Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

LVTS 2014 pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.41 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

BÙI THỊ PHƢƠNG THẢO

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2014


[

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----o0o-----

BÙI THỊ PHƢƠNG THẢO

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến

Hà Nội – 2014


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Bùi Thị Phƣơng Thảo


MỤC LỤC
Danh mục từ ngữ viết tắt
Mục lục
Lời cam đoan
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÕI NỢ, KINH DOANH

DỊCH VỤ ĐÕI NỢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÕI
NỢ Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 6
1.1. Tổng quan về đòi nợ và kinh doanh dịch vụ đòi nợ .................................. 6
1.1.1. Khái niệm nợ, chủ nợ và con nợ ....................................................... 6
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động đòi nợ và các phương thức đòi nợ . 12
1.1.3. Khái niệm kinh doanh dịch vụ đòi nợ ............................................. 15
1.2. Tổng quan pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ................................. 22
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ
bằng pháp luật .......................................................................................... 22
1.2.2. Khái niệm pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ......................... 26
1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ......... 27
1.2.4. Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ..... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ
ĐÕI NỢ Ở VIỆT NAM ............................................................................ 30
2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở
Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 30
2.1.1. Nội dung quy định về hình thức pháp lý của chủ thể kinh doanh dịch
vụ đòi nợ .................................................................................................. 30


2.1.2. Nội dung các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ ...... 33
2.1.3. Phạm vi hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ ................................ 46
2.1.4 Nguyên tắc hoạt động của dịch vụ đòi nợ ........................................ 49
2.1.5. Nội dung và các biện pháp sử dụng trong kinh doanh dịch vụ đòi nợ ....52
2.1.6. Nội dung quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động
dịch vụ đòi nợ .......................................................................................... 56
2.1.7. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kinh
doanh dịch vụ đòi nợ ................................................................................ 60
2.1.8. Nội dung quy định về quản lý nhà nước và xử lý vi phạm trong hoạt
động kinh doanh dịch vụ đòi nợ ............................................................... 62

2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam ..... 63
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
DỊCH VỤ ĐÕI NỢ Ở VIỆT NAM ........................................................... 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt
Nam ............................................................................................................. 72
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam ... 75
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về
kinh doanh dịch vụ đòi nợ ........................................................................ 75
3.2.2. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định khác của pháp luật để tạo sự đồng
bộ, thống nhất trong quá trình thực thi ..................................................... 85
KẾT LUẬN .............................................................................................. 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 89


Danh mục từ ngữ viết tắt
Nghị định

:Nghị định số 104/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban

104/2007/NĐ-CP

hành ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ

Nghị định số

:Nghị định số 72/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban

72/2009/NĐ-CP

hành ngày 03/09/2009 quy định về điều kiện an ninh,

trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện

Nghị định số

:Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 do

59/2006/NĐ-CP

Chính phủ ban hành quy định chi tiết Luật Thương
mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa,
dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ kinh
doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ đó

Quyết định

:Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính

109/2003/QĐ-TTg

phủ ban hành ngày 05/06/2003 về việc thành lập
Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp

Thông tư số

:Thông tư 33/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ban

33/2010/TT-BTC


hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mua,
bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp.

BLDS năm 2005

:Bộ luật dân sự năm 2005

BLHS năm 2009

: Bộ luật hình sự năm sửa đổi, bổ sung năm 2009

DATC

:Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh
nghiệp

Công ty TNHH

:Công ty trách nhiệm hữu hạn


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Vốn là một trong những nhu cầu thiết yếu không thể thiếu được trong đời
sống xã hội và trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ của người dân.
Quan hệ vay và cho vay vốn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của xã
hội. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào bên vay vốn cũng có thể trả
được vốn và lãi vay đúng thời hạn cam kết cho bên cho vay. Điều này có
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do bên vay

vốn làm ăn thua lỗ, phá sản hoặc sử dụng vốn vay không hiệu quả, sai mục
đích v.v dẫn đến mất khả năng thanh toán. Nguyên nhân chủ quan có thể do
bên vay vốn chây ỳ, tìm mọi cách trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc đau ốm. Để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì việc chủ nợ đòi nợ số vốn cho
vay là điều hiển nhiên. Song thực tế cho thấy việc làm này gặp rất nhiều khó
khăn, phức tạp; bởi lẽ không phải lúc nào bên cho vay cũng có thể nhận được
khoản vốn và lãi vay một cách suôn sẻ, trôi chảy. Đối với những trường hợp
con nợ cố tình chây ỳ hoặc không có thái độ hợp tác trong việc trả nợ thì việc
đòi nợ thường rơi vào tình trạng bế tắc và không đạt được mục đích. Hậu quả
là chủ nợ thường phải nhờ dịch vụ đòi nợ thay vì tự mình tiến hành đòi nợ.
Kinh doanh dịch vụ đòi nợ là một ngành nghề kinh doanh nhạy cảm và mới ra
đời kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Các
quy định điều chỉnh loại hình kinh doanh dịch vụ này đang trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện nên không tránh khỏi những điểm bất hợp lý, chưa
hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ khi triển khai thi hành trên thực tế. Hơn
nữa, các quy định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ được ban hành ở những văn
bản pháp luật khác nhau nên khó tránh khỏi một số nội dung mâu thuẫn,
chồng chéo. Đây cũng là một nguyên nhân nữa gây thách thức cho quá trình
triển khai thi hành. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ xuất

1


hiện tình trạng đòi nợ thuê sử dụng các hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực để khống chế, đe dọa về thể xác và tinh thần đối với con nợ và gia đình
họ do những tổ chức “xã hội đen” thực hiện; gây tâm lý hoang mang, lo sợ
trong dư luận xã hội và thể hiện thái độ coi thường pháp luật … Điều này có
nguyên nhân do pháp luật về lĩnh vực này còn chưa hoàn thiện, đồng bộ. Để
khắc phục những hạn chế, tồn tại này, cần thiết phải có sự đánh giá có hệ
thống, toàn diện về lý luận và thực tiễn pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi

nợ; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện.
Với lý do như vậy, tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ
đòi nợ ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, Luận văn mong muốn đạt được các mục đích
nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận, cơ sở khoa học và nội dung của chế định
pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam.
- Đưa ra vấn đề hoàn thiện chế định pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi
nợ ở Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu cơ bản trên, Luận văn xác định
những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích các khái niệm và đặc điểm của nợ, con nợ, chủ nợ, kinh doanh
dịch vụ đòi nợ.
- Phân tích khái niệm và bản chất của đòi nợ và các phương thức đòi nợ.
- Lý giải cơ sở của việc hình thành chế định pháp luật về kinh doanh dịch
vụ đòi nợ; phân tích khái niệm, đặc điểm và những nội dung cơ bản của chế
định pháp luật này.

2


- Đánh giá thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ nhằm nhận
diện những mặt tích cực, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về kinh
doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu bao gồm:
- Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp, Luật đầu

tư và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành về kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
- Cơ sở chính trị việc nghiên cứu là quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng về loại hình kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
- Báo cáo tổng kết việc thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn dựa trên cơ sở chính trị và sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Quan điểm, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước và Pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê…được
sử dụng tại Chương 1. Tổng quan một số vấn đề lý luận về đòi nợ, kinh doanh
dịch vụ đòi nợ và pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam.
ii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp tổng
hợp…được sử dụng tại Chương 2. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch
vụ đòi nợ ở Việt Nam.
iii) Phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp…được sử dụng tại
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở
Việt Nam.

3


6. Tình hình nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ở phạm vi hẹp, liên quan đến các quy định về kinh
doanh dịch vụ đòi nợ cho nên ở nước ta chưa có công trình hay nghiên cứu
nào một cách đầy đủ và tổng quan nhất. Chỉ xuất hiện một số bài tạp chí, bài
báo phân tích các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực trạng dịch

vụ đòi nợ đang diễn ra với những bất cập như thế nào.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu các vấn đề có liên quan như đại
diện, hợp đồng ủy quyền có thể kể đến như “Một số ý kiến về vấn đề đại diện
trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê Thị Bích Thọ, “Chế định đại diện
theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS
Ngô Huy Cương, luận án tiến sĩ “Đại diện cho thương nhân theo pháp luật
thương mại Việt Nam hiện nay” của Hồ Ngọc Hiển. Các công trình khoa học
liên quan chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề này trong
cái tổng thể, lớn hơn là quan hệ hợp đồng, chế định đại diện chung hay trong
phạm vi hẹp hơn về chế định đại diện cho thương nhân trong Luật thương
mại. Ở nước ngoài, các tài liệu nghiên cứu về pháp luật kinh doanh dịch vụ
đòi nợ cũng khá ít, chưa được dịch sang tiếng Việt.
Đề tài là sự tiếp tục nghiên cứu trước đây của khóa luận tốt nghiệp của
học viên với phạm vi rộng hơn liên quan đến vấn đề ủy quyền cho tổ chức,
các số liệu thực tiễn được tổng kết từ các báo cáo qua 5 năm thực thi pháp
luật kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam và kiến nghị sửa đổi, bổ sung sát
thực tế hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Lời nói đầu, Kết
luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn được kết cấu
thành 03 chương:

4


- Chương 1. Tổng quan một số vấn đề lý luận về đòi nợ, kinh doanh dịch
vụ đòi nợ và pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt
Nam.
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ

ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÒI NỢ, KINH DOANH
DỊCH VỤ ĐÒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÒI
NỢ Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về đòi nợ và kinh doanh dịch vụ đòi nợ
1.1.1. Khái niệm nợ, chủ nợ và con nợ
1.1.1.1. Khái niệm nợ
Nợ là nghĩa vụ tài sản của một chủ thể này phải trả cho một chủ thể khác. Nợ
có thể xuất hiện trong các quan hệ dân sự khác nhau như: quan hệ mua bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ, quan hệ cho thuê tài sản, cho thuê tài
chính…Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa người với người được hình
thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tư tưởng,
đạo đức, văn hóa…Nợ có thể phát sinh trong bất kỳ mối quan hệ xã hội nào,
quan hệ xã hội càng phức tạp thì những nguồn gốc phát sinh nợ nần càng đa
dạng, phức tạp.
Có nhiều cách phân loại nợ, tùy thuộc vào tiêu chí, mục đích phân loại, có
thể phân thành nợ thường (là những khoản nợ mà chủ thể có quyền đòi nợ có
thể tự mình thu hồi nợ) và nợ xấu (là nợ mà chủ thể có quyền đòi nợ không
thể tự mình thu hồi nợ vì nhiều lý do khách quan); hoặc có thể phân thành nợ
trong dân sự và nợ trong kinh doanh; hoặc có thể phân thành nợ công và nợ
dân doanh…
Theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ngày
14/06/2007 của Chính phủ quy định chi tiết về kinh doanh dịch vụ đòi nợ
(sau đây gọi là Nghị định số 104/2007/NĐ-CP) thì “Nợ là nghĩa vụ của các tổ
chức kinh tế, cá nhân này phải trả tài sản cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác”.
.Nó không chỉ xuất hiện trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà có thể

xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Các khoản nợ mà các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ được phép tham gia cung cấp dịch

6


vụ đòi nợ đó là các khoản nợ phát sinh từ các quan hệ xã hội khác nhau. Tuy
nhiên, giới hạn của nó chính là nghĩa vụ giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân chứ
không phát sinh giữa các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
- xã hội - nghề nghiệp với nhau hay giữa các tổ chức này với tổ chức kinh tế,
cá nhân.
Nợ được xem là “tài sản” mà một tổ chức kinh tế, cá nhân phải trả cho một
tổ chức kinh tế, cá nhân khác, và nó là một nghĩa vụ dân sự. Tài sản là một
khái niệm cơ bản, quen thuộc với bất kỳ ai, nó là công cụ của đời sống con
người. Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) quy định: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên cách
định nghĩa tài sản của BLDS năm 2005 hiện tại nhiều luật gia cho rằng đây là
cách định nghĩa ra theo kiểu liệt kê các loại tài sản, chứ không xác định phạm
vi dứt khoản của tài sản, các quy định tiếp đó tại “ Chương XI – Phân loại tài
sản lại diễn giải cụ thể các loại tài sản được nêu ra trong giải nghĩa này không
đề cập gì tới tiền và giấy tờ có giá. Mặc khác tại Điều 173 và Điều 181 và
toàn bộ các quy định của BLDS 2005 không diễn giải một cách có thể hiểu
được phạm vi của quyền tài sản và quyền sở hữu được quy định dường như
tách biệt với tài sản tại Điều 164 và Điều 174 BLDS 2005 dẫn đến khái niệm
tài sản dường như không bao trùm hết quyền sở hữu trong khi vẫn quy định
các vấn đề chuyển dịch tài sản gắn với quyền sở hữu tại rất nhiều các quy
định [15]. Ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều loại tài sản mới như chứng
khoản, sở hữu trí tuệ thì việc định nghĩa tài sản, phân loại tài sản như thế nào
cho phù hợp cũng là cơ sở để chúng ta xác định chính xác đối tượng của dịch
vụ kinh doanh dịch vụ đòi nợ là những loại tài sản nào.

Trong giới hạn nghiên cứu, đề tài chỉ để cập đến khái niệm nợ theo quy
định của pháp luật hiện hành, tức nợ là các nghĩa vụ về tài sản mà tổ chức
kinh tế, cá nhân này phải trả cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác mà thôi.

7


1.1.1.2. Khái niệm chủ nợ
Gắn liền với tài sản là quyền sở hữu, do đó khi nói tới tài sản không thể
không nói về quyền sở hữu. Quyền sở hữu là vật quyền thống trị và làm cơ sở
cho việc phân chia và xác định các vật quyền khác mà các vật quyền này
thường được gọi là các chi phần của quyền sở hữu. Khi một vật quyền được
tạo lập thì lập tức xuất hiện hai loại quyền cùng tồn tại trên một vật – đó là
quyền sở hữu của chủ sở hữu và quyền của người khác trên vật đó. Khi phát
sinh một khoản nợ sẽ xuất hiện quyền đòi nợ của chủ sở hữu, vật quyền được
xác lập. Nếu chủ sở hữu chuyển giao quyền đòi nợ cho người khác làm phát
sinh dịch quyền. Quyền đòi nợ bao gồm cả quyền trreen tài sản của mình và
quyền trên tài sản của người khác.Do đó khái niệm chủ nợ cũng là một khái
niệm khá rộng.
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại: Các chủ nợ (creditors) là “các cá nhân
hay tổ chức cho vay tiền để được người hay tổ chức vay hứa trả một khoản
tiền nhất định hàng năm theo lãi suất và hoàn trả gốc vào một ngày nào đó
trong tương lai” [19]. Khái niệm trên về chủ nợ chỉ bó hẹp trong phạm vi hợp
đồng vay tài sản, chủ nợ chỉ được hiểu là người cho vay nợ. Hiểu như vậy là
chưa đầy đủ vì nợ không chỉ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản mà còn có thể
phát sinh từ các hợp đồng khác. Vậy nên đương nhiên tư cách chủ nợ cũng có
thể phát sinh không chỉ bởi hành vi cho vay nợ của chủ thể đó. Nên hiểu chủ
nợ là người tham gia quan hệ pháp luật làm phát sinh khoản nợ và có quyền
thụ hưởng giá trị tài sản từ khoản nợ đó.
Ngoài ra, tư cách chủ nợ cũng có thể được chuyển từ chủ thể này sang chủ

thể khác bởi hành vi chuyển quyền thụ hưởng giá trị tài sản được xác định trong
khoản nợ cho người thứ ba của chủ nợ. Khi đó, khoản nợ có được xác định là nợ
với chủ nợ mới hay không, phụ thuộc vào tư cách chủ thể và tính chất của hợp
đồng chuyển giao đó. Ví dụ, nếu người nhận sự chuyển giao quyền thụ hưởng là

8


chủ thể kinh doanh và sự chuyển quyền đó cũng xuất phát từ hoạt động kinh
doanh thì đối với họ, khoản nợ đó cũng được coi là nợ trong kinh doanh (ví dụ:
quyền thụ hưởng do thanh toán bù trừ trong kinh doanh).
Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp biên
soạn thì khái niệm chủ nợ được định nghĩa với nội hàm rộng hơn. Theo đó,
chủ nợ là người cho một cá nhân, tổ chức khác vay một món nợ bằng tiền hay
hiện vật. Khi đến hạn, chủ nợ có quyền đòi con nợ phải hoàn trả khoản tiền
vay hoặc hiện vật, kèm theo lãi. Chủ nợ là người có quyền trong quan hệ
nghĩa vụ dân sự, cụ thể là hợp đồng vay. [31]
Khái niệm chủ nợ cùng với hợp đồng vay tài sản là một trong những khái
niệm pháp lý ra đời sớm nhất trước khi xuất hiện đồng tiền. Pháp luật dân sự
La Mã đã có những điểm rất chi tiết về hợp đồng vay chủ nợ.
Trong dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc kỳ trước đây, những quy
định pháp lý về chủ nợ được quy định từ Điều 730 đến Điều 861. Trong
Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật được duyệt y vào ngày 24/4/1936 những quy
định pháp lý về chủ nợ được quy định từ Điều 811 đến Điều 878.
Theo BLDS năm 2005 thì chủ nợ (người cho vay) là người có quyền và
nghĩa vụ trong hợp đồng vay tài sản. Trong hợp đồng này, chủ nợ là bên cho
vay, là người có tiền hoặc tài sản chuyển cho bên kia vay. Khi hết hạn của
hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi như thỏa thuận. Nếu hợp
đồng cho vay có áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên
vay không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản để

bảo đảm thực hiện đúng nghĩa vụ như thỏa thuận hoặc yêu cầu bán đấu giá để
thực hiện nghĩa vụ. Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản đầy đủ, đúng số
lượng, chất lượng, chủng loại như thỏa thuận cho bên vay. Nếu bên cho vay
lừa dối bên vay, chuyển giao tài sản không đảm bảo chất lượng mà gây thiệt
hại cho bên vay thì phải bồi thường.

9


Tuy nhiên, định nghĩa này lại chỉ đề cập đến chủ nợ là một cá nhân mà
quên mất rằng trong quan hệ nợ nần thì chủ nợ có thể là tổ chức, đây là một
điểm thiếu sót rất lớn, bởi lẽ khi các quan hệ dân sự phát triển không ngừng
thì tư cách chủ nợ trong quan hệ nợ cũng không ngừng biến đổi với nhiều
dạng chủ thể khác nhau. Mặt khác, món nợ mà định nghĩa trên nêu ra cũng
khá hẹp, chỉ là “tiền” hoặc “hiện vật”, hẹp hơn rất nhiều so với quy định của
BLDS năm 2005 về tài sản và khái niệm chủ nợ ở đây cũng chỉ bó hẹp trong
quan hệ hợp đồng vay tài sản.
Với một cái nhìn khác hơn ở một góc độ rộng hơn, bao quát hơn, Nghị
định số 104/2007/NĐ-CP định nghĩa: “Chủ nợ là tổ chức kinh tế, cá nhân có
quyền đòi nợ”. Đây là một quy định mở và mang tính bao quát cao, chủ nợ
không chỉ xuất hiện trong quan hệ vay tài sản mà có thể xuất hiện trong bất kỳ
một giao dịch dân sự nào…
Tổ chức kinh tế ở đây được hiểu bao gồm doanh nghiệp được thành lập hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty hợp danh); hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác
xã được thành lập theo Luật hợp tác xã; các tổ chức kinh tế thành lập theo luật
đầu tư và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật).
Chủ nợ không chỉ là những cá nhân, tổ chức kinh tế có quyền sở hữu đối
với nợ mà cả những cá nhân, tổ chức kinh tế không có quyền sở hữu đối với
nợ nhưng được chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu ủy quyền thông qua hợp đồng

ủy quyền đòi nợ cũng được coi là chủ nợ và họ cũng được nhân danh chủ nợ
hoặc các chủ nợ ký kết hợp đồng dịch vụ với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ
đòi nợ để thu hồi nợ.
Khái niệm này của Nghị định số 104/2007/NĐ-CP đã loại bỏ các tổ chức
khác là chủ nợ trong quan hệ nợ, đó là tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và ngay cả các tổ chức

10


quốc tế cũng không phải là một bên trong quan hệ nợ thuộc đối tượng điều
chỉnh của Nghị định này.
Khái niệm chủ nợ cũng được đề cập tại Thông tư số 33/2010/TT-BTC của
Bộ Tài chính; theo đó : “chủ nợ là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nợ
phải trả”(Khoản 1 Điều 7).
1.1.1.3. Khái niệm con nợ
Khi xuất hiện một khoản nợ thì luôn tồn tại song song hai chủ thể với hai
tư cách là: “chủ nợ” và “con nợ” hay nói cách khác, hai khái niệm này không
thể tách rời trong một quan hệ vay nợ. Con nợ là người có hành vi làm phát
sinh khoản nợ và có nghĩa vụ phải thanh toán lượng giá trị tài sản trong khoản
nợ đó.
Tương tự như tư cách chủ nợ, tư cách con nợ cũng có thể được chuyển từ
người này sang người khác thông qua hành vi chuyển giao nghĩa vụ của con
nợ cho người thứ ba trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên. Cũng theo hướng như
vậy, BLDS năm 2005 mặc dù không có định nghĩa về con nợ nhưng cũng có
quy định về nghĩa vụ trả nợ của con nợ trong hợp đồng vay tài sản.
Tuy nhiên Nghị định số 104/2007/NĐ-CP lại đưa ra một tên gọi có phần
khác so với Từ điển Tiếng Việt cũng như BLDS năm 2005, mặc dù xét về bản
chất thì những khái niệm này đều đề cập về bên có nghĩa vụ trả nợ trong quan
hệ nợ nần. Khoản 3 Điều 3 của Nghị định này quy định “khách nợ là tổ chức

kinh tế, cá nhân có nghĩa vụ trả nợ”. Nghị định số 104/2007/NĐ-CP chỉ đích
danh khách nợ là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân và những đối tượng đó có
“nghĩa vụ trả nợ” trong một quan hệ nợ nần nhất định.
Như vậy tương ứng với quyền đòi nợ của chủ nợ là nghĩa vụ trả nợ của
khách nợ. Mặc dù vậy, cách dùng từ “khách nợ” để chỉ bên có nghĩa vụ trả nợ
ở đây chưa thực sự phản ánh hết bản chất của quan hệ nợ, quan hệ giữa người
có quyền và người có nghĩa vụ trong quan hệ nợ. Theo từ ngữ đời thường, thì

11


chữ “khách” là để chỉ đối tượng được “chủ” sẵn sàng và mong muốn đón tiếp,
giao dịch. Do vậy, người có nghĩa vụ trả nợ được gọi là con nợ. Trong quan
hệ giao dịch, thì các bên vẫn là “khách hàng”, “bạn hàng”, nhưng trong quan
hệ tranh chấp, đòi nợ đến mức phải nhờ cậy người khác đòi nợ mà gọi là
“khách” của nhau thì không hợp lý. Từ điển Tiếng Việt cũng chỉ ghi nhận từ
“con nợ” chứ không ghi nhận chữ “khách” nào theo nghĩa đã được sử dụng
trong Nghị định số 104/2007/NĐ-CP. Thông tư số 33/2010/TT-BTC của Bộ
Tài chính cũng sử dụng “cụm từ khách nợ” của Nghị định số 104/2007/NĐCP khi đưa ra khái niệm “khách nợ là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có
nợ phải trả”.
Tóm lại, nợ, chủ nợ và con nợ trong quan hệ đòi nợ có quan hệ biện
chứng, chặt chẽ với nhau, thiếu một trong 3 yếu tố trên thì sẽ không thể hình
thành quan hệ nợ. Để xác định tư cách chủ nợ và con nợ trong một khoản nợ
thì điều cốt yếu chúng ta cần dựa vào chính là “tính đích danh”. Tức là phải
xác định trong từng khoản nợ cụ thể, bên có quyền chỉ có tư cách là chủ nợ
trong quan hệ với chính bên có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đó mà thôi. Sở
dĩ phải xác định cụ thể như vậy vì trong thực tế một chủ thể có thể tham gia
vào rất nhiều quan hệ, nhiều khoản nợ khác nhau và trong khoản nợ này thì
họ có thể là chủ nợ nhưng trong một khoản nợ khác họ lại có thể là con nợ.
1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động đòi nợ và các phương thức đòi nợ

1.1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của đòi nợ
Một khoản nợ hình thành giữa các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của chủ nợ và con nợ, trong đó con nợ có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho
chủ nợ khi đến hạn (nghĩa vụ trả nợ) và chủ nợ có quyền yêu cầu con nợ phải
thực hiện nghĩa vụ đó nếu đến hạn mà con nợ không tự giác thực hiện (quyền
đòi nợ). Như vậy, đòi nợ là quyền của chủ nợ và có thể được thực hiện bởi
chính chủ nợ hay một bên thứ ba trung gian.

12


Nói một cách khái quát nhất, đòi nợ là việc bên có quyền đòi nợ yêu cầu
bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán khoản tài sản liên quan đến khoản nợ
mà các bên đã thỏa thuận.Vậy quyền đòi nợ của chủ nợ xuất hiện khi nào?
Vấn đề này chưa được ghi nhận cụ thể nhưng có thể hiểu quyền đòi nợ của
chủ nợ xuất hiện khi khoản nợ đến hạn thanh toán, điều này phụ thuộc vào
thỏa thuận của các bên khi thiết lập quan hệ nợ.
Theo cuốn Từ điển luật học thì:
Khoản nợ đến hạn là nghĩa vụ tài sản (khoản tiền, tài sản) mà người có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với người có quyền khi đến thời điểm phải
thực hiện.
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật
không có quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì các bên có thể thực
hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau biết trước
vào một thời gian hợp lý. [31]
Nghị định số 104/2007/NĐ-CP cũng chỉ rõ:
Nợ quá hạn thanh toán là nợ chưa được khách nợ thanh toán cho chủ
nợ khi đã quá thời hạn phải thanh toán theo thỏa thuận giữa chủ nợ và
khách nợ hoặc đã quá thời hạn phải thanh toán theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền” (Khoản 4 Điều 3).

Quy định này tỏ ra chưa chặt chẽ khi mà theo Khoản 3 Điều 324 BLDS
năm 2005 đề cập về trường hợp: một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ dân sự thì trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa
vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và
tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản”.
Như vậy, cách định nghĩa của Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về thời hạn
đòi nợ chỉ giải quyết được trường hợp phổ biến là đến một thời hạn cụ thể mà
các bên đã xác định trong văn bản mà chưa đề cập được trường hợp, tuy nợ

13


chưa đến hạn theo ngày tháng đã ấn định, nhưng đã phát sinh tình huống, mà
theo đó chủ nợ được quyền thu hồi nợ trước hạn, trong khi đó quy định “quá
hạn phải thanh toán theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” lại
quá chung chung và chưa tính được hết các trường hợp. Thông tư số
33/2010/TT-BTC quy định rõ: “Nợ tồn đọng là các khoản nợ phải thu, nợ
phải trả đã quá hạn thanh toán nhưng chưa thu được, chưa trả được” (Khoản
4 Điều 7). Như vậy, ta thấy về khái niệm nợ đến hạn thanh toán và nợ quá hạn
thanh toán thì các văn bản pháp luật có quy định tương tự nhau.
Về bản chất thì đòi nợ là quyền dân sự. Điều 13 BLDS năm 2005 chỉ rõ 9
căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự luôn gắn
liền với nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, cho nên căn cứ xác
lập quyền dân sự cũng là căn cứ xác lập nghĩa vụ dân sự.
Xuất phát từ định nghĩa về quyền dân sự ta có thể khái quát đòi nợ là
quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho mình.
1.1.2.2. Các phương thức đòi nợ
Các khoản nợ phát sinh hết sức phong phú đa dạng do vậy mà các phương
thức đòi nợ cũng vô cùng phong phú, đa dạng. Nói một cách nôm na thì phương
thức đòi nợ là tất cả những cách thức mà chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ.

Chủ nợ có thể lựa chọn những phương thức khác nhau tương ứng với cách
thực hiện quyền đòi nợ hoặc thông qua một cá nhân, tổ chức bất kỳ không
phải qua Tòa án hay Trọng tài kinh tế làm trung gian giải quyết việc nợ thì họ
có thể tự mình quyết định về phương thức đòi nợ miễn sao không vi phạm các
quy định của pháp luật.
Trước khi Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ra đời thì chủ nợ có thể lựa chọn
nhiều phương thức đòi nợ khác nhau. Chủ nợ có thể tự mình bằng những biện
pháp, cách thức khác nhau đến đòi nợ hoặc thông qua dịch vụ đòi nợ thuê
hoặc thông qua con đường tài phán (trọng tài hay Tòa án), dịch vụ đòi nợ thuê

14


ở đây tức là thông qua một cá nhân, tổ chức mà thường là các tay “anh chị”,
các băng đảng xã hội đen trong giới giang hồ để đòi nợ. Những cá nhân, tổ
chức này sẽ được chia phần trăm lợi nhuận nếu đòi được khoản nợ đó cho trái
chủ hay còn gọi là phí dịch vụ. Phương thức này rất phổ biến và được nhiều
chủ nợ lựa chọn, bởi lẽ nó nhanh chóng và thấy ngay hiệu quả rõ rệt nhất là
đối với những khoản nợ khó đòi. Những chiêu thức mà những cá nhân, tổ
chức này sử dụng để đòi nợ cũng rất phong phú và phức tạp, có thể là ra lệnh
cho đàn em đến nhà con nợ hành hung, đập phá, đe dọa, xúc phạm danh dự
nhân phẩm của con nợ…
Tuy nhiên, sau khi Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ra đời đã tạo khuôn
khổ pháp lý cho dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam phát triển lành mạnh, dịch vụ đòi
nợ được ghi nhận là một ngành nghề kinh doanh trong hệ thống ngành, nghề
kinh tế quốc dân, được sự bảo hộ của pháp luật. Phương thức đòi nợ bằng các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời đã mở ra cơ hội kinh doanh và
cơ hội thu hồi các khoản nợ nhanh chóng, đúng pháp luật cho các chủ nợ.
1.1.3. Khái niệm kinh doanh dịch vụ đòi nợ
Kinh doanh dịch vụ đòi nợ trước hết phải khẳng định nó là một hoạt động

thương mại nhằm mục đích sinh lợi mà cụ thể là hoạt động cung ứng dịch vụ.
Theo giải thích của Luật doanh nghiệp thì “kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi” (Khoản 2 Điều 4). Trong các quan hệ thương mại thì kinh doanh
dịch vụ là một trong những lĩnh vực mang lại lợi nhuận khổng lồ có thể lớn
hơn gấp nhiều lần so với sản xuất hàng hóa. Dịch vụ trong kinh tế học, được
hiểu là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất. Có những sản
phẩm thiên về sản phẩm hữu hình và những sản phẩm thiên hẳn về sản phẩm

15


dịch vụ, tuy nhiên đa số là những sản phẩm nằm trong khoảng giữa sản phẩm
hàng hóa - dịch vụ. Cung ứng dịch vụ theo định nghĩa của Luật thương mại:
là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng
dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh
toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ
thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa
thuận (Khoản 9 Điều 3).
Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì các nghề thuộc lĩnh vực kinh doanh dịch vụ đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế.
Tóm lại, kinh doanh dịch vụ đòi nợ được hiểu là việc thực hiện các hoạt
động cần thiết phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm thu hồi khoản
nợ, trên cơ sở hợp đồng ủy quyền và hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa bên
chủ nợ hoặc khách nợ và doanh nghiệp được phép kinh doanh dịch vụ đòi nợ
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Khái niệm kinh doanh dịch vụ đòi nợ là một
khái niệm hết sức quan trọng nhằm định hướng đúng đắn cho hoạt động đòi
nợ thuê ở Việt Nam song Nghị định 104/2007/NĐ-CP lại không hề đề cập

đến, đây là một thiếu sót rất lớn, cần được bổ sung trong thời gian tới.
Tính tất yếu phát triển của loại hình dịch vụ này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, do quy luật vận động của sự phát triển, quy luật kinh tế mà cụ
thể là quy luật cung cầu; sự quay vòng vốn tạo ra các khoản nợ và từ đó thúc
đẩy sự ra đời của dịch vụ đòi nợ.
Thứ hai, theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì sự phát triển của
các thiết chế, pháp luật không phù hợp, không theo kịp sự phát triển của các
quan hệ xã hội (không có cơ chế để điều chỉnh quan hệ xã hội mới phát sinh)
sẽ dẫn đến tình trạng kìm hãm sự phát triển của xã hội. Bản thân Tòa án nhân
dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp trong báo cáo gửi

16


Quốc hội đã thừa nhận sự phát triển của ngành tư pháp đã không theo kịp sự
phát triển của xã hội [28]. Do đó mà kinh doanh dịch vụ đòi nợ ra đời như
một tất yếu.
Tính tới thời điểm hiện tại ở Việt Nam có hai hình thức tổ chức hoạt động
dịch vụ đòi nợ, ngoài các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ theo Nghị
định số 104/2007/NĐ-CP; còn có các văn phòng, công ty luật hoạt động theo
Luật luật sư cũng có chức năng hoạt động kinh doanh dịch vụ này.
Hiện nay, ngoài hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ còn có một số hoạt
động khác liên quan, chẳng hạn như dịch vụ mua bán nợ, tài sản tồn đọng
thuộc phạm vi hoạt động của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp (DATC).
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản
đặc biệt là các “khoản nợ phải thu” từ đối tượng này sang đối tượng khác.
Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại “quyền thu hồi nợ” từ một “khoản nợ
phải thu” của bên bán nợ (chủ nợ) đối với khách nợ sang cho bên mua nợ để
bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên khách nợ. Như vậy, hoạt động mua

bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà
không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).
Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có khoản nợ phải thu là 1.000 USD đối với bên B
(khách nợ) phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa hai bên. Đến nay, bên A
cần thu hồi phần tài sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng bên B chưa
thanh toán được do khó khăn về tài chính…mặc dù khoản nợ đã quá hạn. Và
bên A bán khoản nợ phải thu này cho DATC với giá X USD, đồng thời
chuyển giao toàn bộ “quyền thu hồi nợ” cho DATC để DATC trở thành chủ
nợ mới của bên B và khi đó, bên B có trách nhiệm thanh toán 1.000 USD cho
DATC mà không phải thanh toán cho bên A nữa.
Đặc điểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ:

17


Hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ là một hình thức của đại diện theo uỷ
quyền tuy nhiên nó lại là dạng uỷ quyền cho tổ chức. Theo đó đại diện theo
uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và
người được đại diện. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả thuận, trừ trường
hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.
Về mặt chủ thể, hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ có điểm đặc biệt
so với hình thức đại diện theo uỷ quyền của Bộ luật dân sự chính là việc uỷ
quyền cho tổ chức. Chủ thể tham gia với tư cách là người nhận uỷ quyền là tổ
chức, đó là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ.
Đối với cá nhân, năng lực pháp luật là khả năng của cá nhân có quyền
và nghĩa vụ dân sự. Nó có từ khi con người sinh ra cho đến khi con người
chết đi và không thể đương nhiên bị bác bỏ, hạn chế ngoại trừ pháp luật quy
định trong những trường hợp đặc biệt và mọi cá nhân đều có sự bình đẳng về
năng lực pháp luật dân sự. Tuy nhiên khác với cá nhân, năng lực pháp luật
của pháp nhân, tổ chức không mặc nhiên mà có, nó chỉ tồn tại khi pháp nhân,

tổ chức đó thành lập và chấm dứt khi nó chấm dứt hoạt động. Năng lực pháp
luật của tổ chức, pháp nhân phải nằm trong phạm vi hoạt động, chức năng của
nó cho nên năng lực pháp luật của các tổ chức sẽ khác nhau. Khác với năng
lực pháp luật, năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Cá nhân có thể
thông qua hành vi cụ thể để xác lập quyền và nghĩa vụ của mình đối với
người khác. Còn đối với tổ chức, pháp nhân phải thông qua người đại diện
mới có thể xác lập quyền, nghĩa vụ đối với các chủ thể khác. Một tổ chức,
pháp nhân có thể có một hoặc nhiều người đại diện tuỳ theo điều lệ của nó
quy định và tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể của từng quan hệ uỷ quyền với các bên
thứ ba. Điều đấy đòi hỏi tất cả những người đại diện phải có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi. Do đó hoạt động đại diện theo uỷ quyền này

18


mặc dù thuộc phạm vi hoạt động của một tổ chức, pháp nhân phải gắn chặt
với từng con người cụ thể, thoả mãn một số yêu cầu, điều kiện của pháp luật
mới mới có khả năng thực hiện được, hoặc người thực hiện nghiệp vụ của tổ
chức phải thoả mãn một số yêu cầu, điều kiện của pháp luật. Chẳng hạn các
hoạt động uỷ quyền cho các tổ chức hành nghề luật phải có các luật sư đáp
ứng đủ điều kiện theo Luật luật sư, được cấp chứng chỉ hành nghề hay uỷ
quyền cho văn phòng công chứng phải được thực hiện thông qua công chứng
viên…Với bản chất là hình thức đại diện theo uỷ quyền, hoạt động kinh
doanh dịch vụ đòi nợ được thực hiện thông qua hợp đồng uỷ quyền đòi nợ.
Đó là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ phải trả
thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ đòi nợ sẽ cử các nhân viên có đủ năng lực, điều kiện thực hiện
các công việc mà khách hàng uỷ quyền trong phạm vi uỷ quyền.

Với bản chất là một dạng đại diện theo uỷ quyền, hoạt động kinh doanh
dịch vụ đòi nợ có đối tượng là các công việc có thể thực hiện được và được
phép thực hiện. Khác với các giao dịch khác, đối tượng của hợp đồng uỷ
quyền là các hành vi cụ thể, có thể liên quan tới tài sản nào đó hoặc không.
Một chủ sở hữu tác động tới tài sản, thực hiện các quyền của mình thông qua
những hành vi. Trường hợp họ không có năng lực trực tiếp thực hiện thì bằng
ý chí, hành vi của mình họ có quyền thoả thuận với chủ thể khác có đủ điều
kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi để đại diện cho chủ sở hữu
thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thông qua những công việc
cụ thể được thoả thuận. Tuy nhiên uỷ quyền không làm mất tư cách của chủ
sở hữu đối với tài sản, các phạm vi uỷ quyền chỉ là các hành vi, công việc cụ
thể. Do đó bên được uỷ quyền không được phép vượt qua phạm vi uỷ quyền,
nếu vượt quá phạm vi thì sẽ phải bồi thường thiệt hạn nếu có.

19


×