Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Phát triển nông nghiệp ở Huyện Bắc Trà My Tỉnh Quảng Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 121 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là nước nông nghiệp, hiện có 80% dân cư và trên 70% lực lượng lao
động xã hội sống ở nông thôn, trong đó có hơn 80% lực lượng lao động làm việc
trong nông nghiệp [17, tr. 13]. Bởi thế, SXNN được coi là mặt trận hàng đầu, quan
trọng nhất trong nền kinh tế quốc dân. Việc chuyển nền nông nghiệp từ tình trạng
sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cung tự cấp, độc canh và thuần nông, thành
một nền nông nghiệp hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường,
định hướng XHCN, là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển KT XH ở nước ta hiện nay.
Bắc Trà My là một huyện vùng cao và cũng là một trong số ít huyện ở tỉnh
Quảng Nam có điều kiện để phát triển nền kinh tế đa dạng với thế mạnh về nông,
lâm nghiệp và dịch vụ - du lịch sinh thái. Trong những năm qua, SXNN của huyện
phát triển tương đối toàn diện. CCKT bước đầu đã chuyển dịch theo đúng định
hướng và phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Đặc biệt là việc chuyển đổi
cây trồng, con vật nuôi theo hướng sản suất hàng hóa; nhất là trồng rừng sản xuất
theo mô hình kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
Tuy vậy, so với tiềm năng thế mạnh và nhiệm vụ đặt ra vẫn còn nhiều tồn tại,
yếu kém. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi còn chậm; SXNN theo hướng
sản suất hàng hóa chưa nhiều. Các mô hình sản xuất có hiệu quả và ứng dụng tiến
bộ khoa học kỷ thuật chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Diện tích đất chưa sử
dụng còn nhiều, xu hướng độc canh cây trồng còn thống trị, cây công nghiệp ngắn
ngày, cây màu đã có trồng thử nhưng chưa phát triển được. Người nông dân còn cân
nhắc, lựa chọn giữa mô hình canh tác nông nghiệp truyền thống và mô hình trồng rừng,
song mô hình nào tối ưu vẫn chưa có lời giải đáp rõ ràng. Sản lượng lương thực hàng
năm tăng không ổn định, phát triển nông nghiệp toàn diện chưa được quan tâm đúng
mức, nhiều tài nguyên tự nhiên bị lãng phí do khai thác chưa hợp lý, nổi bật là tình
trạng phá rừng tự nhiên làm rẫy. Diện tích rừng trồng và cây nguyên liệu chưa phát



2

triển tương xứng với tiềm năng. Đời sống nhân dân làm nông nghiệp còn nhiều khó
khăn, đời sống văn hóa tinh thần, trình độ dân trí, cơ sở y tế, giáo dục còn thấp.
Nói chung, phát triển nông nghiệp trên địa bàn huyện Bắc Trà My tỉnh Quảng
Nam là một vấn đề cấp thiết, nổi lên hàng đầu, là một chiến lược lớn nhằm phát
triển KT - XH trong giai đoạn CNH, HĐH; thực hiện mục tiêu không ngừng nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc huyện miền núi; tạo sự
chuyển biến nhanh hơn đối với các vùng đặc biệt khó khăn. Xây dựng nông nghiệp
của huyện phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa; thực hiện tốt Nghị quyết Trung
ương 7- khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài "Phát triển nông nghiệp ở huyện Bắc
Trà My, tỉnh Quảng Nam" làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục tiêu của đề tài
- Khái quát được lý luận và thực tiễn để hình thành khung nội dung nghiên cứu;
-Xác định được tiềm năng, thế mạnh và các nguồn lực phát triển nông nghiệp;
- Chỉ ra được mặt mạnh, yếu kém trong phát triển nông nghiệp của huyện;
- Kiến nghị được cách thức phát triển nông nghiệp của huyện thời gian tới.
3. Tổng quan các nghiên cứu liên quan tới đề tài
Nghiên cứu ngoài nước
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng không chỉ với các nước đang phát
triển mà cả với các nước phát triển. Đã có nhiều nghiên cứu của các nhà kinh tế thế
giới mà ngày nay chúng ta vẫn có thể vận dụng vào thực tiễn phát triển nông
nghiệp Việt Nam.
Từ thế kỷ 18 David Ricacdo đã cho rằng do đất đai có giới hạn trong khi dân
số nông thôn tăng nhanh do vậy phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác loại
TLSX chủ yếu này sẽ gặp phải khó khăn như chi phí tăng cao và năng suất giảm; và
do vậy muốn phát triển nông nghiệp thì phải sử dụng tiệt kiệm và có hiệu quả đất
đai. Như vậy theo ông đất đai là TLSX và nguồn lực quan trọng nhất cho phát triển
nông nghiệp và con đường phát triển phải dựa vào nâng cao năng suất.



3

Lewis (1954) lại cho rằng muốn phát triển nông nghiệp thì phải dựa vào sự
phát triển công nghiệp để thực hiện chuyển dịch CCKT qua thu hút lao động dư
thừa trong nông nghiệp góp phần nâng cao NSLĐ nông nghiệp. Các nhà kinh tế học
thuộc trường phái tân cổ điển dựa vào mô hình 2 khu vực của Lewis trên cơ sở
khẳng định năng suất biên trong nông nghiệp dưới ảnh hưởng tiến bộ kỹ thuật sẽ
lớn hơn không, vì thế khó thực hiện phát triển công nghiệp thông qua thu hút lao
động dư thừa từ nông nghiệp và vì vậy phải đầu tư cho cả nông nghiệp để nâng cao
trình độ kỹ thuật ở khu vực này.
Phát triển nông nghiệp theo Torado (1990) là quá trình phát triển chuyên môn
hóa sản xuất và thực hiện thay đổi cải tiến công cụ sản xuất. Nghĩa là phát triển
nông nghiệp phải thay đổi cả tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất.
Theo quan điểm của Roy Hadod Evsey Domar (1940) muốn phát triển nông
nghiệp thì phải đầu tư vốn cho SXNN nhưng cũng cần phải nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Hạn chế của Roy Hadod Evsey Domar là không chỉ ra hạn chế của việc
đầu tư chỉ tạo ra tăng trưởng trong ngắn hạn. Do vậy Robert Solow (1956) đã phát
triển kết quả của Roy Hadod Evsey Domar và lập luận rằng (1) việc tăng khối
lượng vốn sản xuất qua đầu tư chỉ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế nói chung và
nông nghiệp nói riêng trong ngắn hạn nhưng không ảnh hưởng trong dài hạn; (2)
một nền kinh tế có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn sẽ có mức sản lượng cao hơn nhưng
không ảnh hưởng tới tăng trưởng trong dài hạn.
Nghiên cứu trong nước
Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng của
nền kinh tế quốc dân là ngành duy nhất sản xuất được lương thực, thực phẩm. Hoạt
động nông nghiệp có từ lâu đời, nên còn được coi là lĩnh vực sản xuất truyền thống;
hoạt động này không những gắn liền với các yếu tố kinh tế, xã hội, mà còn gắn với
các yếu tố tự nhiên. Nông nghiệp là ngành sản xuất có sự khác biệt với các ngành

sản xuất khác do đặc điểm của nó. Nguyễn Thế Nhã (2002), Đinh Phi Hổ (2003)
cho rằng nông nghiệp có những đặc điểm như (1) Đất đai là TLSX đặc biệt; (2) Đối


4

tượng của SXNN là cây trồng vật nuôi găn với môi trường tự nhiên và tuân theo
quy luật tự nhiên; (3) diễn ra trên phạm vi không gian rộng
Nông nghiệp có tầm quan trọng với các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng. Nguyễn Trung (2008) cho rằng phát triển nông nghiệp như
quốc sách qua đó tạo động lực cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Ngoài ra Nguyễn
Sinh Cúc (2003), Đặng Kim Sơn (2001) cũng khẳng định nông nghiệp là ngành bảo
đảm an ninh lương thực cho đất nước, tạo ra việc làm và thu nhập cho đại bộ phận
lao động, cung cấp đầu vào cho công nghiệp, tạo ra tích lũy vốn cho CNH, là thị
trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Ngoài ra, phát triển nông nghiệp luôn là mục
tiêu lớn của tất cả các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Trong đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam qua nhiều kỳ đại hội đều khẳng định điều này. Chẳng
hạn Đại hội V của Đảng khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu.
Nội dung của phát triển nông nghiệp như Đặng Kim Sơn (2008) và Hoàng Thị
Chính (2010) đã khẳng định là sự gia tăng sản lượng lương thực thực phẩm thông
qua chỉ tiêu giá trị SXNN. Nhưng nội dung này mới chỉ phản ánh về mặt lượng, các
nghiên cứu còn đi vào xem xét năng suất của các ngành, các sản phẩm chủ yếu
trong nông nghiệp. Không dừng ở đó các nghiên cứu còn đề cập tới nội dung sự
phát triển của các ngành trong nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu SXNN. Việc huy
động và hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất được đề cập tới, Nguyễn Xuân Thảo
(2004) và Nguyễn Sinh Cúc đề nghị đầu tư nhiều hơn cho nông nghiệp.
Tổ chức SXNN cũng được đề cập tới, ở Việt Nam những đột phá trong tổ
chức SXNN đã trở thành cú hích phát triển. Nguyễn Trung (2008) cần phải có khâu
đột phá như khoán 10 trong giai đoạn mới nhằm giải phóng năng lực sản xuất và
mở rộng quy mô SXNN qua tích tụ ruộng đất và phát triển kinh tế trang trại. Quan

điềm này cũng có trong nghiên cứu của Đặng Kim Sơn (2008), Bùi Quang Bình
(2006).
Phát triển nông nghiệp dựa trên áp dụng mô hình nông nghiệp-dịch vụ theo
như Nguyễn Xuân Quang (2010) là cần thiết. Mô hình nông nghiệp-dịch vụ lấy khu
vực nội đô và các khu công nghiệp là đối tượng phục vụ chính. Thị trường tiêu thụ


5

các sản phẩm nông nghiệp ở đây đã được xác định một cách rõ ràng. Hệ thống các
siêu thị, khách sạn, nhà hàng, các khu công nghiệp và dân cư đô thị là thị trường ổn
định và đầy tiềm năng của nông nghiệp - dịch vụ. Khi đã xác định được thị trường,
nông nghiệp - dịch vụ mới tiến hành quy hoạch các vùng chuyên canh, sản xuất
lương thực, thực phẩm phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp, đô thị và xuất
khẩu.
Từ cách tiếp cận Kinh tế học, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn (2008) đã đề xuất những
giải pháp phát triển Kinh tế nông thôn nhằm gắn kết một cách hữu cơ giữa phát
triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp, giữa Đô thị và Nông thôn, giữa Bảo hộ
SXNN và Hội nhập kinh tế toàn cầu. Trong quá trình phát triển công nghiệp, tất cả
mọi nguồn tài nguyên tự nhiên và lao động đều dần dần chuyển ra khỏi nông
nghiệp, nông thôn, chỉ có phát triển khoa học công nghệ mới tạo được thực lực để
nông nghiệp liên tục phát triển.
Michael Dower: Trong Bộ cẩm nang Đào tạo và Thông tin về phát triển nông
thôn toàn diện, người dịch: Đặng Hữu Vĩnh, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội,
2004. Cũng đã giới thiệu tổng quan về các lý thuyết phát triển nông nghiệp và nông
thôn chủ yếu, sự tiến triển của các lý thuyết này qua từng giai đoạn khác nhau và
theo các quan điểm phát triển khác nhau. Trình bày các khái niệm cơ bản về phát
triển nông thôn và sự phát triển của các khái niệm này theo thời gian và chuyển biến
KT - XH và thể chế của các nền kinh tế.
Hầu hết các công trình trên đã đề cập khá toàn diện, khái quát hoặc đi vào

phân tích từng mặt của phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề phát triển nông nghiệp ở một huyện miền núi nơi hàm chứa những đặc trưng riêng có về tiềm năng đất đai, lao động và điều kiện
tự nhiên cũng như những bức xúc đặt ra trong thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên
cứu như đề tài của luận văn này.
4. Khung nội dung nghiên cứu
- Vai trò và đặc điểm của SXNN
- Nội dung phát triển nông nghiệp


6

- Giá trị sản xuất và tăng trưởng SXNN
- Chuyển dịch cơ cấu SXNN
- Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển nông nghiệp
- Tổ chức SXNN
- Chính sách phát triển nông nghiệp
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng một loạt các phương pháp cụ thể như phân tích thống
kê, so sánh, đánh giá, tổng hợp, khảo sát thực tế, chuyên gia theo nhiều cách từ
riêng rẻ tới kết hợp với nhau.
Các phương pháp này được sử dụng để khảo cứu lý luận phát triển nông
nghiệp trong và ngoài nước để hình thành khung nội dung nghiên cứu. Khung nội
dung này cũng được bổ sung bằng việc xem xét thực tiễn phát triển nông nghiệp
Việt Nam.
Các phương pháp này còn được sử dụng để đánh giá tình hình phát triển nông
nghiệp ở huyện Bắc Trà My nhằm chỉ ra các vấn đề tồn tại cùng với các nguyên
nhân từ đó hình thành các giải pháp phát triển nông nghiệp của địa phương.
Các phương pháp thu thập tài liệu, thông tin sau được sử dụng trong nghiên
cứu:
- Kế thừa các công trình nghiên cứu trước đó.

- Tổng hợp các nguồn số liệu thông qua các báo cáo, tổng kết của các sở Ban,
Ngành trong tỉnh và huyện.
- Tìm thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: Báo chí,
Internet...
- Kết hợp các phương pháp thu thập số liệu để có dữ liệu nghiên cứu và phân
tích đầy đủ.
Cách tiếp cận:
- Tiếp cận vĩ mô: phân tích chính sách phát triển nông nghiệp của Đảng và nhà
nước;


7

- Cách tiếp cận thực chứng: Sự phát triển nông nghiệp huyện Bắc Trà My ra
sao? Lý do nào dẫn tới tình hình đó? Phương hướng và giải pháp như thế nào để
phát triển nông nghiệp huyện?
- Tiếp cận hệ thống:
+ Mối tương quan giữa phát triển kinh tế và phát triển nông nghiệp
+ Phát triển nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ;
+ Mối quan hệ giữa phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn
- Tiếp cận lịch sử: So sánh những giai đoạn khác nhau trong vận dụng đường
lối phát triển nông nghiệp Việt Nam.
6. Nguồn thông tin dữ liệu, công cụ phân tích chính
- Thứ cấp: Chủ yếu sử dụng số liệu của Niên giám thống kê huyện Bắc Trà My
từ 2003, tổng điều tra nông nghiệp nông thôn năm 2006 và các báo cáo tổng kết của
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, và của ngành nông
nghiệp huyện Bắc Trà My.
- Ý kiến của chuyên gia.
- Công cụ chính: Sử dụng chương trình sử lý số liệu bằng excel,
7. Điểm mới của đề tài

Vận dụng lý luận phát triển ngành kinh tế quốc dân vào phát triển nông nghiệp
huyện với những đặc thù của địa phương miền núi;
Đây là lần đầu tiên một nghiên cứu phát triển nông nghiệp toàn diện được áp
dụng ở huyện Bắc Trà My.
Các giải pháp được kiến nghị dựa trên tính đặc thù của địa phương sẽ hứa hẹn
có hữu ích cho hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp trong thời gian tới,
nhất là sau đại hội đảng bộ huyện và bầu cử Hội đồng nhân dân huyện.
8. Nội dung nghiên cứu: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển nông nghiệp
Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp của huyện Bắc Trà My
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp của huyện Bắc Trà My


8

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
1.1.Vai trò và đặc điểm sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Định nghĩa về nông nghiệp
Theo nghĩa thông thường, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sử dụng đất
đai và sinh vật làm ra sản phẩm nông nghiệp. Cách định nghĩa này chỉ dừng lại ở
sản xuất nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên, nền kinh tế càng phát triển thì yêu
cầu của xã hội với nông nghiệp càng cao. Nông nghiệp không chỉ đơn thuần là sản
xuất ra các sản phẩm tươi sống mà còn bao gồm cả khâu chế biến, marketing và tiêu
thụ nông sản. Do vậy, sản phẩm cuối cùng của nông nghiệp không đơn thuần là
nông sản (agro-products) mà thực phẩm nông sản (agrofoods) (Đỗ Kim Chung,
2002). Do đó, nông nghiệp cần được định nghĩa ở phạm vi rộng hơn. Nông nghiệp
là ngành sản xuất – kinh doanh làm ra thực phẩm nông sản, bao gồm cả sản xuất
nông nghiệp, chế biến, marketing và phân phối các thực phẩm nông sản.

Nông nghiệp theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp: Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao
gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. (Sau đây gọi là nông, lâm nghiệp); theo nghĩa
hẹp nó là một ngành trực tiếp trồng trọt lương thực, chăn nuôi. (Sau dây gọi là nông
nghiệp), ở luận văn này nông nghiệp được nghiên cứu theo nghĩa rộng của nó là chủ
yếu.
Nông nghiệp của các nước trên thế giới từ trước tới nay đều trải qua giai
đoạn phát triển từ thấp đến cao, gắn liền với sự tiến hoá của loài người và sự gia
tăng về dân số. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, nền nông nghiệp chủ yếu là săn
bắn hái lượm. Khi loài người tích luỹ được kinh nghiệm, công cụ sản xuất ra đời,
nền nông nghiệp được phát triển sang trồng trọt và chăn nuôi theo hướng du canh
hay du mục. Canh tác du canh, du cư gắn liền với nền canh tác đốt rẫy. Sau đó, do
sức ép về dân số và đất đai, nông nghiệp du canh chuyển sang nông nghiệp định
canh ở thời kỳ phong kiến. Tuy vậy, nền nông nghiệp du canh và du cư vẫn tồn tại
đến ngày nay ở một số vùng do một số cộng đồng đồng bào dân tộc ít người thực
hiện. Từ nền nông nghiệp định canh theo hướng quảng canh chuyển sang nông


9

nghiệp thâm canh, từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp hiện đại, nông
nghiệp tự cung và tự cấp sang nông nghiệp hàng hoá là những xu hướng cơ bản của
sự phát triển nông nghiệp trong một thế kỷ qua ở các nước đang phát triển.
Nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất có những nét đặc thù, là ngành sản xuất gắn
với đối tượng sinh vật (cây trồng, vật nuôi) bị chi phối bởi qui luật sinh học, các
điều kiện ngoại cảnh (đất đai, thời tiết khí hậu) và là ngành sản xuất ra sản phẩm tất
yếu để xã hội tồn tại và phát triển, vì thế từ lâu rất được các nhà kinh tế quan tâm và
được đề cập nhiều trong các lý thuyết kinh tế, nhất là trong các mô hình phát triển
kinh tế của các nước chậm phát triển hiện đang tiến hành CNH.
1.1.2. Vai trò của nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Nó

không chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học - kỹ thuật,
bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học cây trồng, vật nuôi. Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người
không thể ngăn cản các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà
phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động
thích hợp với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự
quan tâm thoả đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng quá trình sinh học đó nhằm tạo
ra ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát
triển kinh tế ở hầu hết cả nước, nhất là ở các nước đang phát triển. Ở những nước này
còn nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có
nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng
khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung
cấp đủ cho đời sống con người những sản phẩm tối cần thiết đó là lương thực, thực
phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện
nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu
tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển KT - XH
của đất nước. Xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng


10

cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về
số lượng, chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của các nhân tố đó là: Sự
gia tăng dân số và nhu cầu nâng cao mức sống của con người. Những vai trò cơ bản
của nông nghiệp được thể hiện như sau:
(1) Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào
cho công nghiệp và khu vực thành thị. Điều đó được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau
đây:
- Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu
vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Trong giai đoạn đầu của CNH, phần lớn dân cư sống bằng nông nghiệp và tập trung
sống ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực nông nghiệp, nông thôn thực sự là
nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Quá
trình CNH và đô thị hoá, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó
mà NSLĐ nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp
được giải phóng ngày càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát
triển công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính qui luật của mọi quốc
gia trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn và quý cho
công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá
trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của
nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường ...
- Khu vực nông nghiệp là nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho sự phát triển kinh
tế trong đó có công nghiệp, nhất là giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, bởi vì đây
là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn
từ nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân
đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu
được do xuất khẩu nông sản v.v... trong đó thuế có vị trí rất quan trọng, Kuznets cho
rằng gánh nặng của thuế mà nông nghiệp phải chịu là cao hơn nhiều so với dịch vụ
Nhà nước cung cấp cho công nghiệp. Việc huy động vốn từ nông nghiệp để đầu tư


11

phát triển công nghiệp là cần thiết và đúng đắn trên cơ sở việc thực hiện bằng cơ
chế thị trường, chứ không phải bằng sự áp đặt của Chính phủ. Những điển hình về
sự thành công của sự phát triển ở nhiều nước đều đã sử dụng tích luỹ từ nông
nghiệp để đầu tư cho nông nghiệp. Tuy nhiên vốn tích luỹ từ nông nghiệp chỉ là một
trong những nguồn cần thiết phát huy, phải coi trọng các nguồn vốn khác nữa
để khai thác hợp lý, đừng quá cường điệu vai trò tích luỹ vốn từ nông nghiệp.

(2) Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp. Ở
hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng
và TLSX được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu
vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông
thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển
mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức
mua từ khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy
công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng có thể cạnh tranh với thị
trường thế giới.
(3) Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ
lớn. Các loại nông, lâm thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các
hàng hoá công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có
ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm thuỷ sản. Xu hướng chung ở các nước
trong quá trình CNH, ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản chiếm tỷ
trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự
phát triển cao của nền kinh tế. Tuy nhiên xuất khẩu nông, lâm thuỷ sản thường bất
lợi do giá cả trên thị trường thế giới có xu hướng giảm xuống, trong lúc đó giá cả
sản phẩm công nghiệp tăng lên, tỷ giá cánh kéo giữa hàng nông sản và hàng công
nghệ ngày càng mở rộng, làm cho nông nghiệp, nông thôn bị thua thiệt. ở một số
nước chỉ dựa vào một vài loại nông sản xuất khẩu chủ yếu, như Coca ở Ghana,
đường mía ở Cuba, cà phê ở Braxin v.v... đã phải chịu nhiều rủi ro và sự bất lợi
trong xuất khẩu. Vì vậy gần đây nhiều nước đã thực hiện đa dạng hoá sản xuất và


12

xuất khẩu nhiều loại nông lâm thuỷ sản, nhằm đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể cho
đất nước.[5, tr. 22]
(4) Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền
vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như phân bón hoá học,

thuốc trừ sâu bệnh v.v... làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình canh tác
dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện
tích đất rừng v.v... Vì thế, trong quá trình phát triển SXNN, cần tìm những giải pháp
thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường.
Tóm lại, nền KTTT, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển bao gồm hai
loại đóng góp: thứ nhất là đóng góp về thị trường - cung cấp sản phẩm cho thị
trường trong và ngoài nước, sản phẩm tiêu dùng cho các khu vực khác, thứ hai là sự
đóng góp về nhân tố diễn ra khi có sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn
v.v...) từ nông nghiệp sang khu vực khác.
1.1.3. Đặc điểm nông nghiệp
Nền văn minh nông nghiệp đã tồn tại hàng vạn năm trên trái đất, cho đến nay,
nông nghiệp vẫn là ngành duy nhất sản xuất ra lương thực, thực phẩm cho con
người, người ta có thể không có (hoặc chưa có) nhiều thứ khác, nhưng không thể
thiếu lương thực, thực phẩm để sống và hoạt động. Dù cho các điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội của các quốc gia có khác nhau đến đâu, nông nghiệp vẫn mang tính
chất truyền thống lâu đời, bao gồm những quá trình chọn lọc và phát triển tự nhiên.
Vì vậy, cho dù ở thời đại nào, trình độ kỹ thuật và công nghệ nào thì nông nghiệp
vẫn giữ những đặc điểm riêng với công nghiêp. Sản phẩm của nông nghiệp là kết
quả khai thác được từ quá trình sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi, được sử dụng
dưới hai dạng chủ yếu là lương thực, thực phẩm và nguyên liệu cho công nghiệp, và
theo ngôn ngữ của KTTT hiện đại thì kinh tế nông nghiệp (cũng như quá trình
SXNN) phải bao gồm cả ba cộng đoạn sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Từ đó, có thể
nêu lên những đặc điểm của SXNN:
(1). Đối tượng của SXNN bao gồm nhiều loại cây trồng và gia súc có yêu cầu
khác nhau về môi trường, điều kiện ngoại cảnh để sinh ra và lớn lên. Vì vậy, muốn


13

đạt kết quả cao trong SXNN, cần có những hiểu biết tường tận để hoạt động sản

xuất phù hợp với các quy luật sinh học của mỗi đối tượng sản xuất. Trong thực tế,
người SXNN không hoàn toàn làm chủ được quá trình sản xuất, mà phải thường
xuyên đối phó với những diễn biến bất thường của điều kiện ngoại cảnh.
(2). Trong nông nghiệp, đất đai là những TLSX chủ yếu (hoàn toàn khác với
công nghiệp, đất đai chỉ là mặt bằng xây dựng nhà xưởng), đất đai là môi trường
sống không thể thiếu được của cây trồng và gia súc. Trong nông nghiệp, đất đai vừa
là ĐTLĐ, vừa là tư liệu lao động. Nó có những biểu hiện khác nhau về chất lượng,
nhưng nếu được sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của nó được bảo vệ và tăng lên. Độ
phì nhiêu của đất đai là một yếu tố quyết định năng suất cây trồng và NSLĐ trong
nông nghiệp. Vì vậy, bảo vệ và không ngừng làm tăng độ phì nhiêu màu mỡ của đất
đai là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của người lao động trong nông
nghiệp.
(3). SXNN có tính thời vụ nhất định: trong nông nghiệp, hai quá trình tái sản
xuất tự nhiên và tái sản xuất kinh tế liên hệ mật thiết với nhau. Thời gian lao động
không trùng khớp với thời gian sản xuất mà chỉ là một phần của thời gian sản xuất,
nằm xen kẽ trong thời gian sản xuất. Do đó, trong quá trình sản xuất, có những giai
đoạn SXNN được tái sản xuất tự nhiên không cần sự tác động của quá trình kinh tế.
Hơn nữa sản xuất có tính thời vụ nên trong nông nghiệp, lao động, máy móc và các
TLSX khác không thể sử dụng liên tục quanh năm (nhất là ngành trồng trọt). Cho
nên việc tìm những biện pháp để giảm bớt tính thời vụ trong nông nghiệp là một
nhiệm vụ của lịch sử, của các nhà kinh tế và kỹ thuật nông nghiệp. Trong thực tế,
người ta đã áp dụng nhiều biện pháp như: chuyên môn hóa sản xuất kết hợp với
kinh doanh tổng hợp, tăng vụ, xen canh gối vụ, luân canh, chế tạo những máy móc
có tính đa năng hoặc cố gắng làm giảm tối đa những hao mòn hữu hình và vô hình
của những tài sản cố định...
(4). SXNN được phân bố trên một phạm vi không gian rộng lớn và có tính khu
vực. Vì đất đai là TLSX chủ yếu nên SXNN được phân bố rộng khắp hầu như trên
các vùng lãnh thổ của cả nước. Mặt khác, do các năng lực tự nhiên của sản xuất lại



14

phân bổ không đồng đều giữa các vùng, các miền nên điều đó làm cho sản xuất
mang tính khu vực. Điều này đòi hỏi phải xác định phương hướng để đạt hiệu quả
cao nhất và tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp toàn diện.
Như vậy, đặc điểm chủ yếu của SXNN là một quá trình không phải dùng công
cụ và máy móc để chế biến nguyên liệu thành sản phẩm như trong công nghiệp mà
nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các vật sống tạo ra sản phẩm trong một
ngoại cảnh biến động. Kết quả lao động ở đây không chỉ phụ thuộc vào cường độ,
tính chất lao động, mà còn phụ thuộc có khi quyết định vào điều kiện thiên nhiên,
thời tiết. Do đó, trong nông nghiệp không thể đo lường và đánh giá lao động bằng
đơn vị giờ lao động trừu tượng cũng không thể trả công (thậm chí hạch toán) theo
khối lượng công việc đã tiến hành, không thể chuyên môn hóa hẹp theo công đoạn
sản xuất, cũng không thể tách lao động quản lý và lao động thực hiện.
Những đặc điểm của SXNN trên đây không chỉ cho thấy sự khác biệt giữa
nông nghiệp và công nghiệp, mà còn chỉ ra rằng đơn vị sản xuất cơ bản trong nông
nghiệp là từng hộ gia đình nông dân, là hộ tiểu nông hoặc nông trại, mà không phải
là xí nghiệp quy mô lớn với đông đảo công nhân như trong công nghiệp. Thích hợp
nhất đối với nông nghiệp và lao động cụ thể cùa từng hộ gia đình, gắn bó mật thiết
với đất đai, cây trồng, vật nuôi, để kịp thời ứng phó với những thay đổi bất ngờ của
ngoại cảnh và đòi hỏi của KTTT. Ngoài những đặc điểm trên đây, nông nghiệp Việt
Nam còn có những đặc điểm riêng, đó là:
(1). Nông nghiệp Việt Nam đang còn là một nền nông nghiệp lạc hậu.
Cho đến nay, nhiều nước đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, mọi
hoạt động trong SXNN đã được cơ giới hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa
và tự động hóa. Nhờ đó, năng suất ruộng đất, NSLĐ của họ đạt rất cao, tạo ra sự
phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Trong khi đó nông nghiệp nước ta đang ở trình độ rất thấp. Cơ sở vật chất, kỹ
thuật của nông nghiệp lạc hậu. Lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông
nghiệp. SXNN còn mang nặng tính tự cấp, tự túc, tỷ suất nông sản hàng hóa còn



15

thấp. Thu nhập của nông dân thấp, đời sống mọi mặt của họ còn hết sức khó khăn,
sức mua thấp. Thị trường nhỏ lẻ, phân tán, manh mún, mang tính chất mùa vụ.
(2). Nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt đới, có pha trộn tính
chất ôn đới, nhất là ở miền Bắc.
Đặc điểm này mang lại cho nông nghiệp nước ta một số thuận lợi khá cơ bản.
Chúng ta có nguồn nước phong phú, nguồn ánh sáng dư thừa, nhờ đó có thể tiến
hành SXNN quanh năm. Tập đoàn cây trồng và vật nuôi của ta phong phú, đa dạng
(có cả nhiệt đới và ôn đới), nhờ đó rất có điều kiện sản xuất những nông sản có giá
trị kinh tế cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên đặc điểm này cũng đem lại cho nông nghiệp nước ta những khó
khăn không nhỏ, đó là thường xuyên bị sâu bệnh phá hoại. Ngoài ra, bình quân đất
nông nghiệp trên một đầu người của nước ta thấp, lại phân tán manh mún cũng là
một khó khăn đáng kể. Vì vậy, trong quá trình phát triển nền nông nghiệp nước ta
theo hướng SXHH hiện đại, chúng ta cần tìm cách phát huy cao độ những mặt thuận
lợi và hạn chế đến mức tối đa những mặt khó khăn của nó, bảo đảm cho nông
nghiệp nước ta có sự phát triển nhanh và vững chắc. [ 5, tr 5-10 ]
1.2. Phát triển nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm phát triển nông nghiệp
Khái niệm tăng trưởng kinh tế: Theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh
tế của kinh tế học phát triển, tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế diễn tả
động thái biến đổi về mặt lượng của nền kinh tế của một quốc gia. Để đo lường kết
qủa sản xuất xã hội hàng năm, dùng làm thước đo so sánh quốc tế về mặt lượng của
trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, các nước có nền KTTT vẫn thường sử
dụng 2 loại chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Tổng sản phẩm quốc dân ( Gross National
Product, viết tắt là GNP), tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product, viết tắt
là GDP). Hai chỉ tiêu này khi sử dụng có tác dụng khác nhau: GNP phản ánh quá

trình gia tăng giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với các
nước có nền kinh tế mở đã khá phát triển, còn GDP phản ánh quá trình gia tăng giá
trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của quốc gia đối với những nước có nền kinh


16

tế khép kín hoặc đã mở nhưng còn chậm phát triển; và do đó cùng dẫn theo mức
tăng tương ứng của các chỉ tiêu đó tính theo bình quân đầu người dân. Các chỉ tiêu
này phản ánh mức tăng trưởng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của mỗi quốc gia sau
một giai đoạn nhất định nào đó được biểu thị bằng chỉ số % (thường là 1 năm).
Theo đó, liên hệ với việc vận dụng vào Việt Nam suốt hơn 20 năm đổi mới, chúng
ta vẫn sử dụng chỉ số GDP và tương ứng theo GDP/người là phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế hiện tại của nước ta và thông lệ quốc tế. [ 8, tr. 1 ]
Khái niệm phát triển kinh tế: Cũng theo lý thuyết tăng trưởng và phát triển
kinh tế của kinh tế học phát triển: Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản
ánh rộng hơn so với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về
cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp:
GNP, GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc
bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc
hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của nền KT -XH, mà trước hết là sự chuyển
dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao
mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí
như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí,
bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỷ thuật vào phát
triển KT - XH…[ 8, tr.1 ]
Với nội hàm rộng lớn trên đây, về cơ bản khái niệm phát triển kinh tế đã đáp
ứng được các nhu cầu đặt ra cho sự phát triển toàn diện nhiều lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội… Tuy nhiên như đã biết, trong khoảng hơn hai thập niên vừa qua, do xu
hướng hội nhập, khu vực hoá, toàn cầu hoá phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn nên

đã nảy sinh nhiều vấn đề dù là ở phạm vi từng quốc gia, lãnh thổ riêng biệt, song lại
có ảnh hưởng chung đến sự phát triển của cả khu vực và toàn thế giới, trong đó có
những vấn đề cực kỳ phức tạp, nan giải đòi hỏi phải có sự chung sức của cả cộng
đồng nhân loại, ví dụ như: môi trường sống, thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng
bố… Từ đó đòi hỏi sự phát triển của mỗi quốc gia, lãnh thổ và cả thế giới phải được
nâng lên tầm cao mới cả về chiều rộng và chiều sâu của sự hợp tác, phát triển.


17

Khái niệm phát triển nông nghiệp: Thuật ngữ phát triển nông nghiệp được
dùng nhiều trong đời sống kinh tế và xã hội. Theo GS.TS Đỗ Kim Chung cho rằng:
Phát triển nông nghiệp thể hiện quá trình thay đổi của nền nông nghiệp ở giai đoạn
này so với giai đoạn trước đó và thường đạt ở mức độ cao hơn cả về lượng và về
chất. Nền nông nghiệp phát triển là một nền sản xuất vật chất không những có nhiều
hơn về đầu ra (sản phẩm và dịch vụ) đa dạng hơn về chủng loại và phù hợp hơn về
cơ cấu, thích ứng hơn về tổ chức và thể chế, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của xã hội về
nông nghiệp. Trước hết, phát triển nông nghiệp là một quá trình, không phải trong
trạng thái tĩnh. Quá trình thay đổi của nền nông nghiệp chịu sự tác động của quy
luật thị trường, chính sách can thiệp vào nền nông nghiệp của Chính phủ, nhận thức
và ứng xử của người sản xuất và người tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ tạo ra
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp khác với tăng trưởng nông nghiêp: Tăng trưởng nông
nghiệp chỉ thể hiện rằng ở thời điểm nào đó, nền nông nghiệp có nhiều đầu ra so với
giai đoạn trước, chủ yếu phản ánh sự thay đổi về kinh tế và tập trung nhiều về mặt
lượng. Tăng trưởng nông nghiệp thường được đo bằng mức tăng thu nhập quốc dân
trong nước của nông nghiệp, mức tăng về sản lượng và sản phẩm nông nghiệp, số
lượng diện tích, số đầu con vật nuôi. Trái lại, phát triển nông nghiệp thể hiện cả về
lượng và về chất. Phát triển nông nghiệp không những bao hàm cả tăng trưởng mà
còn phản ánh các thay đổi cơ bản trong cơ cấu của nền nông nghiệp, sự thích ứng

của nông nghiệp với hoàn cảnh mới, sự tham gia của người dân trong quản lý và sử
dụng nguồn lực, sự phân bố của cải và tài nguyên giữa các nhóm dân cư trong nội
bộ nông nghiệp và giữa nông nghiệp với các ngành kinh tế. Phát triển nông nghiệp
còn bao hàm cả kinh tế, xã hội, tổ chức, thể chế và môi trường.
Tăng trưởng và phát triển nông nghiệp có quan hệ với nhau. Tăng trưởng là
điều kiện cho sự phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, cần thấy rằng do chiến lược
phát triển nông nghiệp chưa hợp lý mà có tình trạng ở một quốc gia có tăng trưởng
nông nghiệp nhưng không có phát triển nông nghiệp, hay còn gọi là phát triển nông
nghiệp kém bền vững.


18

1.2.2. Lý thuyết kinh tế về phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quốc dân, một trong những bộ phận chủ yếu
của sản xuất vật chất, sản xuất thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công
nghiệp. Trong nông nghiệp, việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với quá
trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất.
D.Ricardo cho rằng do quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông
sản tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên, còn lợi nhuận
không tăng. Như vậy, người địa chủ là người có lợi, công nhân không được lợi và
cũng không bị hại còn nhà tư bản bị thiệt do tỷ suất lợi nhuận giảm. Công lao to lớn
của Ricardo là phân tích địa tô. Điểm nổi bật của ký thuyết địa tô được ông phân
tích dựa trên cơ sở lý thuyết về lao động. Tuy nhiên, hạn chế quan trọng nhất trong
lý thuyết địa tô của D.Ricardo là không thừa nhận địa tô tuyệt đối. [ 5, tr. 65]
C.Mác đã giành sự quan tâm đáng kể cho việc nghiên cứu về vấn đề địa tô.
Sau khi nghiên cứu lý luận địa tô của các học giả trước Mác, như Anđiexơn,
A.Smith, D.Ricardo Mác đã bình luận, phê phán sâu sắc những quan điểm, nội dung
về lý luận địa tô của các học giả này. Địa tô chênh lệch I được tạo thành là do mức
độ phì nhiêu tự nhiên của ruộng đất và vị trí địa lý của thửa đất, ảnh hưởng đến độ

phì nhiêu tự nhiên của đất. Địa tô chênh lệch II được tạo thành do đầu tư tư bản
khác nhau trên cùng một thửa đất. C.Mác nhấn mạnh địa tô chênh lệch I là tiền đề,
là điểm xuất phát để tạo thành địa tô chênh lệch II. Trong học thuyết về địa tô, Mác
chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong những điều kiện khác nhau, sự khác
nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và chất lượng của đất đai mà còn do sự khác
nhau về cách thức đầu tư tư bản vào ruộng đất. [ 5, tr. 66 ]
Lý thuyết phát triển cân đối của R.Nurkse, là người đi tiên phong trong lý
thuyết phát triển, ông cho rằng cần đầu tư vốn đồng bộ để phát triển rộng rãi các
ngành khác nhau, bởi đây là cách duy nhất để tránh khỏi vòng tròn luẩn quẩn của
nghèo đói. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối cho rằng các nước
chậm phát triển không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng trưởng bền vững


19

bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia, mà cần tập trung
tài nguyên, vốn, năng lực quản lý vào những ngành chủ yếu. [ 5, tr. 67 ]
Mô hình hai khu vực của A.Lewis. Trong mô hình Lewis, nền kinh tế kém
phát triển có hai khu vực. Thứ nhất là khu vực nông thôn mang tính truyền thống.
Thứ hai là khu vực công nghiệp thành thị hiện đại, năng suất cao. Ông cho rằng
khó thực hiện phát triển công nghiệp thông qua thu hút lao động dư thừa từ nông
nghiệp và vì vậy phải đầu tư cho cả nông nghiệp để nâng cao trình độ kỹ thuật ở
khu vực này. [ 5, tr. 68 ]
Phát triển nông nghiệp theo Torado (1990) là quá trình phát triển chuyên môn
hóa sản xuất và thực hiện thay đổi cải tiến công cụ sản xuất. Nghĩa là phát triển
nông nghiệp phải thay đổi cả tổ chức sản xuất và kỹ thuật sản xuất.
Lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow còn được gọi là mô
hình suy diễn lịch sử đã chia tiến trình kinh tế thành năm giai đoạn: Giai đoạn xã
hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai đoạn cất cánh, giai đoạn hướng
tới sự chín muồi kinh tế và giai đoạn kỷ nguyên tiêu dùng cao. [ 5, tr. 70]

Tóm lại: Trong số những lý thuyết đó còn có thuyết phân tích sâu hơn: cách
làm thế nào để nông nghiệp phát triển và đi từ đâu. Có thể khái quát một số nội
dung sau:
Ricacdo cho rằng đất đai là nguồn gốc của sự phát triển nông nghiệp do
vậy phải biết khai thác và sử dụng chúng một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Trong học thuyết về địa tô, Mác chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp
trong những điều kiện khác nhau, sự khác nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và
chất lượng của đất đai mà còn do sự khác nhau về cách thức đầu tư tư bản vào
ruộng đất. Và việc đầu tư tư bản vào ruộng đất phụ thuộc vào chính những thay đổi
về kỹ thuật, thâm canh.
Quan điểm của Harrod-Domar thì đầu tư được xem xét là rất quan trọng. Đất
đai là một trong những tài sản quan trọng nhất của người nông dân và khả năng sử
dụng đất đai như một tài sản thay thế vốn đi vay.
Còn theo Lewis nông nghiệp là khu vực dư thừa lao động; gia đình là đơn vị


20

cơ sở với đặc điểm có thể sử dụng lao động trên tuổi (người già) và là khu vực cần
nhiều lao động trong khi đó các ngành công nghiệp được xem là những ngành cần
nhiều vốn và lợi nhuận là mục tiêu cơ bản.
1.2.3. Nội dung phát triển nông nghiệp
Chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2020 nêu rõ: mục tiêu phát triển
nông nghiệp trong thời gian tới là tiếp tục giữ vững an ninh lương thực quốc gia
trên cơ sở duy trì quy mô sản xuất lương thực ổn định; chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng nông sản để tăng khả
năng cạnh tranh. Gắn sản xuất nguyên liệu với mở rộng chế biến bằng công nghệ
thích hợp, tăng cường xúc tiến thương mại, thông tin thị trường nông sản để tăng
khả năng tiêu thụ. Tạo nhiều việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn để thu hút lao
động mới chưa có việc làm, lao động nhàn rỗi thời vụ có thêm nguồn thu nhập góp

phần giảm nhanh nghèo đói. Tăng cường phúc lợi cho người dân nông thôn trên cơ
sở mở rộng hệ thống dịch vụ xã hội để người dân tiếp cận với các dịch vụ, đồng thời
nâng cao dân trí cho dân cư đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa.
Nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia, trong thời gian
tới ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tập trung vào các lĩnh vực then
chốt sau đây:
*Nội dung phát triển nông nghiệp về kinh tế
Theo chiều rộng: Đó là việc mở rộng quy mô sản xuất bằng cách mở rộng
diện tích canh tác (khai hoang, phục hóa), với phương thức canh tác cũ (đối với
trồng trọt), gia tăng quy mô chăn nuôi đầu con gia súc, gia cầm (đối với chăn nuôi),
tăng diện tích nuôi thủy sản. Việc làm này có giới hạn vì đất đai được giới hạn bởi
một quốc gia, bởi một đơn vị hành chính và nguồn tài nguyên, thuỷ sản khai thác
cũng không phải vô hạn.
Theo chiều sâu: Đối với trồng trọt thì gia tăng diện tích gieo trồng bằng cách
tăng hệ số sử dụng đất canh tác nhờ biện pháp thuỷ lợi, nhờ cải tiến giống ngắn
ngày, nhờ chế độ luân canh cây trồng hợp lý. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với
cây ngắn ngày, không sử dụng đối với cây hàng năm, cây dài ngày. Đối với trồng


21

trọt thì gia tăng giá trị sản phẩm trên 1 đơn vị diện tích được đo bằng gia tăng năng
suất đất đai hay bằng tăng năng suất cây trồng nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật hoặc do đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Mặt khác, đối với chăn nuôi thì
gia tăng sản phẩm trong thời gian ngắn hơn hoặc gia tăng sản phẩm trên một đầu gia
súc, gia cầm nhờ cải tiến phương thức nuôi và áp dụng giống mới của tiến bộ khoa
học kỹ thuật. Đối với thủy sản nuôi gia tăng sản phẩm cũng nhờ phương thức nuôi
và áp dụng giống mới, riêng với khai thác thì phụ thuộc nhiều vào phương thức
khai thác hợp lý và bảo tồn thiên nhiên.
Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh

mún, phân tán bằng biện pháp dồn điền đổi thửa; tiến tới xây dựng các mô hình sản
xuất có quy mô lớn hơn phù hợp với yêu câu sản xuất hàng hoá, phù hợp cho
chuyển giao kỹ thuật công nghệ.
Phát triển sản xuất gắn với tăng cường hệ thống chế biến và mở rộng thị
trường tiêu thụ nông-lâm-thuỷ sản; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi và cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Chú trọng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường.
Giải quyết tốt quy hoạch SXNN, quy hoạch bố trí khu công nghiệp và phát
triển ngành nghề, bố trí cấp nước và xử lý chất thải sản xuất và chất thải sinh hoạt ở
nông thôn để ngăn chặn ô nhiểm.
Chú trọng thâm canh nô n g n g h iệ p vì đ â y là phương thức sản xuất tiên
tiến nhằm tăng sản lượng nông sản bằng cách nâng cao độ phì nhiêu kinh tế của
ruộng đất, thông qua việc đầu tư thêm vốn và kỹ thuật mới vào SXNN.
*Nội dung phát triển nông nghiệp về xã hội
Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn liền với vấn đề xóa đói, giảm nghèo,
nâng cao mức sống của cư dân nông thôn. Khu vực nông nghiệp, nông thôn là khu
vực tập trung đông dân cư. Không chỉ có riêng Việt Nam mà hầu hết các quốc gia
trên thế giới, khu vực nông nghiệp vốn là khu vực phát triển chậm nhất, đời sống
của cư dân nông thôn phần lớn vẫn ở tình trạng nghèo đói so với mỗi quốc gia. Tuy


22

nhiên để vượt qua vòng luẩn quẩn nghèo đói ở khu vực nông nghiệp là hết sức khó
khăn. Cùng với sự gia tăng của hàng loạt các tệ nạn xã hội gây mất ổn định không
chỉ khu vực nông nghiệp, nông thôn mà nó tạo ra áp lực đè nặng lên nền kinh tế
quốc dân. Để giải quyết được vấn đề đó thì không còn con đường nào khác là phải
tập trung các nguồn lực để vực dậy sự phát triển của khu vực nông nghiệp, nông
thôn. Việc phát triển của khu vực nông nghiệp, nông thôn phải nhằm thực hiện được

mục tiêu cao nhất đó là xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của dân cư, giải
quyết việc làm. Chỉ khi đó sự phát triển mới thực sự bền vững.
*Nội dung phát triển nông nghiệp về môi trường
Môi trường là nguồn cung cấp mọi nguyên liệu mà việc phát triển kinh tế
phải dựa vào nó. Kinh tế phụ thuộc vào năng suất của các tài nguyên thiên nhiên.
Do đó, “sức khỏe” lâu dài của môi trường có tầm quan trọng sống còn. Hiện nay
trong SXNN không phải mọi hoạt động đều thân thiện với môi trường và tài nguyên
thiên nhiên đã bị giảm sút nghiêm trọng.
Phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường.
Ngành nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp tới các điều kiện tài nguyên môi
trường. Cụ thể ở đây đó là quá trình sản xuất nông nghiệp liên quan trực tiếp tới các
yếu tố tài nguyên như đất, nước, rừng, thủy hải sản… Bên cạnh đó khu vực nông
nghiệp, nông thôn là khu vực có trình độ dân trí thấp. Do trình độ KH - KT còn lạc
hậu, trình độ nhận thức của người sản xuất còn hạn chế nên trong quá trình sản xuất,
các yếu tố đầu vào của sản xuất đã bị sử dụng một cách thiếu tổ chức, thiếu khoa
học. Cụ thể ở đây đó là sự ô nhiễm của nguồn nước, sự suy thoái của đất nông
nghiệp do lạm dụng hóa chất, diện tích rừng giảm do chặt phá để lấy đất trồng cây
công nghiệp, sự cạn kiệt của các nguồn lợi thủy sản do khai thác quá mức với
những phương tiện đánh bắt mang tính hủy diệt. Hậu quả của những vấn đề trên
đang tác động trực tiếp ngay tới toàn bộ khu vực nông nghiệp, nông thôn: Diện tích
đất hoang hóa, rừng trọc có diện tích ngày càng tăng, sản lượng đánh bắt thủy hải
sản gần bờ có xu hướng giảm. Chính vì vậy việc phát triển nông nghiệp, nông thôn


23

gắn với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa quan trọng. Bảo vệ tài nguyên môi
trường chính là bảo vệ sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp.
1.3. Tiêu chí phát triển nông nghiệp
1.3.1. Tiêu chí về phát triển kinh tế

Tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp: Tổng GTSX là toàn bộ giá trị của
cải vật chất và dịch vụ do lao động sản xuất xã hội tạo ra trong một thời kỳ nhất
định ( thường là 1 năm) Tổng GTSX bao gồm giá trị sản phẩm vật chất (TLSX và
vật phẩm tiêu dùng), giá trị sản phẩm dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất và
phục vụ nhu cầu tiêu dùng cho đời sống của dân cư và xã hội. GTSX phải là kết quả
hữu ích của hoạt động sản xuất trong kỳ. Xét theo yếu tố cấu thành giá trị thì tổng
GTSX bao gồm cả 3 yếu tố là: (Chi phí trung gian, thù lao của người lao động, giá
trị thặng dư).
Tổng GTSX được tính bằng cách cộng GTSX của các ngành kinh tế quốc dân
hoạt động trên lãnh thổ của địa phương trong năm. GTSX của từng ngành phải tính
cho từng thành phần kinh tế là đơn vị thường trú sau đó tổng hợp lại. Loại trừ
những đơn vị không thường trú khi chỉ tính chỉ tiêu tổng GTSX. Trường hợp trong
một đơn vị sản xuất kinh doanh gồm nhiều hoạt động sản xuất thuộc nhiều ngành
kinh tế khác nhau, chỉ tính GTSX của hoạt động chính còn các ngành khác phải
chuyển về những ngành kinh tế tương ứng.
Tổng GTSX bao gồm toàn bộ giá trị của các yếu tố chi phí trung gian và giá
trị mới tăng thêm. Mặt khác tổng GTSX được sử dụng cho nhu cầu sản xuất, cho
tiêu dùng cuối cùng, cho tích lũy tài sản và xuất khẩu ra nước ngoài. Tổng GTSX
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân đã tính trùng giữa các ngành phần chi phí trung
gian. Mức độ trùng lặp của tổng GTSX phụ thuộc vào mức độ chi tiết của phân
ngành kinh tế quốc dân nghĩa là càng phân ngành chi tiết thì mức độ trùng chi phí
trung gian giữa các ngành càng cao vì vậy tổng GTSX càng lớn.
GTSX chỉ tính những kết quả hoạt động sản xuất trong kỳ, loại trừ kết quả sản
xuất của kỳ trước chuyển qua ( giá trị sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho, hàng
gửi bán phải lấy chênh lệch giữa cuối kỳ và đầu kỳ).


24

Giá cả dùng để tính chỉ tiêu GTSX là giá thực tế bình quân kỳ nghiên cứu.

Trong trường hợp muốn so sánh nghiên cứu biến động GTSX giữa các thời kỳ thì
GTSX phải tính theo giá so sánh hoặc giá cố định.
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô sản lượng của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, thông thường quy mô sản lượng đầu
ra được phản ánh qua quy mô GDP. Trường hợp một số địa phương chưa thực
hiện chỉ tiêu thống kê này một cách thường xuyên thì quy mô sản lượng đầu ra
được phản ánh qua quy mô của GTSX.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế là điều kiện quyết định thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của quốc gia. Nền kinh tế buộc phải đạt được và duy trì mức độ tăng
trưởng nhất định thì mới tạo cho nền kinh tế phát triển. Do vậy, tăng trưởng giá
trị SXNN là sự gia tăng về quy mô giá trị sản lượng của nông nghiệp trong một
thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Mức tăng trưởng thường được phản ánh bằng chênh lệch quy mô giá trị
SXNN thực tế giữa năm nghiên cứu và năm gốc theo công thức sau:
- Mức tăng trưởng: GTSXNNt – GTSXNNt-1
- % Tăng trưởng:

GTSXNNt - GTSXNNt-1
GTSXNNt-1

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Cơ cấu là khái niệm trong triết học
nhằm để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất
của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Nếu coi nền kinh tế
quốc dân như một hệ thống với nhiều bộ phận cấu thành và các kiểu cơ cấu hợp
thành chúng. Theo thời gian khi nền kinh tế vận động và phát triển thì các bộ phận
và các kiểu cơ cấu đó cũng thay đổi. Do đó, CCKT được hiểu là tổng thể những mối
quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận cấu thành đó trong một thời
gian và trong những điều kiện KT - XH nhất định (Vũ Tuấn Anh 1982). Mối quan
hệ về số lượng giữa các bộ phận cấu thành có thể biểu hiện qua tỷ trọng của mỗi
ngành trong GDP, trong tổng lao động hay tổng vốn của nền kinh tế tại một thời



25

điểm nào đó. Nếu xem xét theo thời gian và trong mối quan hệ giữa các yếu tố đó sẽ
phản ánh mối quan hệ về chất lượng mà thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu.
Cơ cấu ngành là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện
mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành
với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện KT XH nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Như vậy
cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo đúng nội dung và bản chất của nó.
Mặt khác, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các
ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số và chất lượng. Mặt số lượng
thể hiện tỷ trọng ( tính theo GDP, lao động, vốn v.v) của mỗi ngành trong tổng thể
nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng của
từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau.
Chuyến dịch cơ cấu là sự thay đổi của CCKT theo thời gian từ trạng thái và
trình độ này tới một trạng thái và trình độ khác phù hợp với sự phát triển kinh tế xã
hội và các điều kiện vốn có nhưng không lặp lại trạng thái cũ. Chính điều này mà
CCKT phản ánh sự thay đổi về chất và là cơ sở để so sánh các giai đoạn phát triển.
CCKT chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực
(Lê Khoa 2003), vốn, công nghệ, thị trường, và chính sách. Nhưng cũng có cách
phân loại các nhân tố theo khía cạnh đầu vào như các nguồn tự nhiên, nguồn lực
con người, vốn, hay khía cạnh đầu ra chẳng hạn thị trường, thói quen tiêu dùng và
nhóm nhân tố về cơ chế (Bùi Tất Thắng 2006). Nhưng dù phân chia theo cách nào
thì đều khẳng định CCKT của mỗi nước hay địa phương hình thành và thay đổi tuỳ
theo sự thay đổi của các yếu tố này. Trong quá trình phát triển kinh tế, CCKT
(đặc biệt là cơ cấu ngành) luôn chuyển dịch theo một xu hướng nào đó qua đó
thay đổi trình độ phát triển kinh tế. Quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia có
5 giai đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, trưởng thành và tiêu
dùng cao, mỗi giai đoạn đó có một CCKT đặc trưng (Walter W. Rostow1960).

Nhưng tính quy luật được quan tâm và sử dụng để đánh giá nhiều nhất trong chuyển


×