Đề bài: Vai trò của đầu tư đối với sự hình thành và phát triển
doanh nghiệp và sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Có thể vận dụng lý thuyết nào để tăng cường hoạt động đầu tư
trong nền kinh tế Việt Nam.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia. Để thực
hiện và duy trì được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và
những bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên dù là quốc gia nào
cũng phải trả lời câu hỏi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế ở đâu và
cách thức để huy động những nguồn lực ấy như thế nào?. Thật vậy, trong xu
thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được mỗi
nền kinh tế đều phải phát huy nội lực trong nước kết hợp với các nguồn lực
bên ngoài. Thực tiễn 15 năm đổi mới kinh tế ở Việt Nam cho thấy hoạt động
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi ln phải song hành và hoạt động vì
mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế.
I. VAI TRỊ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
1.
Vai trị của đầu tư đối với sự hình thành và phát triển
doanh nghiệp
Đầu tư là hoạt động chủ yếu, quyết định sự phát triển và khả năng
tăng trưởng của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư, doanh nghiệp bỏ vốn
dài hạn nhằm hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để thực hiện
những mục tiêu kinh doanh. Hoạt động này được thực hiện tập trung thông
qua việc thực hiện các dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các
mục tiêu, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt tới một trạng thái mong
muốn. Nội dung của dự án đầu tư được thể hiện trong luận chứng kinh tế –
kỹ thuật, là văn bản phản ánh trung thực, chính xác về kết quả nghiên cứu thị
trường, môi trường kinh tế – kỹ thuật và mơi trường pháp lý, về tình hình tài
chính…
Để đáp ứng mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, doanh
nghiệp cần có chiến lược trong việc tìm kiếm và lựa chọn các dự án đầu tư.
Nếu khơng có những ý tưởng mới và dự án đầu tư mới, doanh nghiệp sẽ
không thể tồn tại và phát triển được, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh
khốc liệt hiện nay. Các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi
hỏi phải nghiên cứu kỹ thị trường và có những hoạt động đầu tư thích hợp
nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục đích của mỗi doanh nghiệp nhằm phát triển sản phẩm
mới, kéo dài tuổi thọ sản phẩm hay làm tăng khả năng thu lợi cho sản phẩm
hiện có mà có thể phân loại đầu tư doanh nghiệp theo những tiêu thức khác
nhau. Theo cơ cấu tài sản đầu tư có thể phân loại đầu tư của doanh nghiệp
thành:
Đầu tư tài sản cố định, đây là các hoạt động đầu tư nhằm mua sắm, cải
tạo, mở rộng tài sản cố định của doanh nghiệp. Đầu tư tài sản cố định
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp sản xuất. Loại đầu tư này bao gồm: đầu tư xây lắp; đầu tư mua
sắm máy móc thiết bị, đầu tư tài sản cố định khác.
Đầu tư tài sản lưu động, đây là khoản đầu tư nhằm hình thành các tài
sản lưu động cần thiết để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp được tiến hành bình thường. Nhu cầu đầu tư vào tài sản
lưu động phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh; vào
nhu cầu tăng trưởng của doanh nghiệp.
Đầu tư tài sản tài chính, các doanh nghiệp có thể mua cổ phiếu, trái
phiếu, hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác. Hoạt
động tài chính ngày càng có tỷ trọng cao và mang lại nhiều lợi ích cho các
doanh nghiệp.
Đầu tư theo cơ cấu tài sản đầu tư giúp cho các doanh nghiệp xây dựng
được một kết cấu tài sản thích hợp nhằm đa dạng hoá đầu tư, tận dụng được
năng lực sản xuất và năng lực hoạt động, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt
động đầu tư.
Có thể căn cứ vào mục đích đầu tư có thể phân loại đầu tư ra thành:
đầu tư tăng năng lực sản xuất, đầu tư đổi mới sản phẩm, đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm, đầu tư mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm…Hoạt
động đầu tư phân theo mục đích đầu tư có vai trị định hướng cho các nhà
quản trị doanh nghiệp xác định hướng đầu tư và kiểm sốt được tình hình
đầu tư theo những mục tiêu đã chọn.
Như vậy, có thể nói hoạt động đầu tư là một trong những quyết định
có ý nghĩa chiến lược đối với doanh nghiệp. Đây là quyết định tài trợ dài
hạn, có tác động lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Những sai lầm trong việc dự tốn vốn đầu tư có thể dẫn đến tình trạng lãng
phí vốn lớn, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp. Hoạt
động đầu tư có vai trị rất quan trọng trong q trình hình thành và phát triển
của doanh nghiệp đòi hỏi các quyết định đầu tư phải được tính tốn và cân
nhắc kỹ lưỡng.
2. Vai trò của đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Hoạt động đầu tư trên phương diện vĩ mô một nền kinh tế bao gồm
hoạt động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngồi. Trong đó, hoạt
động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ với
nhau, chúng có tác động lẫn nhau và thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền
kinh tế.
Đầu tư trong nước có hiệu quả sẽ xây dựng được một nền kinh tế ổn
định có tốc độ tăng trưởng nhanh, có cơ sở hạ tầng hiện đại và cơ sở pháp lý
lành mạnh, tạo ra tiền đề để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước
ngoài. Nguồn vốn đầu tư trong nước của các doanh nghiệp tự đầu tư để mở
rộng sản xuất kinh doanh có ý nghĩa to lớn trong việc tạo ra khả năng tốt cho
đầu tư nước ngồi. Vì hoạt động đầu tư nước ngồi hoạt động chủ yếu thơng
qua các công ty xuyên quốc gia, mà các công ty này rất cần tìm chọn đối tác
đầu tư là các công ty tương xứng ở các nước nhận đầu tư. Chính vì vậy mà
trong những năm vừa qua chúng ta đã có nhiều biện pháp khuyến khích các
doanh nghiệp tự đầu tư phát triển sản xuất, gần đây chính phủ đã thực hiện
việc xắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, một mặt cũng là để các doanh
nghiệp này có khả năng nâng cao hiệu quả kinh doanh với nước ngoài.
Nhờ có đầu tư trong nước để tạo ra một hệ thống cơng ngiệp phụ trợ
thì hoạt động đầu tư nước ngồi mới được thực hiện với hiệu quả cao.
Thơng thường khi có một đồng vốn đầu tư nước ngồi thì cũng cần phải có
hai ba đồng vốn “bên ngồi hàng rào”.
Ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài với tăng trưởng kinh tế:
Xét về hiệu quả tài chính thì vốn đầu tư nước ngồi đã đóng góp đáng
kể vào ngân sách nhà nước, qua việc nhận viện trợ, vay tín dụng và qua thu
thuế đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI). Qua đó bổ sung nguồn vốn
quan trọng cho đầu tư phát triển, mặc dù vốn FDI thường chiếm tỷ trọng
không lớn trong tổng mức đầu tư của các nước chủ nhà nhưng đáng lưu ý là
vốn FDI cho phép tạo ra các ngành mới hoàn toàn hoặc thúc đẩy sự phát
triển của một số ngành quan trọng trong quá trình cơng nghiệp hố đất nước.
Sự phát triển của các ngành này tạo điều kiện để phát triển cơ sở hạ tần,
giảm nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu, tăng thu cho ngân sách nhà nước và
góp phần cải thiện cán cân thanh tốn của đất nước, nhờ đó đảm bảo tăng
trưởng kinh tế.
Hoạt động đầu tư nước ngoài gắn liền với việc chuyển giao công
nghệ kỹ thuật, kỹ xảo chuyên mơn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến.
Các liên doanh của Việt Nam với nước ngoài đã làm tăng tính cạnh tranh
của thị trường Việt Nam, giúp cho các doanh nghiệp trong nước nỗ lực đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nguồn lực trong nước
như lao động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên được huy động ở mức cao và
sử dụng có hiệu quả, cung cấp cho thị trường trong nước nhiều sản phẩm,
mặt hàng và dịch vụ có chất lượng cao, góp phần giảm áp lực tiêu dùng, ổn
định giá cả.
Đầu tư nước ngoài tạo thêm việc làm và góp phần nâng cao trình độ
chun môn và quản ký cho người lao động. FDI tạo thêm việc làm khơng
chỉ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi mà cịn gián tiếp tạo
việc làm cho các doanh nghiệp liên quan đến hoạt động FDI như các doanh
nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào; doanh nghiệp phân phối, tiêu thụ sản
phẩm.
FDI góp phần tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phù hợp với chiến
lược cơng nghiệp hố của nước chủ nhà. Ngồi ra, hoạt động FDI cịn tạo ra
một mơi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt, góp phần hình thành và
khẳng định bản lĩnh kinh doanh cho các doanh nhân Việt Nam.
Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngồi có vị trí khác nhau nhưng là
hai bộ phận của cùng một q trình đầu tư, nó gắn bó đan kết với nhau, hỗ
trợ bổ sung cho nhau cùng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
II. ỨNG DỤNG MỘT SỐ LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ NHẰM TĂNG CƯỜNG
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Lý thuyết q về đầu tư với chính sách tiền tệ và chính sách phát
triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Theo lý thuyết trên đã chỉ ra:
q= Giá trị thị trường của thiết bị lắp đặt/ Chi phí thay thế thiết bị lắp đặt
q>1 tức là: với mức đánh giá trên thị trường lớn hơn giá trị thực tế của cơng
cuộc đầu tư thì người ta sẽ đầu tư mở rộng sản xuất. Chính sách tiền tệ ở đây
có tác động ở chỗ: khi giảm i tức là giảm chi phí đầu vào khi gia tăng qui mơ
sản xuất, từ đó sẽ khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư theo chiều sâu
hay tăng theo chiều rộng. Thông qua lý thuyết này các nhà đầu tư đã phát
hiện ra một phương thức huy động vốn lớn qua thị trường chứng khoán ở
Việt Nam, thị trường này đã được hình thành và phát triển song rất còn non
trẻ. Chủ thể phát hành rất đa dạng: từ chính phủ Trung ương, chính quyền
địa phương, một số tổ chức tài chính, cơng ty TNHH, cơng ty cổ phần... Các
chứng khoán được lưu hành rộng rãi trên thị trường cũng rất phong phú như
các trái phiếu, cổ phiếu, các loại chứng khoán tái sinh... Giá trị thị trường
của doanh nghiệp là tổng số giá trị thị trường của các cổ phiếu thường, cổ
phiếu ưu đãi cũng như giá trị vay nợ thuần của doanh nghiệp. Nếu con số
này càng tăng nghĩa là doanh nghiệp càng huy động được nhiều vốn, có uy
tín trên thị trường và có khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Nhiệm vụ của
các công ty này là làm sao sản xuất kinh doanh có hiệu quả tạo lập được
niềm tin với các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.
Trong nền kinh tế thị trường, huy đông vốn thông qua TTCK được coi
là một phương thức khá hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Bởi vậy không
chỉ các nước phát triển mà ngay cả các nước đang phát triển các doanh
nghiệp được tạo nhiều thuận lợi được tiếp cận với các hoạt động trên TTCK.
Chính phương pháp tạo vốn này làm cho hoạt đông trên TTCK trở lên sôi
động hơn và hiệu quả hơn. Đến lượt mình TTCK sơi động và hiệu quả sẽ tác
động tích cực tới việc tạo vốn cho DN.
VN hiện nay hướng tạo vốn cho các DN đặc biệt là các DN vừa và
nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay là chủ đề đang được quan tâm
trong các nhà quản lý DN mà còn thu hút sư quan tâm của các cơ quan nhà
nước, các bộ ngành, các địa phương và của các nhà nghiên cứu. Vì lẽ đó rất
nhiều cơng trình nghiên cứu nhiều dự án về hình thức cung ứng vốn cho DN
được thiết lập và thực hiện. Một trong những vấn đề quan tâm đó" tạo vốn
cho các doanh nghiệp thơng qua TTCK". Thực tế cho thấy, trong thời gian
qua các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các DN nhỏ và vừa đã quen với hình
thức huy động truyền thống, các DN hầu như chưa tiếp cận được với TTCK
mặc dù họ cũng có khơng ít những cố gắng. Có thể khái qt lại những công
việc đã được triển khai thực hiện trong thời gian qua theo hướng tạo tạo vốn
cho các DN thơng qua TTCK trên một số khía cạnh sau. Rõ ràng là muốn
cho các DN tìm kiếm được nguồn vốn huy động từ TTCK thì điều đầu tiên
phải có được TTCK, nơi các DN có thể nhận được tiền từ nhà đầu tư. Tuy
nhiên, từ thực tế hoạt động của TTGDCK TP HCM cho thấy: Sau hơn 2 năm
hoạt động hiện nay đã có 22 cơng ty tham gia niêm yết cổ phiéu trên thị
trường GDCK TP HCM . Từ một khía cạnh nào đó 22 cơng ty niêm yết có
thể được xem như một bước thành công đáng kể của TTCK Việt Nam.
Nhưng con số đó cịn q nhỏ so với số lượng DN hiện có. Vậy nguyên nhân
do đâu mà các DN chưa tam gia nhiều vàoTTCK, đó là:
Thứ nhất: là về điều kiện phát hành trái phiếu cổ phiếu, phải tạo một
sân chơi lành mạnh công khai nhưng với các điều kiện khắt khe, nhiều công
ty chưa đủ điều kiện tham gia.
Thứ hai: Trong tiến trình cổ phần hoá DN nhà nước đang ở mức chậm
do nhiều ngun nhân như tâm lý quản lí...
Thứ ba: Có thể là bản thân các DN chưa muốn tham gia TTCK là do
một số ngun nhân: ban lãnh đạo khơng có khả năng thiết lập đầy đủ hồ sơ
để chứng minh sự minh bạch, và ăn nên làm ra của DN để tạo niềm tin cho
các nhà đầu tư, ban lãnh đạo cũng khơng muốn chia sẻ lợi ích tạo ra của
doanh nghiệp cho nhiều người. Vì vậy vấn đề đặt ra là phải phổ cập kiến
thức về TTCK để hoạt động trên thị trường này càng phát triển và sôi động
hơn.
Cơng cụ thuế ở đây cũng có tác động rất lớn: thuế đánh vào các dòng
chảy tư bản cũng tác động trực tiếp tới hoạt động của thị trường chứng
khoán. Thuế thu nhập doanh nghiệp mà cao với mức rủi ro lớn như vậy thì
cũng dẫn đến tình trạng nhà đầu tư ngại ngần khơng tham gia thị trường
chứng khốn, thà gửi vào ngân hàng với lãi suất thấp ít rủi ro còn hơn là mất
nhiều khi rủi ro trong đầu tư chứng khoán xảy ra. Cho nên đánh thuế thấp
vào các dòng chảy tư bản cũng là một biện pháp khuyến khích đầu tư phát
triển thị trường chứng khốn.
2 . Lý thuyết gia tốc về đầu tư với vấn đề huy động vốn để tăng
trưởng kinh tế ở nước ta
Lý thuyết này nói rằng cần phải có một lượng vốn nhất định để sản
xuất ra một lượng sản phẩm đầu ra cho trước. Nếu như sản lượng tăng thì
cũng cần phải có lượng vốn tăng. Tổng khơng thay đổi thì các hãng cũng
khơng có động lực gì để mở rộng quy mô sản xuất nhưng tổng đầu tư vẫn là
một số dương bởi các hàng cũng phải thay thế máy móc, thiết bị đã sử dụng.
Nhìn ở khía cạnh khác thì lí thuyết này cũng có một số điểm hạn chế như:
chỉ xem xét yếu tố vốn có tác động đến sản lượng còn các yếu tố như: thu
nhập, khoa học kỹ thuật, ngân sách cận biên giảm dần khi sử dụng một yếu
tố đầu vào...
Trong trạng thái nền kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, lao động dư
thừa; nếu có nhu cầu lao động tăng lên thi có thể sử dụng số lao động dư
thừa hay làm tăng quy mô sản lượng. Tất nhiên, năng suất lao động lao động
sẽ không cao được bằng nếu ta dùng máy móc thiết bị hiện đại. Tình hình
thu hút vốn của các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng cịn
nhiều hạn chế do có nhiều nguyên nhân khác nhau: Do sự yếu kém về cơ sở
hạ tầng, vật chất kỹ thuật. Ngoài ra, cơ chế phân bố vốn đầu tư trong xây
dựng cơ bản còn có nhiều thất thốt. Máy móc dây tryền cơng nghệ nhập
ngoại nhưng chỉ là phần cứng không khai thác sử dụng hết chức năng máy
móc đó gây lãng phí rất lớn. Vì thế ở đây có thể chỉ ra một nhược điểm rất
lớn từ lý thuyết này: Đó là năng lực sử dụng đồng vốn ở mức độ như thế
nào. Nếu năng lực của đồng vốn chưa được sử dụng hết mà có sự gia tăng
của nhu cầu đó thì có thể tận dụng hết mà nếu có sự gia tăng của cầu thì có
thể tận dụng hết năng lực của đồng vốn đầu tư sẵn có chứ khơng cần phải
tăng thêm vốn. Ở đây muốn nhấn mạnh đến tính hiệu quả trên một đồng vốn
được sử dụng. Hàng năm, nguồn vốn từ nước ngoài chảy vào chiếm trên
dưới 30% còn lại 70% là thu hút từ nguồn trong nước. Tiềm năng thu hút
vốn cịn có khả năng tăng song việc sử dụng vốn cịn gây nhiều lãng phí sử
dụng chưa hiệu quả; gánh nặng nợ nần chồng chất làm giảm lòng tin của các
nhà tài trợ.
Theo lý thuyết này tổng chi phí tăng làm cho sản lượng đầu ra tăng
lên do đó khối lượng vốn của nền kinh tế tăng lên, do đó chính sách tiền tệ
cũng là một chính sách khá căn bản tác động đến cầu đầu tư. Lãi suất giảm
làm cầu đầu tư tăng lên, DN sẽ mở rộng sản suất tăng qui mơ. Vì vậy mấu
chốt ở đây là kích cầu làm tăng sản lượng. Chính sách này đi vào hai hướng
căn bản là cầu đầu tư và cầu tiêu dùng: Nhà nước hàng năm bỏ ra một lượng
vốn rất lớn vào việc xây dựng hạ tầng nền kinh tế, phát triển đồng đều giữa
các ngành, các vùng trong cả nước, có nhiều chính sách gọi vốn đầu tư nước
ngồi như chính sách ưu đãi về thuế, tạo một môi trường kinh doanh ổn
định, cũng như ưu đãi về hoạt động tín dụng cho vay...
3. Lý thuyết tân cổ điển về đầu tư với hoạt động đầu tư ở Việt
Nam
Theo lý thuyết này thì đầu tư sẽ phụ thuộc vào sản lượng đầu ra và giá
tương đối của dịch vụ vốn với giá cả của sản lượng đầu ra. Lãi suất và chính
sách thuế thu nhập được xem như là giá cả của các dịch vụ vốn. Nếu như để
mức lãi suất quá cao hoặc đánh thuế thu nhập quá cao khiến cho chi phí của
dịch vụ vốn tăng lên đáng kể. Nhà đầu tư sẽ thu hẹp đầu tư trong khi giá cả
của sản lượng đầu ra khơng thể tăng một cách tùy ý vì như thế sẽ không tiêu
thụ được. Hiện nay, trong sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố, Việt
Nam đã có bước chuyển biến mới trong cơ chế vay và cho vay của hệ thống
ngân hàng. Từ chỗ đầu tư cố định chuyển sang đầu tư thoả thuận với một
khối lượng lớn; điều kiện cho vay để đầu tư cũng có phần thơng thoáng hơn.
Tất nhiên cũng phải đảm bảo những yếu tố nhất định để hạn chế tối đa rủi ro
tín dụng. Với mức thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay có nhiều ý kiến cho
rằng hơi cao. Tuy rằng nó tạo nên một khoản thu rất lớn cho ngân sách nhà
nước song bên cạnh đó nó cũng tạo ra khơng ít những kẽ hở trốn thuế, lậu
thuế. Vậy nên chăng nhà nước có thể xem xét đối chiếu mức thuế này sao
cho có sự cơng bằng giữa những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và
các doanh nghiệp trong nước, tạo một mơi trường kinh doanh bình đẳng;
nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các doanh nghiệp
trong nước có nhiều cơ hội song những thách thức đến với họ cũng không
phải là nhỏ. Bên cạnh sự cố gắng của các doanh nghiệp trong việc nâng cao
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành cạnh tranh, Nhà nước cũng phải có các
chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư bước đầu tạo tiềm lực cho các doanh
nghiệp trong nước. Cũng đồng nghĩa với việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn và tiến hành cải cách cơ chế cho vay của nhà nước; dần tạo nên tính
năng động, tự chủ của các doanh nghiệp.
Đối với một doanh nghiệp, đơn vị thực hiện đầu tư, nguồn hình thành
vốn bao giờ cũng gồm hai phần nguồn cơ bản: vay nợ và vốn chủ sở hữu.
Trong đó đầu tư từ quỹ nội bộ (hay vốn chủ sở hữu) đảm bảo tính an tồn
nhất trong đầu tư. Nguồn này được hình thành chủ yếu từ lợi nhuận để lại
của doanh nghiệp. Do vậy chính sách thuế ảnh hưởng rất lớn đến đầu tư.
Thuế không những là nguồn thu chủ yếu trong thu ngân sách nhà nước mà
còn là một công cụ quan trọng, hữu hiệu được Nhà nước sử dụng để điều tiết
vĩ mô nền kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Thuế khuyến khích
cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thuế làm tăng thu ngân
sách, kích thích phát triển sản xuất. Hai mục tiêu này dường như mâu thuẫn
nhau nhưng nếu điều hoà tốt mối quan hệ giữa hai mục tiêu này sẽ làm hành
lang hoạt động, sáng tạo của thuế. Do đó, điều tiết các mức thuế phù hợp
trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Giảm
thuế, doanh nghiệp và người dân có thêm vốn phát triển sản xuất, kinh
doanh. Việc giảm thuế khơng làm tăng tích tụ vốn ở doanh nghiệp và người
dân dẫn đến tăng khả năng tái đầu tư mở rộng sản xuất. Từ đó thu nhập của
các doanh nghiệp và người dân tăng lên, nộp thuế cho nhà nước nhiều hơn.
Đồng thời giảm thích cịn kích thích ra đời hàng loạt doanh nghiệp dân
doanh. Hiện đang còn tồn tại một lượng tiền rất lớn trong khu vực dân cư
dưới dạng tiền tiết kiệm tại ngân hàng; tích trữ đồng ngoại tệ, vàng, đầu tư
vào bất động sản mà chưa được khai thác. Tóm lại giảm thuế sẽ kích thích
sản xuất phát triển, tạo ra nhiều việc làm mới dẫn đến tạo ra cầu mới, đến
lượt có cầu sẽ kích thích cung và cuối cùng nguồn thu ngân sách nhà nước
vẫn đảm bảo, nếu khơng muốn nói là tăng lên cùng với sự phát triển của sản
xuất và tiêu dùng. Ngân sách nhà nước tăng sẽ có điều kiện chi cho đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất phát triển và các cơng trình phúc
lợi khác, tức là tăng đầu tư chính sách thuế ở mức độ vừa phải sẽ kích thích
đối tượng chịu thuế tìm cách quản lý kinh doanh hiệu quả, tăng khả năng
sinh lời của đồng vốn để có tiền nộp thuế mà vẫn giữ lại một phần lợi nhuận
cho mình. Tuy nhiên, trong lúc tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang chững lại,
lợi nhuận của cá nhân và doanh nghiệp bị giảm sút nếu khơng giảm thuế sẽ
khơng kích thích doanh nghiệp mở mang sản xuất kinh doanh, thu ngân sách
nhà nước sẽ giảm. Những lúc như thế chính phủ phải có chính sách thuế và
chi tiêu sao cho có thể hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Vậy để
chính sách thuế, chi tiêu thực sự trở thành các cơng cụ hữu hiệu để kích
thích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước ta phải đưa ra các chính sách thuế và chi tiêu hợp lý trong từng
giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất nước.
Như vậy, việc vận dụng một cách linh hoạt một số lý thuyết về đầu tư
vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam có thể giúp hoạt động đầu tư có
hiệu quả; góp phần tích cực vào q trình phát triển của doanh nghiệp và cả
nền kinh tế nói chung.