Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

THỰC TRẠNG tổ CHỨC CHÍNH QUYỀN địa PHƯƠNG tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.35 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC VIẾT TẮT.................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
Chương I..........................................................................................................2
CÁC MÔ HÌNH TỔ CHÚC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRÊN
THẾ GIỚI........................................................................................................2
1. Khái niệm chung................................................................................................................................. 2
2.Một số mô hình tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới.............................................................2
2.1 Mô hình chính quyền địa phương ở nước Anh.................................................................................. 2
2.2 Mô hình chính quyền đia phương ở Mỹ............................................................................................ 3
2.3 Mô hình chính quyền địa phương ở Pháp.......................................................................................... 4
2.4 Mô hình chính quyền địa phương ở Cộng hoà Liên bang Đức...........................................................5

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM............................................................................6
1 . Giới thiệu chung về việt Nam............................................................................................................ 6
2. Khái niệm về tổ chức chính quyền địa phương tại Việt Nam...............................................................6
2.1. Khái niệm chính quyền địa phưong trong các văn kiện, văn bản pháp luật:......................................7
3.Thực trạng tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam......................................................................8
3.1 . Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp Cấp xã:..............................................................................8
3.2 . Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp Cấp huyện:......................................................................10
3. 3. Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp tỉnh................................................................................. 13
4. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYÈN ĐỊA PHƯƠNG VIỆT NAM........................15

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP ĐÓNG GÓP
NHẰM NẦNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG Ở VIỆT NAM..............................................................................18
3.1. Một số ưu điểm:............................................................................................................................. 18
3.2 Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương Việt Nam...............................18
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phương thức hoạt động........................................................20


3.3.1 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương...................20
3.3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phưong thức hoạt động......................................................20

KẾT LUẬN....................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................32


DANH MỤC VIẾT TẮT
CQĐP : Chính Quyền Địa Phương
UBND : Ủy Ban Nhân Dân
HDND : Hội Đồng Nhân Dân


LỜI MỞ ĐẦU
Thuật ngữ “Chính quyền địa phương” thường được hiểu là những đơn
vị của chính quyền trực tiếp cung cấp dịch vụ cho công dân tại cấp trung gian
thấp và thấp nhất. Tại một số nước trên thế giới, các đơn vị chính quyền địa
phương đã có quyền tự trị từ rất lâu trước khi các quốc gia đó được thành lập
với cơ cấu tổ chức chính quyền như hiện nay và do đó, không cần sự phân cấp
thấm quyền từ cấp chính quyền cao hơn cho các đơn vị này. Tại một số nước
có cơ cấu nhà nước đơn nhất, chính quyền địa phương thi hành quyền lực của
mình theo nguyên tắc quyền lực của chính quyền cấp dưới do chính quyền
Trung ương trực tiếp ủy nhiệm, và cấp trung ương có thế bãi bỏ việc ủy
nhiệm đó. Tại một số nước thuộc hệ thống đơn nhất khác, chính quyền địa
phương hoạt động theo nguyên tắc thẩm quyền chung, và trên nguyên tắc
được phép thực thi những thẩm quyền không thuộc chính quyền Trung ương.
Khác với chế độ tự quản địa phương của một số nước, chính quyền địa
phương của Việt Nam là một bộ phận hợp thành của chính quyền nhà nước
thống nhất, bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do nhân
dân địa phương trực tiếp bầu ra và các cơ quan, tổ chức khác được thành lập

trên cơ sở các cơ quan quyền lực nhà nước này theo quy định của pháp luật
nhằm quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương, trên cơ sở
nguyên tắc tập trung dân chủ và kết hợp hài hoà giữa lợi ích nhân dân địa
phương với lợi ích chung của cả nước.
Với nội dung tiểu luận, tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn về cơ cấu
chính quyền địa phương tại Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay theo xu hướng chung và phù hợp với Hiến pháp 2013.

1


Chương I.
CÁC MÔ HÌNH TỔ CHÚC CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRÊN
THẾ GIỚI
1. Khái niệm chung
Khái niệm chính quyền địa phương là khái niệm phái sinh từ khái niệm
hệ thống các cơ quan nhà nước ở địa phương. Khái niệm này được sử dụng
khá phố biến trong nhiều văn bản pháp luật của nhà nước. Là một khái niệm
được sử dụng nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống
thực tế xã hội, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định
nghĩa khái niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối
quan hệ và cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành
Hiện nay, trong khoa học pháp lý thế giới có rất nhiều quan điểm khác
nhau về vị trí vai trò của CQĐP. Có quan điểm cho rằng, CQĐP được xem xét
“như là một cành quyền lực thứ tư, chỉ phụ thuộc vào pháp luật và chịu sự xét
xử của toà án, không trực thuộc chính phủ và các cơ quan của chính phủ kể cả
từ trung ương lẫn địa phương”. Ngược lại với quan điểm này, có tác giả cho
rằng, xây dựng “nhà nước thịnh vượng chung” đòi hỏi phải có sự can thiệp
ngày càng sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của các cơ

quan nhà nước trung ương, xuất hiện mối quan hệ ngày càng trở nên chặt chẽ
giữa nhà nước và địa phương tự quản, nên các cơ quan tự quản của địa
phương ngày càng trở thành một bộ phận của chính quyền hành pháp
2.Một số mô hình tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới
2.1 Mô hình chính quyền địa phương ở nước Anh
Đặc điểm rõ rệt của mô hình là trung ương không phải là cơ quan quản
lý cấp trên đối với địa phương, không điều khiển địa phương. Các cấp CQĐP
được độc lập, không có sự trực thuộc lẫn nhau. Trong phạm vi quyền hạn của
mình, các chính quyền đều có quyền tổ chức hoạt động chỉ phụ thuộc vào

2


pháp luật mà không phụ thuộc vào bất cứ một sự chỉ đạo nào của cấp trên.
Trong trường hợp có mâu thuẫn, tranh chấp hoặc có hiện tượng vi phạm pháp
luật sẽ chịu sự phân giải của toà án. Đây là mô hình dân chủ hơn cả, CQĐP có
khả năng và điều kiện phát huy được quyền chủ động của mình, không có sự
bảo trợ nào của chính quyền cấp trên, cũng như của cả chính quyền trung
ương. Trong trường hợp hãn hữu gặp khó khăn về tài chính, CQĐP được sự
trợ giúp của chính quyền trung ương. Một khi đã nhận sự trợ giúp về mặt kinh
tế của trung ương, ít nhiều CQĐP phải chịu sự chỉ đạo của chính quyền trung
ương. Trong trường hợp không chịu sự chỉ đạo của trung ương, thì lẽ đương
nhiên các khoản viện trợ kinh phí sẽ bị giảm bớt, thậm chí là cắt hẳn. Điều
đặc biệt ở CQĐP Anh quốc là có nơi chỉ có các cơ quan đại diện, mà không
có cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện các quyết định do cơ quan đại diện ban
hành kiểu như Ủy ban nhân dân của Việt Nam hiện nay. Hội đồng địa phương
vừa làm cả chức năng của Hội đồng nhân dân lẫn chức năng của Uỷ ban nhân
dân. Các hội đồng địa phương ở Anh thường thành lập rất nhiều các ban của
mình để quản lý và điều hành công việc. Chính vì vậy mà có học giả gọi
CQĐP ở nước này là “Nhà nước của các ban” hay “điều hành bằng các ban”.

2.2 Mô hình chính quyền đia phương ở Mỹ
Mô hình hành chính địa phương của Nhà nước Mỹ áp dụng nguyên tắc
phân quyền một cách đậm đặc nhất. Địa phương ở Mỹ quốc được toàn quyền
giải quyết các công việc của mình mà không cần thiết có sự bảo trợ từ trung
ương. Sự phục tùng trung ương, cũng như việc giám sát trung ương đối với
địa phương chủ yếu bằng pháp luật và thông qua hoạt động xét xử của toà án.
Việc phân quyền tuyệt đối được thể hiện trước hết bằng việc các địa phương
thoải mái trong việc lựa chọn các mô hình tổ chức và hoạt động của mình.
Hiện nay, nước Mỹ có tới 4 mô hình tổ chức: Hội đồng và Thị trưởng mạnh;
Hội đồng và thị trưởng yếu; Ban quản đốc cùng với Hội đồng do dân bầu ra;

3


và Uỷ ban và Hội đồng cùng do dân bầu ra.
Khi soạn thảo Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Mỹ đã không đả
động đến hệ thống chính quyền đa cấp và đa dạng này. Trong khi vẫn coi cơ
cấu quốc gia là quan trọng nhất, họ đã khôn khéo thừa nhận sự cần thiết của
một loạt các cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp hơn đến dân chủ và thích
ứng một cách nhạy bén hơn với các nhu cầu của họ. Do vậy, các chức năng
như quốc phòng, quản lý tiền tệ và các quan hệ đối ngoại, chỉ có thể kiểm soát
bằng một chính quyền mạnh. Nhưng những vấn đề khác, như hệ thống vệ
sinh, giáo dục và giao thông vận tải địa phương, thì chủ yếu thuộc phạm vi
quyền hạn của địa phương
2.3 Mô hình chính quyền địa phương ở Pháp
Mô hình này có đặc điểm là CQĐP bị song trùng giám sát của đại diện
chính quyền trung ương và của chính quyền cấp trên. Mô hình này được hình
thành, phát triển từ chế độ quân chủ chuyên chế. Thuở ban đầu của chế độ
phong kiến, CQĐP chỉ là các quan cai trị do Nhà Vua cử về địa phương nhằm
mục đích thực hiện hay giám sát sự thực hiện các quyết định của Nhà Vua, mà

không tính đến các điều kiện hoàn cảnh của địa phương, hoặc thậm chí cai trị
theo cách riêng của quan chức được cử về. Về sau, với sự đấu tranh dân chủ,
các lãnh đạo địa phương có được một số thẩm quyền nhất định cho việc giải
quyết các công việc của địa phương, trong đó có cả các việc có liên quan đến
đời sống của nhân dân địa phương, và cuối cùng, các quan chức được cử về
chỉ làm mỗi một chức năng giám sát việc thực hiện các quyết định của cấp
trên và các văn bản luật của trung ương, mà không còn có quyền hành như
trước đây nữa. Tại tất cả các tỉnh ở Pháp đều có Thị trưởng do Hội đồng thành
phố bầu cử và ở dưới quyền kiểm soát của các tỉnh trưởng. Thị trưởng vừa
chăm nom đến những quyền lợi địa phương vừa quan tâm đến những quyền
lợi của trung ương.

4


2.4 Mô hình chính quyền địa phương ở Cộng hoà Liên bang Đức.
Mô hình CQĐP Đức có đặc điểm giống của nước Pháp nhưng không có
cơ quan đại diện của chính quyền cấp trên xuống giám sát chính quyền cấp
dưới. Đây là một mô hình mà chính quyền liên bang phụ thuộc vào chính
quyền bang, chính quyền bang phụ thuộc vào CQĐP trong việc quản lý và
cung cấp các dịch vụ cho dân.
Điểm đặc trưng nhất của mô hình tổ chức chính quyền Đức là tính phân
quyền. Đây là hệ thống quyền lực được phân theo nguyên tắc: cái gì địa
phương làm tốt thì địa phương làm, trung ương chỉ làm những gì mà địa
phương làm không tốt hơn. Vấn đề quan trọng trong hệ thống của Đức là ở
đây phân rất rõ trách nhiệm của từng cấp, cấp này làm thì cấp kia không làm.
Và như vậy thì quyền của mỗi cấp mang tính chủ động và được phân cấp;
đồng thời được phân nhiệm vụ thì cũng được phân ngân sách, tức là cấp đó sẽ
có nguồn thu bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Đức là nước có
mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo kiểu liên bang, gồm có

chính quyền liên bang, 16 chính quyền bang (trong đó có ba bang là thành
phố là Berlin, Hamburg, Bremen) và CQĐP (có hai cấp CQĐP cấp cơ sở và
CQĐP cấp hạt). Ba cấp hành chính này độc lập với nhau. Theo Hiến pháp
Đức, CQĐP các cấp là một thực thể rất quan trọng trong hệ thống chính trị

5


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM
1 . Giới thiệu chung về việt Nam
Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất hình chữ S,
nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo Đông Dương,
phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía đông nam
trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3 260 km,
biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến điểm cực
Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang điểm cực
Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất 50km
(Quảng Bình).
Kinh tuyến:
102º08'-109º28'đông
Vĩ tuyến: 8º 02' - 23º 23' bắc
Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình
Dương.
2. Khái niệm về tổ chức chính quyền địa phương tại Việt Nam
Khái niệm chính quyền địa phương là một khái niệm được sử dụng
nhiều trong tổ chức và hoạt động của nhà nước vào đời sống thực tế xã hội,
tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào định nghĩa khái
niệm chính quyền địa phương bao gồm những thiết chế nào, mối quan hệ và
cơ chế hoạt động cụ thể của các bộ phận cấu thành. Xuất phát từ góc độ

nghiên cứu lý luận, tò góc độ thực tiễn hay cách thức tiếp cận vấn đề nghiên
cứu của các nhà khoa học, các nhà thực tiễn và quản lý tập trung vào 3 quan
niệm như sau:
a) Chính quyền địa phương là khái niệm dùng chung để chỉ tất cả các
cơ quan nhà nước (mang quyền lực nhà nước) đóng trên địa bàn địa phương

6


b) Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan - cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân)
c) Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng với
4 phân hệ cơ quan nhà nước tối cao ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Toà
án Nhân dân tối cao, Viện Kiếm sát nhân dân tối cao) là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các cấp), cơ quan hành chính nhà
nước
2.1. Khái niệm chính quyền địa phưong trong các văn kiện, văn
bản pháp luật:
Trong nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, khái niệm chính
quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của hai cơ quan
là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Nghị quyết lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) ngày 18 tháng 6 năm 1997 tại phần III,
mục 4 về tiếp tục cải cách hành chính nhà nước đối với chính quyền địa
phương chỉ đề cập tới việc kiện toàn củng cố Hội đồng nhân dân và Ưỷ ban
nhân dân các cấp và hướng cải cách tố chức và hoạt động của hai cơ quan này
mà không đề cập tới các cơ quan nhà nước khác trong hệ thống các cơ quan
nhà nước ở địa phương. Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp 2013 thì
chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội

đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông
thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định và căn
cứ Luật Tố chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 chính
quyền địa phương được tổ chức ở ba cấp tương ứng đối với các đơn vị hành
chính sau đây:
- Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh);

7


- Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện);
- Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã).
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân
địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương
do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và
việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội
đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
Ngoài ra, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông
báo tình hình của địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính
quyền và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân động viên Nhân dân cùng Nhà nước
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa phương.

3.Thực trạng tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam
3.1 . Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp Cấp xã:
Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, phường.
Ủy ban nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân
nhất ở Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã có từ 04 đến 05 thành viên, gồm
Chủ tịch, 02 Phó Chủ tịch, 01 Ủy viên quân sự và 01 Ủy viên công an. Người
đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân do do Hội

8


đồng nhân dân của xã, thị trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu
kín. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn hay phường sẽ đồng
thời là một Phó Bí thư Đảng ủy của xã, thị trấn hay phường đó.
Theo luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 thì được quy định
rõ ở
Điều 31. Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã
1. Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa
bàn xã.
2. Quyết định những vấn đề của xã trong phạm vi được phân quyền,
phân cấp theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên ủy quyền.
4. Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết
quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở xã.
5. Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã. Luật tổ
chức chính quyền dịa phương năm 2015 quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức

của hội đồng nhân dân gồm :
1. Hội đồng nhân dân xã gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri
ở xã bầu ra.
Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân xã được thực hiện
theo nguyên tắc sau đây:
a) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ một nghìn dân trở xuống
được bầu mười lăm đại biểu;
b) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên một nghìn dân đến hai

9


nghìn dân được bầu hai mươi đại biểu;
c) Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên hai nghìn dân đến ba nghìn
dân được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên ba nghìn dân thì cứ thêm một
nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi
lăm đại biểu;
d) Xã không thuộc quy định tại các điểm a, b và c khoản này có từ bốn
nghìn dân trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên bốn nghìn dân
thì cứ thêm hai nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không
quá ba mươi lăm đại biểu.
2. Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
xã là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
3. Hội đồng nhân dân xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.
Ban của Hội đồng nhân dân xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và
các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân xã do Hội
đồng nhân dân xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên
của các Ban của Hội đồng nhân dân xã hoạt động kiêm nhiệm.
Bộ máy giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp xã có các công chức: Tư

pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Tài chính – Kế toán, Văn phòng Thống kê, Văn hóa - Xã hội, Chỉ huy Trưởng quân sự, Trưởng công an.
3.2 . Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp Cấp huyện:
Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 được quốc hội khóa 13
thông qua tháng 6 năm 2015 quy định rõ ở nhiệm vụ và quyền hạn của chính
quyền địa phương cấp huyện được nêu ở Điều 24. Nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền địa phương ở huyện
1. Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa
bàn huyện.

10


2. Quyết định những vấn đề của huyện trong phạm vi được phân quyền,
phân cấp theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên
quan.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên ủy quyền.
4. Kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
cấp xã.
5. Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp tỉnh về kết quả
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở huyện.
6. Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn huyện.
Tại điều 25 luật tổ chức chính quyền địa phương có quy định rõ cơ cấu
tổ chức của hội đồng nhân dân cụ thể như sau :
1. Hội đồng nhân dân huyện gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử
tri ở huyện bầu ra.
Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân huyện được thực
hiện theo nguyên tắc sau đây:

a) Huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ bốn mươi nghìn dân trở
xuống được bầu ba mươi đại biểu; có trên bốn mươi nghìn dân thì cứ thêm
năm nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá bốn
mươi đại biểu;
b) Huyện không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có từ
tám mươi nghìn dân trở xuống được bầu ba mươi đại biểu; có trên tám mươi
nghìn dân thì cứ thêm mười nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng
tổng số không quá bốn mươi đại biểu;
c) Số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân ở huyện có từ ba mươi đơn vị

11


hành chính cấp xã trực thuộc trở lên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng
số không quá bốn mươi lăm đại biểu.
2. Thường trực Hội đồng nhân dân huyện gồm Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của
Hội đồng nhân dân huyện. Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện có thể là đại
biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân
dân huyện là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách.
3. Hội đồng nhân dân huyện thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã
hội; nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì thành lập Ban dân tộc. Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn, điều kiện thành lập Ban dân tộc
quy định tại khoản này.
Ban của Hội đồng nhân dân huyện gồm có Trưởng ban, một Phó
Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng
nhân dân huyện do Hội đồng nhân dân huyện quyết định. Trưởng ban của Hội
đồng nhân dân huyện có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên
trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân huyện là đại biểu Hội đồng

nhân dân hoạt động chuyên trách.
4. Các đại biểu Hội đồng nhân dân huyện được bầu ở một hoặc nhiều
đơn vị bầu cử hợp thành Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân. Số lượng Tổ đại biểu
Hội đồng nhân dân, Tổ trưởng và Tổ phó của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân
do Thường trực Hội đồng nhân dân huyện quyết định.
Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố
trực thuộc tỉnh, thị xã. Ủy ban nhân dân cấp huyện có từ 09 đến 13 thành
viên, gồm Chủ tịch, 02-03 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Thường trực Ủy ban
nhân dân cấp huyện gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký.
Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân,

12


trên danh nghĩa là do Hội đồng nhân dân huyện bầu ra. Thông thường, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy.
Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông
thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng UBND, Phòng Tài chính –
Kế hoạch, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên Môi trường, Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Văn hóa Thông tin, Phòng Y tế, Thanh tra huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Văn hóa thông tin,….. Một số cơ quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi
cục Thống kê, Huyện đội, Công an huyện, v.v... không phải là cơ quan của
chính quyền địa phương cấp huyện mà là cơ quan của chính quyền Trung
ương đặt tại huyện (đóng trên địa bàn huyện).
3. 3. Tổ chức chính quyền địa phương ở cấp tỉnh
Tại điều 17 luật tổ chức chính quyền địa phương quy định rõ nhiệm vụ
và quyền hạn của chính quyền địa phương cấp tỉnh
1. Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa
bàn tỉnh.
2. Quyết định những vấn đề của tỉnh trong phạm vi được phân quyền,
phân cấp theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên

quan.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước ở
trung ương ủy quyền.
4. Kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương
ở các đơn vị hành chính trên địa bàn.
5. Chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên về kết quả thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở tỉnh.
6. Phối hợp với các cơ quan nhà nước ở trung ương, các địa phương

13


thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, thực hiện quy hoạch vùng, bảo đảm tính thống
nhất của nền kinh tế quốc dân.
7. Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh.
Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực
thuộc Trung ương, được phap luật quy định cơ cấu tổ chức gồm Ủy ban nhân
dân có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư
ký và các ủy viên khác. Thường trực ủy ban Nhân dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch,
các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu chính quyền địa phương
cấp tỉnh là Chủ tịch úy ban Nhân dân. Trên danh nghĩa, vị trí này do Hội đồng
nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình thức bỏ phiếu. Giúp việc cho
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là các Sở, ngành tỉnh.Theo luật tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015 thì cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân được quy
định như sau :
1. Hội đồng nhân dân tỉnh gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử
tri ở tỉnh bầu ra.
Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh được thực hiện

theo nguyên tắc sau đây:
a) Tỉnh miền núi, vùng cao có từ năm trăm nghìn dân trở xuống được
bầu năm mươi đại biểu; có trên năm trăm nghìn dân thì cứ thêm ba mươi
nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá tám mươi
lăm đại biểu;
b) Tỉnh không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này có từ
một triệu dân trở xuống được bầu năm mươi đại biểu; có trên một triệu dân
thì cứ thêm năm mươi nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá chín mươi lăm đại biểu.

14


2. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh gồm Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các Ủy viên là Trưởng ban của Hội
đồng nhân dân và Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh. Chủ tịch Hội
đồng nhân dân tỉnh có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên
trách; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân
hoạt động chuyên trách.
3. Hội đồng nhân dân tỉnh thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - ngân
sách, Ban văn hóa - xã hội; nơi nào có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số thì
thành lập Ban dân tộc. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tiêu chuẩn, điều
kiện thành lập Ban dân tộc quy định tại khoản này.
Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh gồm có Trưởng ban, không quá hai
Phó Trưởng ban và các Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng
nhân dân tỉnh do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định. Trưởng ban của Hội
đồng nhân dân tỉnh có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên
trách; Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân
dân hoạt động chuyên trách.
4. Các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh được bầu ở một hoặc nhiều đơn

vị bầu cử hợp thành Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân. Số lượng Tổ đại biểu Hội
đồng nhân dân, Tổ trưởng và Tổ phó của Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân do
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định.
Về cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân được quy định như cụ thể như
Ủy ban nhân dân tỉnh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên.Ủy ban
nhân dân tỉnh loại I có không quá bốn Phó Chủ tịch; tỉnh loại II và loại III có
không quá ba Phó Chủ tịch.Ủy viên Ủy ban nhân dân tỉnh gồm các Ủy viên là
người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy viên
phụ trách quân sự, Ủy viên phụ trách công an.
4. VAI TRÒ VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC CHÍNH QUYÈN ĐỊA

15


PHƯƠNG VIỆT NAM
* Vai trò
Chính quyền địa phương ở Việt Nam có vai trò hai mặt. Một mặt, với
tư cách là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước thống nhất, chính
quyền địa phương thay mặt nhà nước tổ chức quyền lực, thực thi nhiệm vụ
quản lý trên lãnh thố địa phương trong cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất
trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, chính quyền địa phương lại là cơ quan do
nhân dân địa phương lập ra (trực tiếp và gián tiếp) để thực hiện các nhiệm vụ
ở địa phương nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân địa phương trên cơ sở các
quy định của Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Vai trò như vậy
của chính quyền địa phương được thể hiện tập trung về nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, của bộ
máy nhà nước nói chung. Trong đó, tập trung thống nhất là yếu tố có tính chủ
đạo. Tư tưởng cơ bản trong tố chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc
đó là vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất, vừa phát huy vai trò chủ động tích

cực của địa phương.
* Mô hình:
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương Việt Nam thể hiện trên hai
điểm cơ bản sau:
a) Mỗi đơn vị hành chính thành lập hai loại cơ quan là Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân.
b) Giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương và giữa
các cấp chính quyền địa phương không có tính độc lập cao, tuy rằng trong quá
trình cải cách bộ máy nhà nước đã đẩy mạnh việc phân cấp quản lý cho các
cấp chính quyền địa phương. Nguyên tắc cơ bản và hàng đầu trong tố chức và
hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương là tập trung dân chủ. Đây là

16


điểm rất đáng chú ý trong tổ chức chính quyền địa phương nước ta. Nó chứng
tỏ rằng, chính quyền địa phương Việt Nam không có “chủ quyền” trong việc
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Quy định ở Điều 7 của Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thể hiện rõ hơn này khi ghi nhận
trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ đến Uỷ ban nhân
dân cấp xã có sự chỉ đạo trong quản lý nhà nước từ trên xuống dưới. Đây
chính là điểm khác về bản chất so với chính quyền địa phương tự quản.
Do đó, có thế gọi là mô hình chính quyền địa phương nước ta là mô
hình chính quyền địa phương tập trung dân chủ.
Theo Tờ trình do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình trình bày
ngày 90 tháng 9 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, dự thảo Luật trình 2
phương án về mô hình tổ chức chính quyền địa phương.
Phương án 1 quy định HĐND và UBND được tổ chức ở các đơn vị
hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, đơn vị hành chính tương đương thuộc thành phố trực thuộc trung

ương, xã, thị trấn; ở quận, phường tổ chức UBND mà không tổ chức HĐND,
chức năng đại diện, giám sát, quyết định các vấn đề ở địa phương do HĐND
thành phố, thị xã đảm nhiệm.
Phương án 2 là HĐND, UBND được tổ chức ở các đơn vị hành chính
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, đơn vị hành chính tương đương thuộc thành phố trực thuộc trung ương,
xã, phường, thị trấn.

17


CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP ĐÓNG GÓP
NHẰM NẦNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TỔ CHỨC CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM
3.1. Một số ưu điểm:
- Từng bước sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn tổ chức, bộ máy theo hướng
tinh, gọn. số lượng đầu mối các bộ, ban, ngành giảm.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, lề lối làm việc được
quy định cụ thể hơn, đã có sự điều chỉnh, bổ sung hợp lý, phân định rõ ràng
hơn. Chức năng, nhiệm vụ các bộ, cơ quan ngang bộ tiếp tục được hoàn thiện,
khắc phục cơ bản sự trùng lắp, dẫm đạp; các bộ được tồ chức theo mô hình
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đã hoạt động ồn định, cơ chế phối hợp tốt hơn,
hiệu lực, hiệu quả được nâng lên, phân biệt rõ hơn chức năng quản lý nhà
nứơc và quản lý sản xuất kinh doanh, tách dần hoạt động hành chính với hoạt
động các đơn vị kinh tế, sự nghiệp và dịch vụ công.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung được nâng lên một
bước về trình độ lý luận chính trị, học vấn ,chuyên môn nghiệp vụ. Đa số cán
bộ công chức giữ gìn phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống, thích ứng dần
với cơ chế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Những tiến bộ đó đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
3.2 Một số tồn tại trong tổ chức, hoạt động của chính quyền địa
phương Việt Nam
Mô hình tổ chức bộ máy, hệ thống luật pháp chưa phân định thật rõ
chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, chưa phản ánh hết đặc điểm
của chính quyền đô thị, nhất là các đô thị lớn, kinh tế - văn hoá – xã hội phát

18


triển nhanh. Việc xác định chức năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và chức năng quản lý nhà nước, quản lý
của chủ sở hữu của các bộ, các địa phương còn nhận thức khác nhau, có nhiều
sơ hở, hiệu quả thấp.
Mục tiêu tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu, biên chế một số bộ máy
vẫn có xu hướng tăng lên nhưng chất lượng cán bộ vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu. Việc đào tạo theo chức danh cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế;
cơ cấu và chất lượng cán bộ, công chức còn bất cập. Một bộ phận cán bộ,
công chức yếu kém về tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ nhân dân.
Thực hiện chủ trương phát huy dân chủ, đẩy mạnh phân cấp cho các
cấp chính quyền địa phương, các văn bản pháp luật liên quan đến chính quyền
địa phương được ban hành những năm vừa qua đã quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan chính quyền địa phương ở mỗi cấp.
Những giải pháp cụ thể của Luật như tăng cường cơ cấu tổ chức của
HĐND hay giảm số thành viên của UBND cấp xã, tăng cường chức năng
giám sát của HĐND hay tăng cường nguyên tắc tập thể trong hoạt động của
UBND... “không đủ tầm để đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương”. Vì thực tế, HĐND hoặc không sử dụng hết quyền năng của mình,
các kỳ họp chính thức, hiệu quả giám sát, thảo luận không cao hoặc có xu

hướng “vượt rào” muốn giao nhiều thẩm quyền hơn song lại không thực sự
kiểm soát được UBND một cách chặt chẽ.
Nhìn tổng thể, cho đến nay, Việt Nam vẫn đang áp dụng mô hình chính
quyền địa phương là “cánh tay nối dài” của nhà nước trung ương. Mô hình
này bảo đảm được tính thống nhất cao độ nhưng không thực sự phát huy được
tính sáng tạo, chủ động của địa phương.

19


3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phương thức hoạt động
3.3.1 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của
chính quyền địa phương
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của chính quyền địa phương (tổ chức thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước...) nâng cao
năng lực, hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương có ý nghĩa nâng cao
vai trò của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước nói chung.
- Do yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
- Do yêu cầu thực hiện dân chủ
- Do yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
- Do yêu cầu mở rộng hội nhập quốc té
- Xuất phát từ thực trạng năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
chính quyền địa phương
+ chức năng nhiệm vụ
+ Cơ cấu tổ chức
+ Đội ngũ cán bộ, công chức (năng lực, phẩm chất)
+ phương thức hoạt động
Nhìn chung, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương còn ảnh
hưởng nặng mô hình hành chính truyền thống, nặng tính tập trung quan liêu,
hiệu lực, hiệu quả thấp

3.3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả, đổi mới phưong thức hoạt động
Hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương là kết quả quản lý đạt
được của chính quyền địa phương trong sự tương quan với mức độ chi phí các
nguồn lực, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội.
Hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương thể hiện ở các mặt
sau:

20


- Đạt mục tiêu tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định.
- Đạt mục tiêu nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu
- Đạt được mục tiêu không chỉ trong quan hệ với chi phí nguồn lực (tài
chính, phương tiện, nhân lực) mà còn trong quan hệ với hiệu quả xã hội, hiệu
quả chính trị)
Giữa năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phương có quan hệ với nhau. Hoạt động quản lý trước hết phải đề cao hiệu
lực, phải đảm bảo đạt hiệu lực. Mặt khác phải coi trọng hiệu quả. Hiệu lực,
hiệu quả đó được quyết định bởi năng lực.
- Mô hình tổ chức chính quyền địa phương của nước ta hiện nay được tổ
chức theo nguyên tắc nào trong các mối quan hệ: giữa chính quyền trung ương
với chính quyền địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau,
giữa Ủy ban nhân dân với Hội đồng nhân dân cùng cấp và với cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên (đối với cấp tỉnh là với Chính phủ) vẫn chưa được giải
quyết về lý luận và thực tiễn. Theo Điều 8 Hiến pháp năm 2013 xác định thì
Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã
hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội
bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng
các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban

nhân dân lại thể hiện rõ tính tập trung về trung ương, về cấp trên. Thực tế là
trung ương và cấp trên không thể nắm, không thể quản được địa phương. Còn
địa phương và cấp dưới cũng không có được quyền chủ động, phát huy sự sáng
tạo, năng động trong việc giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc của mình
nên phải “xé rào” như một số địa phương đã làm trong thời gian vừa qua. Cần
nghiên cứu để giải quyết triệt để vấn đề này. Do đó, cần thực hiện phân cấp cho
chính quyền địa phương cần đồng bộ, thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm,

21


phân cấp nhưng vẫn phải đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất của chính
quyền Trung ương, phân cấp đi đôi với việc tăng cường kiểm tra, giám sát của
trung ương, với việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính
quyền địa phương.
- Cần có sự phân biệt Chính quyền địa phương giữa các vùng lãnh thổ,
nghiên cứu và giải quyết dứt điểm mô hình tổ chức chính quyền ở địa bàn
nông thôn và đô thị, chứ không thể tổ chức như nhau trong khi giữa hai địa
bàn này có nhiều khác nhau về điều kiện kinh tế, địa lý, dân cư, kết cấu hạ
tầng, nhất là thành phố trực thuộc trung ương còn có vị trí, vai trò của một
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học v.v.., có ảnh hưởng đối với cả
một vùng, cũng như đối với cả nước. Mạnh dạn phân cấp, phát huy vai trò
quyết định và khả năng chịu trách nhiệm trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội,
nguồn lực, ngân sách, biên chế cho chính quyền địa phương; giao đủ thẩm
quyền và tạo cơ chế bảo đảm thực quyền của HĐND các cấp nhưng đồng thời
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
- Việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ ở nước ta những năm vừa
qua chưa được giải quyết thoả đáng về lý luận và thực tế. Vì thế nên mới có
chuyện khi thì ồ ạt sáp nhập tỉnh (năm 1980 cả nước có 36 tỉnh, ba thành phố
trực thuộc trung ương và một đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo) để rồi sau đó lần

lượt chia tách tỉnh trả lại gần như trước khi nhập tỉnh. Việc xác định vị trí,
tính chất và vai trò của từng loại đơn vị hành chính cũng là vấn đề rất quan
trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức hợp lý các cấp chính quyền
địa phương. Cuối những năm 1970 đến giữa những năm 1980 chúng ta đã có
chủ trương không đúng khi xác định huyện là địa bàn chiến lược nên đã ban
hành một loạt văn bản về xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, trong khi
đơn vị hành chính này một thời gian dài chỉ là “cấp trung gian”. Do không
xác định đúng các đơn vị hành chính nên chúng ta không giải quyết được vấn

22


đề tổ chức mấy cấp chính quyền ở tỉnh, mấy cấp ở thành phố, cấp nào có Hội
đồng nhân dân, còn cấp nào chỉ có Ủy ban nhân dân. Đây là vấn đề được thảo
luận nhiều từ khi soạn thảo Hiến pháp 1992 đến nay vẫn chưa giải quyết
xong, tương tự Hiến pháp 1992 thì Hiến pháp 2013 không quy định về vấn đề
rất quan trọng này mà dành cho Luật quy định.
Cần nghiên cứu, quy định thêm một cấp đơn vị hành chính có tính chất
vùng hoặc miền gồm một số tỉnh, thành phố để tổ chức bộ máy hành chính gọn
nhẹ nhưng có thẩm quyền cụ thể, đại diện cho Chính phủ để kịp thời chỉ đạo và
kiểm soát hoạt động chính quyền địa phương (như mô hình của ba Ban Chỉ đạo
Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ). Trên thế giới, ở các nhà nước đơn nhất
cũng có đơn vị hành chính này, như Pháp, Italia... cũng có đơn vị hành chính
vùng, có chính quyền cấp vùng để đại diện cho Chính phủ.
- Nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản mới, sửa đổi, bổ sung
các văn bản pháp luật hiện hành bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, nhất là
các nội dung liên quan đến thẩm quyền quyết định của HĐND và UBND, tạo
điều kiện thuận lợi để HĐND, UBND thực thi đầy đủ chức năng, nhiệm vụ,
đạt chất lượng cao và có hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, đẩy mạnh kiện toàn cơ
quan Thường trực HĐND và các Ban của HĐND ở cả ba cấp để bảo đảm đủ

về số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động; bố trí Trưởng ban, Phó Trưởng
ban HĐND cấp tỉnh và Trưởng ban HĐND cấp huyện hoạt động chuyên
trách.
- Đối mới, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước địa phương nói riêng
và bộ máy hành chính nói chung không chỉ là vẩn đề cơ cấu tố chức bộ máy,
mà còn là cơ chế hoạt động chế độ trách nhiệm, lề lối làm việc, các mối quan
hệ trên dưới, ngang dọc, đặc biệt hiện nay là tính công khai minh bạch, đảm
bảo chính quyền trong sạch. Có lẽ không một lĩnh vực nào mà bệnh quan liêu
hoá, lạm quyền lực có nhiều nguy cơ xuất hiện và phát triển như trong lĩnh

23


×