ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ NGỌC LÝ
PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
VÀ VẤN ĐỀ PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG
QUA THỰC TIỄN TẠI TP ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN PHƢƠNG LAN
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Ngọc Lý
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài 4
6. Kết cấu của luận văn 4
Chƣơng 1: BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG VÀ VIỆC THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG GIỚI 6
1.1. Khái niệm chung về bạo lực giữa vợ và chồng 6
1.1.1. Bạo lực giữa vợ và chồng là một dạng BLGĐ 6
1.1.2. Các dạng bạo lực giữa vợ và chồng 8
1.1.3. Đặc điểm hành vi bạo lực giữa vợ và chồng 12
1.1.4. Hậu quả của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng 14
1.2. Bạo lực giữa vợ và chồng xâm phạm quyền bình đẳng giới 17
1.2.1. Khái niệm chung về bình đẳng giới 17
1.2.2. Bạo lực giữa vợ và chồng là bạo lực trên cơ sở giới 22
1.2.3. Bạo lực giữa vợ và chồng thể hiện sự phân biệt đối xử về giới 25
1.3. Sự cần thiết của việc phòng, chống, và xử lý hành vi bạo lực giữa
vợ và chồng nhằm thực hiện bình đẳng giới 32
Chƣơng 2: HÀNH VI BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG VÀ BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI BẠO LỰC NHẰM THỰC HIỆN
BÌNH ĐẲNG GIỚI THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 35
2.1. Các hành vi bạo lực giữa vợ và chồng vi phạm pháp luật về bình
đẳng giới trong gia đình 35
2.1.1. Bạo lực về thể chất 35
2.1.2 Bạo lực tình dục 37
2.1.3. Bạo lực tinh thần 40
2.1.4. Bạo lực kinh tế 42
2.2. Áp dụng pháp luật xử lý hành vi bạo lực giữa vợ và chồng nhằm
thực hiện bình đẳng giới theo quy định của pháp luật hiện hành 44
2.2.1. Xử lý kỷ luật 45
2.2.2. Xử lý hành chính 46
2.2.3. Xử lý theo pháp luật hình sự 54
2.2.4. Xử lý theo pháp luật dân sự 58
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG VÀ VIỆC
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG NHẰM
ĐẢM BẢO BÌNH ĐẲNG GIỚI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 60
3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Đà
Nẵng ảnh hưởng đến bạo lực giữa vợ và chồng 60
3.2. Thực trạng bạo lực giữa vợ chồng tại thành phố Đà Nẵng 62
3.3. Vấn đề phòng, chống bạo lực giữa vợ chồng và áp dụng pháp luật
xử lý hành vi bạo lực nhằm thực hiện quyền bình đẳng giới giữa vợ
chồng tại Đà Nẵng 67
3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và biện pháp phòng chống bạo
lực giữa vợ chồng nhằm đảm bảo thực hiện quyền bình đẳng giới 73
3.4.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật phòng, chống BLGĐ 73
3.4.2. Một số biện pháp ngăn chặn, xóa bỏ hiện tượng bạo lực giữa vợ và
chồng nhằm thực hiện bình đẳng giới 80
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLGĐ
Bạo lực gia đình
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLHS
Bộ luật Hình sự
BĐG
Bình đẳng giới
Luật HN&GĐ
Luật Hôn nhân và gia đình
Luật PCBLGĐ
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
TAND
Toà án nhân dân
UBND
Uỷ ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, vấn đề BĐG và BLGĐ đang được cộng đồng quốc tế đặc biệt
quan tâm. Bởi vì, thực tế tình trạng bất BĐG và BLGĐ đã và đang diễn ra phổ
biến, là một trong những nguyên nhân hạn chế quá trình phát triển kinh tế, xã
hội. Những nước có chỉ số phát triển giới (GDI) cao thường ít xảy ra BLGĐ
đồng thời đạt được tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững hơn.
Thực trạng bất BĐG, khoảng cách giới, phân biệt đối xử về giới ở Việt
Nam vẫn đang tồn tại trong đời sống xã hội, biểu hiện ở những khía cạnh như:
bất bình đẳng về vị trí, vai trò giữa nam và nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội
và gia đình, định kiến giới, BLGĐ… làm hạn chế bình đẳng giới thực chất giữa
nam và nữ, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững kinh tế, xã hội của đất nước.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự
quan tâm tới việc thực hiện BĐG và phòng, chống BLGĐ thể hiện qua nhiều
văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp năm 1992; Luật Hôn nhân và gia
đình; Bộ luật Dân sự; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Người
cao tuổi; Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính…, đặc biệt là Luật BĐG và
Luật PCBLGĐ.
Tuy nhiên, những năm gần đây, hiện tượng BLGĐ vẫn không có
chiều hướng giảm. Ngày càng có nhiều trường hợp BLGĐ gây hậu quả
nghiêm trọng được phát hiện, công tác phòng chống BLGĐ vẫn chưa thật
sự hiệu quả, nhận thức về BLGĐ chưa đầy đủ. Đặc biệt ở một số vùng
nông thôn đa số người dân chưa nhận thức được chính xác thế nào là
BLGĐ, nhầm lẫn giữa BLGĐ với những mâu thuẫn thường gặp hàng ngày
trong đời sống gia đình. Khi xảy ra tình trạng BLGĐ thì những người xung
quanh cho rằng đó là “chuyện của nhà người ta”, “đèn nhà ai nấy sáng”…
2
dẫn đến tình trạng BLGĐ chưa được phát hiện và ngăn chặn kịp thời. Trách
nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng chống BLGĐ
chưa được hiểu và thực hiện đúng.
Bạo lực giữa vợ và chồng xâm phạm nghiêm trọng đến các quyền cơ
bản của vợ, chồng, là biểu hiện của sự bất BĐG. Bạo lực giữa vợ chồng là
một dạng bạo lực trên cơ sở giới, là hành vi bị cấm quy định tại khoản 3 Điều
10 và Điều 41 Luật BĐG. Bạo lực giữa vợ và chồng gây ra những ảnh hưởng
tiêu cực không những cho bản thân vợ - chồng, mà còn ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển nhân cách của con cái, đến mục tiêu BĐG.
Tại thành phố Đà Nẵng, những năm gần đây, vấn đề BLGĐ đã được
các cấp, các ngành quan tâm nhưng vẫn chưa có những nghiên cứu chuyên
sâu để có phương hướng ngăn chặn, phòng ngừa, hạn chế BLGĐ một cách
tổng thể và toàn diện nhằm thực hiện được bình đẳng giới thực chất giữa
vợ và chồng.
Từ những suy nghĩ trên, tôi chọn đề tài “Pháp luật về bình đẳng giới
và vấn đề phòng chống bạo lực giữa vợ chồng qua thực tiễn tại thành phố
Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ ảnh hưởng của hành vi bạo
lực giữa vợ và chồng đến việc thực hiện quyền BĐG giữa vợ và chồng trên cơ
sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về BĐG và phòng, chống BLGĐ
đồng thời tìm hiểu thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng tại Thành phố Đà
Nẵng, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phòng, chống, xử lý kịp thời, có
hiệu quả hành vi bạo lực giữa vợ và chồng để thực hiện mục tiêu BĐG.
* Để thực hiện mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật điều
chỉnh về BĐG và BLGĐ.
3
- Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây và ảnh hưởng của
nó đến việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, đến BĐG giữa
vợ và chồng.
- Tìm hiểu, phân tích một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
BLGĐ giữa vợ, chồng và đánh giá hậu quả của bạo lực giữa vợ và chồng
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tình trạng BLGĐ giữa vợ
chồng ở thành phố Đà Nẵng và các biện pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
vấn đề BLGĐ, nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về phòng, chống BLGĐ để
thực hiện BĐG giữa vợ và chồng trong thực tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
- Một số vấn đề lý luận chung về BĐG và BLGĐ.
- Các quy định có liên quan đến đề tài trong pháp luật về BĐG và pháp
luật phòng, chống BLGĐ.
- Thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng tại thành phố Đà Nẵng qua các
vụ việc cụ thể và việc áp dụng pháp luật để xử lý hành vi bạo lực giữa vợ
chồng nhằm đảm bảo BĐG tại thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về BĐG và pháp luật phòng, chống BLGĐ ở Việt
Nam hiện hành; thực trạng bạo lực giữa vợ, chồng tại thành phố Đà Nẵng. Đề
tài cũng nghiên cứu các quy định của một số ngành luật khác có liên quan
(dân sự, hình sự, hành chính…) trong áp dụng pháp luật xử lý hành vi BLGĐ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: quy nạp, diễn dịch, so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê, kết hợp lý luận và thực tiễn…
4
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học,
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận về BĐG, bạo
lực giữa vợ chồng và ảnh hưởng của nó đến việc thực hiện quyền bình đẳng giới
giữa vợ và chồng. Việc nghiên cứu về lý luận được kiểm chứng qua nghiên cứu
thực trạng bạo lực giữa vợ và chồng tại thành phố Đà Nẵng.
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của đề tài:
- Chỉ ra bất BĐG là một trong những nguyên nhân chính gây ra nạn
BLGĐ nói chung, bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng và ngược lại, hành vi
bạo lực giữa vợ chồng làm sâu sắc hơn tình trạng bất BĐG; vì vậy, việc
phòng, chống bạo lực giữa vợ chồng là một yêu cầu tất yếu để thực hiện BĐG
giữa vợ và chồng.
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng bạo lực giữa vợ, chồng tại
thành phố Đà Nẵng; phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó và hậu
quả của nó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm hạn chế vấn đề
bạo lực giữa vợ, chồng tại Đà Nẵng đồng thời góp phần phòng, chống BLGĐ
tại Việt Nam nhằm thực hiện BĐG thực chất giữa vợ và chồng.
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính chuyên sâu những
khía cạnh lý luận và thực tiễn về bạo lực giữa vợ và chồng dưới góc độ BĐG.
Qua kết quả nghiên cứu, luận văn nhằm khẳng định bạo lực giữa vợ và chồng
là nguyên nhân và biểu hiện của sự bất BĐG, và ngược lại không thể đạt được
mục tiêu BĐG thực chất khi còn tồn tại bạo lực giữa vợ và chồng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận vấn đề, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 3 chương.
5
Chương 1. Bạo lực giữa vợ chồng và việc thực hiện bình đẳng giới.
Chương 2. Hành vi bạo lực giữa vợ - chồng và biện pháp xử lý hành vi
bạo lực nhằm thực hiện bình đẳng giới theo pháp luật hiện hành.
Chương 3. Thực trạng bạo lực giữa vợ chồng và việc phòng, chống bạo
lực giữa vợ chồng nhằm đảm bảo bình đẳng giới tại thành phố Đà Nẵng.
6
Chương 1
BẠO LỰC GIỮA VỢ CHỒNG
VÀ VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1. Khái niệm chung về bạo lực giữa vợ và chồng
1.1.1. Bạo lực giữa vợ và chồng là một dạng BLGĐ
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ" [39, tr. 41]. Khái niệm này khiến bạo lực thường được
hiểu như các hoạt động chính trị, là phương thức chống lại lực lượng đối lập
hay thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền và thiên về sử dụng sức
mạnh vật chất. Tuy nhiên, trên thực tế bạo lực được coi như một phương thức
hành xử trong các quan hệ xã hội nói chung, bao gồm cả quan hệ hôn nhân
gia đình. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo
lực cũng rất phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng
góc độ nhìn nhận: bạo lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được;
bạo lực với phụ nữ, với trẻ em; bạo lực với chồng, với vợ…
BLGĐ là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của các
thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại về vật chất, tinh thần,
kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình” [28]. Nói một cách khác
hơn, đó là việc “các thành viên gia đình vận dụng sức mạnh để giải quyết các
vấn đề gia đình” [29, tr. 27].
Khái niệm BLGĐ gắn liền với khái niệm thành viên gia đình, bởi vì
theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật PCBLGĐ thì BLGĐ xảy ra giữa các
thành viên gia đình.
Dưới góc độ pháp lý, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau
do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh
các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau [26].
7
Xuất phát từ khái niệm về gia đình theo khoản 10 Điều 8 Luật HN&GĐ
2000, có thể hiểu thành viên gia đình gồm: vợ với chồng (có quan hệ hôn
nhân hợp pháp); cha mẹ với con; ông bà với cháu; anh, chị, em với nhau (có
quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng).
Tuy nhiên, đây là cách hiểu về khái niệm gia đình theo nghĩa hẹp. Bởi
vì, khi tìm hiểu về khái niệm gia đình và thành viên gia đình, cần phải xem
xét đến các yếu tố về tình cảm, sự gắn bó giữa các thành viên với nhau. Nếu
chỉ xem những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mới là
các thành viên gia đình theo như quy định của pháp luật hiện nay thì chưa đầy
đủ, vô tình đã loại bỏ ra nhiều thành viên khác mà đáng lẽ ra họ phải được coi
các thành viên gia đình với nhau, đó là: bố, mẹ chồng với con dâu; bố, mẹ vợ
với con rể; bố dượng, mẹ kế với con riêng; anh, chị, em họ; cô, dì, chú, bác
với các cháu… Những người này có thể sống hoặc không sống cùng nhau
trong một gia đình, mối quan hệ giữa họ là mối quan hệ giữa những gia đình
nhỏ với nhau trong một đại gia đình lớn và họ chính là những người có “quan
hệ gần” với những thành viên gia đình chính thống mà pháp luật đã quy định.
Ví dụ: bố chồng và con dâu được coi là thành viên gia đình bởi con dâu là
người có quan hệ hôn nhân với con trai là người có quan hệ huyết thống với
bố chồng. Các mối quan hệ thường có sự đan xen lẫn nhau, vì vậy, xét trên
yếu tố tình cảm, nhân thân, sự gắn bó thì họ phải được coi là các thành viên
gia đình với nhau.
Vì vậy, thành viên gia đình nên được hiểu gồm những người có quan
hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng và những người có quan hệ họ hàng
huyết thống khác.
Từ những cách nhìn nhận trên, có thể hiểu BLGĐ là bất kỳ hành vi bạo
lực hay đe dọa có hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên trong gia đình
với nhau. Hành vi bạo lực gia đình có thể do một người gây cho một người,
8
một người gây cho nhiều người, hoặc có thể do nhiều người gây cho một
người những tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế…
Quan hệ vợ chồng là quan hệ trung tâm, hình thành, duy trì và phát
triển gia đình; vì vậy, bạo lực giữa vợ và chồng là một dạng của BLGĐ. Từ
khái niệm BLGĐ được quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật PCBLGĐ có thể
định nghĩa bạo lực giữa vợ và chồng như sau: “Bạo lực giữa vợ và chồng là
hành vi cố ý của một hoặc hai bên vợ chồng gây tổn hại hoặc có khả năng
gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế cho người kia xảy ra trong quan hệ
vợ chồng” [8, tr. 6].
Như vậy, phạm vi chủ thể của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng hẹp
hơn so với chủ thể của hành vi BLGĐ, nghĩa là hành vi bạo lực chỉ có thể do
người chồng hoặc người vợ thực hiện đối với người kia. Hành vi bạo lực giữa
vợ chồng là hành vi bạo lực trong gia đình.
1.1.2. Các dạng bạo lực giữa vợ và chồng
BLGĐ có thể biểu hiện dưới các dạng khác nhau, tùy từng góc độ
nghiên cứu mà các tác giả đưa ra các cách phân loại BLGĐ dưới các tiêu chí
khác nhau.
- Theo quan điểm của Lê Thị Quý và Đặng Vũ Cảnh Linh [29] thì trong
xã hội Việt Nam, bạo lực gia đình thường diễn ra dưới hai hình thức: bạo lực
nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy được.
+ Bạo lực nhìn thấy được: thường là các hành vi đánh đập, cưỡng ép
quan hệ tình dục, sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để thỏa mãn tình
dục, dùng vũ lực để can thiệp vào ý muốn sử dụng các biện pháp tránh thai
của vợ; tác động và xâm hại trực tiếp đến thể chất, sức khỏe của nạn nhân.
+ Bạo lực không nhìn thấy được: gồm hành vi bóc lột về lao động, thờ
ơ, vô trách nhiệm với phụ nữ, trừng phạt về tinh thần.
- Tác giả Vũ Mạnh Lợi và các cộng sự cho rằng có bốn loại bạo lực là:
9
ngược đãi về thân thể, ngược đãi về lời nói, ngược đãi về tình cảm, ngược đãi
liên quan đến tình dục [13].
- Theo nghiên cứu của Bùi Thu Hằng thì có năm loại BLGĐ [7, tr.27] gồm:
+ Cưỡng bức thân thể: gồm các hành vi như đấm đá, bạt tai gây tổn
thương về thể xác.
+ Cưỡng bức tình dục: gồm việc ép phải quan hệ tình dục hoặc bắt xem
những hình ảnh khiêu dâm mà không được sự đồng ý của phụ nữ.
+ Cưỡng bức về tâm lý và tình cảm: gồm việc buộc nạn nhân sống
trong bầu không khí bị đe dọa và so sánh họ với người khác với lời lẽ mạt sát.
+ Cưỡng bức về mặt xã hội: gồm việc cắt đứt các mối quan hệ giữa
người phụ nữ với người thân trong gia đình và bạn bè.
+ Cưỡng bức về tài chính: là người chồng hoặc vợ hoàn toàn kiểm soát
về mặt tài chính đối với người kia.
Như vậy, trong các cách phân loại này có một số nét tương đồng: bạo
lực nhìn thấy được có thể bao gồm bạo lực thân thể, bạo lực tình dục, trong đó
bạo lực thân thể có thể gồm nhiều hành vi như đánh, tát, dùng vũ lực, tạt
axit, và bạo lực không nhìn thấy được có thể bao gồm các hành vi nhằm tác
động tới tâm lý, tình cảm, tinh thần khác. Tuy nhiên, giữa các loại bạo lực
không có ranh giới rõ ràng, bởi có những loại bạo lực vừa nhìn thấy được, thể
hiện qua các tác động về cơ thể, sức khỏe, vừa không nhìn thấy được, thể hiện
qua những tổn thương về tinh thần, tình cảm, ví dụ như bạo lực tình dục.
Theo LPCBLGĐ 2007 thì BLGĐ gồm các hành vi gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế và được thể hiện bằng
những hành vi sau:
- Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến
sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
10
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa
ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em
với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư
hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của
các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính
quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra
tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở
(Khoản 1 Điều 2)
Bạo lực giữa vợ và chồng là một dạng của BLGĐ, vì thế, trên cơ sở các
cách phân loại về BLGĐ của các tác giả, theo quan điểm của cá nhân, bạo lực
giữa vợ và chồng có thể phân loại như sau:
- Dựa vào hình thức thể hiện bên ngoài của hành vi bạo lực có thể phân
thành hai loại:
+ Bạo lực nhìn thấy được: biểu hiện bằng những hành động cụ thể của
người thực hiện hành vi bạo lực nhằm tác động trực tiếp tới thân thể nạn
nhân. Dạng bạo lực này rất dễ nhận biết đó là các hành động như: đánh đập,
đấm đá, tát, tạt axít, bóp cổ, đuổi đi…
+ Bạo lực không nhìn thấy được: loại bạo lực này có thể thực hiện bằng
hành động hoặc không hành động như bỏ mặc, thờ ơ, chiến tranh lạnh, không
11
quan tâm Loại bạo lực này thường có sức tàn phá rất mạnh, nó khiến nạn
nhân bị dày vò, đau khổ, héo mòn về tinh thần, tổn thương về tình cảm.
- Dựa vào đối tượng tác động của hành vi bạo lực thì có thể phân thành
4 loại:
+ Bạo lực thể chất: là hành vi gây ra thương tích, thiệt hại về thân thể,
tính mạng như đánh đập, ngược đãi, hành hạ về mặt thể xác khiến nạn nhân
đau đớn, tật nguyền hoặc có thể tử vong.
+ Bạo lực tình dục: là cưỡng ép quan hệ tình dục; có hành vi xâm phạm
đến đời sống tình dục vợ chồng mà người vợ hoặc chồng không đồng ý,
cưỡng ép có con, cưỡng ép không được sử dụng biện pháp tránh thai
+ Bạo lực tinh thần: là hành vi sỉ nhục, lăng mạ, nhạo báng, chỉ trích,
đe dọa, ghen tuông, gây lo lắng, căng thẳng, sợ hãi diễn ra trong quan hệ vợ
chồng; hoặc thực hiện hành vi gây áp lực thường xuyên về tâm lý cho vợ hoặc
chồng như: buộc cắt đứt quan hệ với người thân, bạn bè; cô lập, cắt điện
thoại, không cho đi đâu và giao tiếp với bất cứ ai; ngoại tình…
+ Bạo lực kinh tế: là hành vi chiếm đoạt, hủy hoại, làm hư hỏng
tiền, giấy tờ có giá và các tài sản khác là tài sản riêng hoặc tài sản chung
của vợ chồng; cản trở vợ hoặc chồng thực hiện quyền hợp pháp của chủ
sở hữu đối với tài sản; hoặc cưỡng ép vợ hoặc chồng lao động quá sức,
đóng góp tài chính quá khả năng; kiểm soát thu nhập nhằm tạo tình trạng
phụ thuộc về tài chính.
Tóm lại, sự phân loại bạo lực giữa vợ và chồng chỉ có tính chất tương
đối. Nhưng dù ở dạng này hay dạng khác thì bạo lực trong quan hệ vợ chồng
vẫn đang tồn tại và mang lại nhiều nguy cơ cho bản thân vợ chồng và gia
đình. Tuy có những cách phân loại hành vi bạo lực giữa vợ và chồng khác
nhau nhưng tất cả các học giả đều nhận thấy tác động và hậu quả to lớn của
bạo lực trong quan hệ vợ chồng. Bạo lực giữa vợ, chồng làm sâu sắc hơn tình
12
trạng BĐG, điều đó đòi hỏi phải thúc đẩy công cuộc đấu tranh phòng chống
BLGĐ một cách thường xuyên, kịp thời và hiệu quả hơn.
1.1.3. Đặc điểm hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
Bạo lực giữa vợ và chồng là một dạng BLGĐ nên có những đặc điểm
chung của BLGĐ. Tuy nhiên, do đặc điểm nhân thân của quan hệ vợ chồng
chi phối nên bạo lực giữa vợ và chồng còn có những đặc điểm riêng.
- Bạo lực giữa vợ và chồng rất đa dạng. Nó diễn ra ở tất cả mối quan hệ
trong gia đình: trong hoạt động kinh tế gia đình, trong việc xử lý các mối
quan hệ tình cảm, chăm sóc giáo dục con cái ; ở nhiều mức độ khác nhau.
Có nhiều dạng bạo lực khác nhau giữa vợ chồng: bạo lực về tình dục, bạo lực
về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về kinh tế.
- Tính chất của hành vi bạo lực có nhiều mức độ khác nhau: có thể
quyết liệt, tàn bạo, thâm độc tới mức gây án, giết người, nhưng cũng có thể
chỉ là nước mắt và sự chịu đựng âm thầm.
- Bạo lực giữa vợ và chồng khó phát hiện và khó có sự can thiệp của
cộng đồng. Bởi bạo lực giữa vợ và chồng có tính chất riêng tư, thường diễn ra
trong khung cảnh gia đình; bị chi phối bởi tâm lý che đậy, giấu diếm của nạn
nhân vì “xấu chàng hổ ai” thậm chí có thể nạn nhân còn bao che; thủ phạm
thường cố tình che giấu hành vi bạo lực (đóng kín cửa, bật nhạc thật to để
đánh đập, chửi rủa, đập phá đồ đạc…)
- Những hành vi bạo lực giữa vợ và chồng thường mang tính tái diễn,
tạo thành vòng tròn có tính chất chu kỳ: ngọt ngào - căng thẳng tích lũy - bạo
lực bùng nổ - ngọt ngào… Giai đoạn căng thẳng tích lũy bắt đầu bằng sự giận
dữ, trách mắng và căng thẳng gia tăng. Người gây bạo lực trở nên cáu kỉnh,
dễ bị kích động, ích kỷ, khó tính và dễ phản ứng tiêu cực với bất kỳ vấn đề
nhỏ nhặt nào. Giai đoạn bạo lực bùng nổ bao gồm những lời dọa dẫm, tát,
đấm, đe dọa bằng vũ khí, bạo lực tình dục hoặc cưỡng bức quan hệ. Bạo lực
13
có thể kết thúc nhanh chóng hoặc kéo dài nhiều phút, nhiều giờ. Giai đoạn
ngọt ngào là giai đoạn ăn năn và yêu thương. Người gây bạo lực xin lỗi và
hứa sẽ thay đổi, thuyết phục nạn nhân rằng những hứa hẹn này là chân thật.
Chính điều này làm nhiều nạn nhận của bạo lực bị cuốn vào vòng xoáy không
dứt ra được.
- Về chủ thể, có thể do cả vợ, chồng là người có hành vi bạo lực, nhưng
nhìn chung bạo lực do người chồng gây ra cho vợ là chủ yếu. Các nghiên cứu
đã chỉ ra rằng số nạn nhân là phụ nữ chiếm tới 95% tổng số các vụ BLGĐ
[30]. Nếu xem xét đến cả ba hình thức bạo lực chính trong đời sống vợ chồng
- thể xác, tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58%) phụ nữ Việt Nam
cho biết đã từng là nạn nhân của ít nhất một hình thức BLGĐ kể trên. Các kết
quả nghiên cứu cũng cho thấy khả năng phụ nữ bị chồng mình lạm dụng
nhiều hơn gấp ba lần so với khả năng họ bị người khác lạm dụng [44].
- Bạo lực giữa vợ, chồng thường bị chi phối bởi sự lệ thuộc hoặc ràng
buộc lẫn nhau. Sự lệ thuộc, ràng buộc lẫn nhau có thể là về con, kinh tế, chỗ
ở, … Nhiều người vợ dù phải gánh chịu nhiều hậu quả do hành vi bạo lực của
chồng nhưng vẫn không tố giác, chấp nhận duy trì hôn nhân để con có được
một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ; hoặc vì không có việc làm, thu nhập, chỗ
ở nên đành âm thầm chịu đựng bạo lực do chồng gây ra.
- Bạo lực giữa vợ và chồng gây ra nhiều hậu quả nặng nề cho các
bên vợ chồng. Trở thành nguyên nhân và nguy cơ làm tan vỡ, suy giảm sự
bền vững của gia đình, gây mất an toàn trong đời sống xã hội, làm giảm
lòng tin, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ em và đặc biệt
càng làm sâu sắc hơn tình trạng bất bình đẳng giới. Bởi những biểu hiện
của hành vi bạo lực giữa vợ, chồng và hậu quả của chúng đã thể hiện sự
bất BĐG trong gia đình; hạn chế vai trò, cơ hội phát triển, khả năng thụ
hưởng thành quả của nạn nhân.
14
1.1.4. Hậu quả của hành vi bạo lực giữa vợ và chồng
Tình hình BLGĐ nói chung, bạo lực giữa vợ và chồng nói riêng đang
xảy ra khá phổ biến tại khắp các vùng miền trên cả nước. Hành vi bạo lực
dưới nhiều dạng thức khác nhau đều để lại những hậu quả nặng nề về thể
chất, sức khỏe, tinh thần, kinh tế… đối với nạn nhân, gia đình, xã hội và với
cả người thực hiện hành vi bạo lực.
- Ảnh hưởng đối với người thực hiện hành vi bạo lực:
Người có hành vi gây bạo lực tuy là người chủ động thực hiện nhưng
phần lớn họ thực hiện hành vi trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Nhiều người sau khi thực hiện hành vi bạo lực đã tỏ ra hối hận, dằn vặt về
những gì đã xảy. Họ có thể bị cộng đồng và xã hội lên án, xa lánh, vì thế
những người này không còn nhận được sự tôn trọng và tin tưởng từ cộng
đồng và xã hội. Điều này ít nhiều ảnh hưởng tới tâm lý, cuộc sống đời
thường của họ. Cũng như gây ra những mất mát về tình cảm đối với gia
đình, đối với nạn nhân.
Ngoài ra, có thể tạo thành thái độ, thói quen sử dụng vũ lực để khống
chế nạn nhân nhằm đạt được mục đích của mình, khiến người thực hiện hành
vi bạo lực nếu nhẹ thì phải chịu trách nhiệm hành chính, nặng hơn nữa họ thì
bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp xấu nhất, người này có thể bị
tước đi ngay cả quyền sống của họ.
- Ảnh hưởng đối với nạn nhân:
Nạn nhân luôn là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất. Về
thể chất, bạo lực gây cho họ những giảm sút về sức khỏe, nhiều khi gây ra
thương tật vĩnh viễn hoặc có thể bị tước đoạt tính mạng. Về tâm lý, tình cảm,
bạo lực gây ra những hậu quả xấu về sức khỏe tâm thần khiến họ mất lòng tin,
bi quan và mặc cảm. Nạn nhân sẽ phải mất nhiều thời gian và tiền của để điều
trị, chữa bệnh, ảnh hưởng đến khả năng học tập, lao động, giảm sút thu nhập,
15
luôn phải sống trong trạng thái lo lắng, căng thẳng, cảm giác bị bỏ rơi, dễ dẫn
đến các hành vi tiêu cực như: bỏ nhà, tự tử và mắc vào các tệ nạn xã hội.
Ngoài ra, hành vi bạo lực còn cản trở, triệt tiêu khả năng hưởng thụ các
quyền con người, hạn chế điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của họ cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng thành quả của sự phát
triển. Trong trường hợp, nạn nhân là người vợ thì hành vi bạo lực còn cản trở,
triệt tiêu khả năng hưởng thụ các lợi ích của người phụ nữ; xâm phạm nghiêm
trọng nhân phẩm, cản trở sự phát triển của người phụ nữ… Từ đó, cản trở việc
thực hiện quyền BĐG, làm sâu sắc hơn tình trạng bất BĐG trong gia đình.
- Ảnh hưởng đến gia đình:
Bạo lực trong quan hệ vợ chồng có ảnh hưởng xấu đến gia đình nói
chung và các thành viên gia đình nói riêng. Quan hệ vợ chồng được xem là
quan hệ trung tâm của gia đình, vì vậy, những hành vi bạo lực giữa vợ chồng
khiến gia đình không thể thực hiện tốt các chức năng quan trọng của mình.
Một gia đình không thể cùng nhau phấn đấu xây dựng, phát triển kinh tế khi
vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, đánh đập, không yêu thương, tôn trọng
lẫn nhau. Gia đình không thực hiện được chức năng chăm sóc, giáo dục con
cái khi bản thân cha mẹ lại không đối xử tốt với nhau. Những đứa con sống
trong môi trường gia đình như vậy rất dễ bị tổn thương, chúng thường sống
trong tâm trạng lo lắng, bất an, khó hòa nhập cuộc sống, từ đó nảy sinh tư
tưởng chán đời, học hành sa sút, dễ mắc các bệnh trầm cảm, tệ nạn xã hội…
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Nguy hiểm hơn, đây chính là mảnh đất để ươm mầm những hành vi BLGĐ
trong tương lai, khi mà những đứa trẻ trưởng thành cũng có xu hướng sử dụng
bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình. Đây cũng là một lý do dẫn
các trẻ em này vào con đường phạm pháp.
Cũng phải nói thêm rằng, trong những gia đình có bạo lực, ngoài các
16
chi phí chăm sóc y tế để chữa trị thương tích và rối loạn tâm lý liên quan đến
bạo lực, còn có các chi phí khác về thời gian dành cho việc chữa trị và các
hoạt động pháp lý khác mà lẽ ra thời gian đó nạn nhân và gia đình họ có thể
sử dụng để kiếm thêm thu nhập.
Bạo lực giữa vợ chồng cũng làm phát sinh nguy cơ gây tan vỡ và suy
giảm sự bền vững của gia đình. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì
trung bình một năm trên cả nước có 8000 vụ ly hôn mà nguyên nhân là do
BLGĐ [6, tr. 34-37]. Còn theo báo cáo của Bộ Công an, trên toàn quốc cứ 2-3
ngày lại có 1 người bị chết có liên quan đến BLGĐ [42].
Như vậy, có thể thấy hành vi bạo lực đã xâm phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ giữa vợ - chồng, hủy hoại tình cảm yêu thương gắn bó giữa
vợ và chồng, làm giảm sút, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, khiến gia đình
không thực hiện được các chức năng của mình.
- Ảnh hưởng đối với xã hội:
Bạo lực giữa vợ và chồng cũng để lại hậu quả nặng nề cho xã hội. Hành
vi bạo lực làm suy thoái đạo đức nghiêm trọng: những người xung quanh,
những người chứng kiến bạo lực sẽ cảm thấy bất bình, ức chế và không tin vào
những giá trị tốt đẹp; hoặc khi đã vô tâm, lãnh đạm thì chính họ sẽ thực hiện
hành vi này, làm gia tăng xu hướng bạo lực trong xã hội gây ảnh hưởng đến
trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, ở những đứa trẻ trong gia đình có bạo lực còn
tiềm ẩn nguy cơ sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn trong cuộc sống.
Cứ thế, bạo lực trong gia đình và ngoài xã hội đan xen, tiếp nối nhau, trở thành
mối lo ngại cho cả cộng đồng, đe dọa sự ổn định của môi trường xã hội.
Về kinh tế, bạo lực giữa vợ và chồng cũng để lại nhiều thiệt hại: làm
giảm năng suất lao động, tốn kém chi phí để chữa bệnh, phục hồi sức khỏe
cho nạn nhân, chi phí để điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc…, từ đó ảnh
hưởng một phần tới mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
17
Qua các phân tích trên cho thấy, hậu quả của hành vi bạo lực trong
quan hệ vợ chồng là hết sức nặng nề. Hành vi BLGĐ đều trực tiếp hay gián
tiếp tác động và ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội. Bởi
nó trực tiếp gây tổn thương đến sức khoẻ và tinh thần, gây hoảng loạn, rối
loạn về tâm lý, tình cảm của con người, nhất là sự phát triển nhân cách của
các thành viên trong gia đình, đặc biệt là trẻ em, làm gia đình tan vỡ và ảnh
hưởng xấu đến xã hội, để lại cho xã hội những gánh nặng.
1.2. Bạo lực giữa vợ và chồng xâm phạm quyền bình đẳng giới
Bình đẳng nam nữ là tư tưởng được hình thành từ lâu trong lịch sử lập
pháp của nước ta. Tuy nhiên, vấn đề BĐG lại mới được đề cập, nghiên cứu,
điều chỉnh trong một hai thập niên gần đây. Bạo lực giữa vợ chồng là xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền BĐG. Để thấy rõ hơn điều đó, cần hiểu rõ một
số khái niệm và lý luận chung về bình đẳng giới.
1.2.1. Khái niệm chung về bình đẳng giới
* Khái niệm giới tính và giới
“Giới tính là những đặc điểm chung phân biệt nam với nữ, giống đực
với giống cái” [17, tr.405]. Theo quan điểm xã hội học trong cuốn “Xã hội
học về giới và phát triển” của hai tác giả Lê Ngọc Hùng và Nguyễn Thị Mĩ
Lộc, “Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ trong tất cả các mối
quan hệ xã hội” [10, tr.6]. Với tác giả Lê Thị Chiêu Nghi thì “giới tính là sự
khác biệt giữa phụ nữ và nam giới về mặt y - sinh học” [19, tr.77].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm giới tính lần đầu tiên được
quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 5 Luật BĐG, theo đó: “Giới tính chỉ các đặc
điểm sinh học của nam, nữ”.
Như vậy, khái niệm giới tính chỉ đặc điểm sinh học tự nhiên do bẩm
sinh di truyền của nam hoặc nữ, do đó, đặc điểm về giới tính là không thể
thay đổi được. “Giới là lớp người trong xã hội phân theo một đặc điểm rất
18
chung nào đó, về nghề nghiệp, địa vị xã hội” [17, tr.405]. Theo định nghĩa của
tác giả Lê Thị Chiêu Nghi thì: “Giới bao gồm các mối quan hệ và tương quan
về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một môi trường xã hội cụ thể,
hay nói cách khác, giới là sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong quan
hệ xã hội” [19, tr.71]. Ngoài ra, theo tác giả Lê Ngọc Hùng và Nguyễn Thị
Mĩ Lộc thì: “Giới dùng để chỉ các đặc điểm, vị trí, vai trò và mối quan hệ xã
hội giữa nam và nữ. Hay nói cách khác, giới là khái niệm dùng để chỉ những
đặc trưng xã hội của nam và nữ” [10, tr.6]. Như vậy, tuy các khái niệm trên
có sự khác nhau về câu chữ trong cách diễn đạt nhưng nói chung, theo quan
điểm xã hội học các tác giả đều cho rằng giới là khái niệm dùng để chỉ những
sự khác biệt của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, để thể hiện sự khác biệt về vị thế xã
hội, vị thế trong các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, khái niệm “đàn
bà”, “đàn ông”, “trai”, “gái”, “nam”, “nữ”, “phụ nữ”, “nam giới” đã được sử
dụng trong các bản Hiến pháp cũng như nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Khái niệm “Giới” lần đầu tiên được qui định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Bình
đẳng giới như sau: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất
cả các mối quan hệ xã hội”.
Có thể thấy giới một phần bị quy định bởi các yếu tố, tiền đề sinh học
của giới tính nhưng không mang tính bẩm sinh, di truyền mà bị quy định bởi
điều kiện và môi trường sống của cá nhân, được hình thành và phát triển qua
hàng loạt các cơ chế bắt chước, học tập, đào tạo. Giới có thể thay đổi dưới tác
động của các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặc biệt là về điều kiện kinh tế xã
hội. Giới có tính đa dạng, phong phú cả về nội dung, hình thức và tính chất.
Các đặc điểm giới thường bộc lộ qua suy nghĩ, tình cảm và hành vi của mỗi
cá nhân, mỗi nhóm, mỗi cộng đồng người…
Giới tính và giới có sự chi phối và ảnh hưởng đến nhau. Để thực hiện và
19
đảm bảo quyền bình đẳng giới không phải là hướng tới giới tính mà cần thay
đổi quan niệm về giới. Từ đó, muốn đạt đến vấn đề bình đẳng giới tức là bình
đẳng xã hội giữa nam và nữ thì vấn đề không phải là thay đổi các đặc điểm về
giới tính, mà cần phải thay đổi quan niệm về vị trí, vai trò của phụ nữ và nam
giới cũng như thay đổi cách phân công lao động trong gia đình và xã hội.
* Khái niệm bình đẳng giới
BĐG theo quan niệm xã hội học là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới
nam và nữ, có xét đến đặc điểm riêng của nữ giới, được điều chỉnh bởi các
chính sách đối với phụ nữ một cách hợp lý. Hay nói cách khác, BĐG là sự
thừa nhận, sự coi trọng ngang nhau đối với các đặc điểm giới tính và sự thiết
lập các cơ hội, điều kiện ngang nhau đối với nữ và nam trong xã hội để nam -
nữ có thể thực hiện và hưởng thụ ngang nhau các quyền của mình.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, các thuật ngữ “bình đẳng nam nữ”,
“nam nữ bình quyền” đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật để thể
hiện sự bình đẳng về địa vị pháp lý của nam và nữ trong các quan hệ pháp
luật cụ thể. Tuy nhiên việc nam nữ bình đẳng về địa vị pháp lý không bao
hàm sự bình đẳng của nam và nữ trong tất cả các quan hệ xã hội. “Bình đẳng
giới” là thuật ngữ được quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật BĐG. Theo đó,
BĐG được hiểu “là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
BĐG là mục tiêu và thước đo tiến độ phát triển của một xã hội. BĐG
được thể hiện ở nhiều phương diện, cụ thể như: nữ và nam có điều kiện ngang
nhau để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; nữ và
nam có cơ hội ngang nhau để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực
của xã hội trong quá trình phát triển; nữ và nam có các quyền lợi ngang nhau
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.