa đòi hỏi phải dùng các phương tiện và phương pháp đó”. [49]
Do vậy, để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là
quá đáng hay không thì phải xem xét toàn diện nhưng tình tiết có liên quan đến
hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: Khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại
do hành vi xâm hại gây ra có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng vệ
gây ra; vũ khí, phương tiện mà hai bên sử dụng; nhân thân của người xâm hại;
cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự
việc...Đồng thời cũng phải chú ý đến yếu tố tâm lý của người phòng vệ có khi
không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp hoặc
phương tiện chống trả phù hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
18


[17, tr.14,15]
Những tình tiết trên cần phải được xem xét, đánh giá trong mối liên hệ với
nhau trong một tổng thể tức là phân tích đánh giá một cách khách quan, toàn diện
tất cả những tình tiết nếu có, không được coi nhẹ hoặc bỏ qua bất cứ tình tiết nào.
Có như vậy, mới có thể xác định được chính xác là phòng vệ chính đáng hay là
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
1.3.2. Trách nhiệm hình sự
Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì
nó gây ra những thiệt hại không cần thiết, không phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Vì vậy, người có hành vi vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự
Khoản 2 Điều 15 BLHS quy định: “Người có hành vi vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự”;
Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng được giảm nhẹ nhiều so với trường hợp phạm tội không thuộc
trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Bởi vì, phạm tội do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định là một tình tiết giảm nhệ trách

nhiệm hình sự tại điểm c, khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
Trong BLHS năm 1999 quy định hai trường hợp phạm tội do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, đó là: Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng (Điều 96) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106). Đây là hai
tội được xây dựng dưới dạng cấu thành giảm nhẹ đặc biệt vì thế loại và mức hình
phạt quy định đối với hai tội phạm này ít nghiêm khắc do với hai tội phạm tương
ứng quy định tại Điều 93 và Điều 104 BLHS.
Ngoài trách nhiệm hình sự, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng có thể phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.

19


1.4. Phân biệt phòng vệ chính đáng với các trƣờng hợp không phải là
phòng vệ chính đáng và trƣờng hợp loại trừ trách nhiệm hình sự khác
1.4.1. Phân biệt phòng vệ chính đáng với tình thế cấp thiết
Trong các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, ngoài trường hợp phòng
vệ chính đáng còn có tình thế cấp thiết được quy định tại điều 16 BLHS có một số
nội dung gần giống với phòng vệ chính đáng. Do vậy, cần phải phân biệt để tránh
nhầm lẫn.
Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại
nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết
không phải là tội phạm
Trong trường hợp gây thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quả yêu cầu của tình
thế cấp thiết, thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự”. Điều kiện
về nguồn gây nguy hiểm:
- Cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền được thực hiện hành vi gây thiệt hại

trong tình thế cấp thiết là sự nguy hiểm đang đe dọa gây những thiệt hại nhất định
về lợi ích hợp pháp được bảo vệ. Nguồn nguy hiểm đang đe dọa gây thiệt hại ở
đây có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: thiên nhiên, súc vật, sự bất cẩn
của con người...
Ví dụ: một con thuyền đang vận chuyển hàng trên biển thì được tin bão
khẩn cấp, sẽ gây chìm tàu nếu nó vẫn còn chở khối lượng hàng nặng như hiện tại.
Vì vậy thuyền trưởng đã quyết định hạ lệnh ném hàng xuống biển nhằm tránh
chìm tàu. Ở đây nguồn nguy hiểm do bão gây ra. Thông thường, hành vi nguy
hiểm không phải là hành vi của con người đang đe dọa xâm hại đến các lợi ích
họp pháp. Tuy nhiên, không thể loại trừ khả năng nguồn nguy hiểm lại là hành vi
của con người nhưng không phải đang diễn ra mà chỉ đe dọa diễn ra. Ví dụ: một
tên cướp ngân hàng đang uy hiếp một nữ nhân viên và đe dọa sẽ giết chết nhân
viên đó nếu viên cảnh sát không mở đường cho hắn thoát thân.
20


×