Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

VẤN đề bảo vệ tốt NHẤT QUYỀN và lợi ÍCH của KHÁCH HÀNG KHI HÀNH NGHỀ LUẬT sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.79 KB, 39 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN : PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ

TÊN ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ BẢO VỆ TỐT NHẤT QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA KHÁCH
HÀNG KHI HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ.
LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG HIỆN NAY Ở VIỆT NAM

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2017


2
MỤC LỤC

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


3

GIỚI THIỆU
Trong công cuộc đổi mới và xu thế hội nhập, vai trò của người luật sư ngày càng
được khẳng định, có nhiều cơ hội cho giới luật sư thể hiện mình và đóng góp cho sự nghiệp
chung. Như vậy, có thể nói môi trường xã hội và môi trường pháp lý tại Việt Nam hiện nay
cho hoạt động luật sư rất thuận lợi.
Xuất phát từ tính chất nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư cung cấp dịch vụ pháp
lý theo yêu cầu của khách hàng để nhận thù lao từ khách hàng, nên sự phát triển về số lượng
của luật sư trước hết là nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội. Cùng với sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là
của doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ
nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng.


Trong tổng thể các mối quan hệ giữa luật sư với các chủ thể khác nhau trong hành
nghề luật sư, quan hệ luật sư – khách hàng là mối quan hệ nền tảng làm phát sinh các quan
hệ khác;
Để duy trì và phát triển nghề luật sư theo hướng bền vững, tiến bộ theo thời gian, mỗi
luật sư phải hiểu được bản chất mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng, thấy được bổn
phận trách nhiệm của luật sư trong hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng để
từ đó củng cố lòng tin của khách hàng vào luật sư, góp phần xây dựng hình ảnh cao đẹp của
người luật sư trong xã hội. Một trong những nguyên tắc hành nghề, chuẩn mực quy tắc đạo
đức và ứng xử nghề nghiệp cao nhất của luật sư là “bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của
khách hàng”, không làm xấu đi tình trạng của khách hàng. Theo đó, nhiệm vụ phải bảo vệ
tốt nhất lợi ích của khách hàng đã và đang trở thành vấn đề đáng chú ý trong xu thế nghề
luật sư đang ngày càng phát triển.
Về pháp lý, quan hệ luật sư – khách hàng là một loại quan hệ dân sự, cụ thể là quan
hệ hợp đồng dịch vụ chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trong quan hệ này, các quyền
và nghĩa vụ của luật sư với khách hàng được thiết lập trên cơ sở tự nguyện của hai bên. Tuy
nhiên, vì là loại quan hệ dịch vụ pháp lý nên còn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp
luật khác trong hệ thống pháp luật về luật sư.
Danh dự, uy tín, trạng thái tích cực hay tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp của luật
sư gắn liền với quá trình thực hiện mối quan hệ này. Do vậy, tính chất đạo đức trong hành vi
ứng xử của luật sư có thể nói là bản chất của mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng, là
một trong những yếu tố góp phần quyết định sự thành công trong nghề nghiệp của luật sư.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


4

CHƯƠNG I: VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ NGHĨA VỤ CỦA LUẬT SƯ TRONG
HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Vị trí của Luật sư trong vấn đề bảo vệ con người:

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước dân chủ, nhà nước
"của dân, do dân, vì dân" các quyền con người được Hiến pháp ghi nhận và đảm bảo thực
hiện: "Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và luật". Để đảm bảo quyền con người, nhà nước thực hiện thông qua
nhiều thiết chế khác nhau, trong đó các tổ chức xã hội đóng một vai trò không nhỏ trong
việc thực hiện quyền con người. Tổ chức Luật sư là một tổ chức xã hội nghề nghiệp được
thành lập để hổ trợ nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp. Với ví trí, vai trò của mình,
Tổ chức luật sư mà cụ thể là các Luật sư đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
1.1.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động tư vấn pháp luật
Do trình độ dân trí của nước ta còn thấp, một bộ phận người dân chưa am hiểu pháp
luật, do đó khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế, lao động... họ không biết
được quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật quy định như thế nào nên không thể bảo
vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình; do đó luật sư lúc này là chổ dựa tốt
nhất của người dân.
Theo số liệu thống kê của Chiến lược Phát triển nghề luật sư đến năm 2020, "trong 6
năm (2005 - 2010), riêng lĩnh vực tư vấn pháp luật, đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 145.000
vụ việc tư vấn pháp luật, 50.000 vụ việc về dịch vụ pháp lý khác.
Ngoài lĩnh vực truyền thống như hình sự, dân sự, lao động, hôn nhân gia đình các
luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh tế, đầu tư, thương mại quốc
tế. Nhiều luật sư đã trưởng thành nhanh chóng, tham gia tư vấn những hợp đồng thương
mại, dự án đầu tư lớn đạt kết quả tốt, được khách hàng trong nước và nước ngoài hài lòng
và tin tưởng, tạo được sự tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế.
Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu đã xây dựng được thương hiệu của mình trên thị
trường trong nước và khu vực, trở thành “đối tác” cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật
sư nước ngoài.
Ngay trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại vai trò luật sư trong việc giúp đỡ người dân
trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cũng hết sức cần thiết. Do trình độ, năng
lực của một số cán bộ, công chức ở nước ta còn thấp nên không ít các quyết định hành

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


5

chính, hành vi hành chính được ban hành, thực hiện trái Hiến pháp, trái luật xâm phạm
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công dân. Đặc biệt là trong các lĩnh vực như quản lý đất
đai (thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư vv...), trong lĩnh vực xử lý vi
phạm hành chính (xử phạt hành chính, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính,
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính, buộc thá dỡ công trình xây dựng trái phép vv...)
điều này làm phát sinh các tranh chấp hành chính dẫn đến việc khiếu nại, khiếu kiện của
người dân. Theo Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2012 và 6 tháng đầu năm
2013 trên địa bàn các tỉnh Miền Trung – Tây Nguyên, của Cục trưởng, Cục Thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo khu vực 2 (Cục II), Thanh tra Chính phủ, năm 2012, tình hình khiếu
nại, tố cáo trên địa bàn các tỉnh, thành phố khu vực Miền Trung - Tây Nguyên có những
diễn biến phức tạp, khiếu kiện có chiều hướng gia tăng. Tình hình khiếu kiện đông người
xảy ra ở 11/18 địa phương, số lượng đơn thư, vụ việc phát sinh còn nhiều; các địa phương
đã tập trung giải quyết được 12.871/ 14.387 đơn thư thuộc thẩm quyền, đạt 89,46%.
Trong 6 tháng đầu năm 2013, các địa phương trong khu vực Miền Trung Tây Nguyên
đã tiếp 32.554 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo với 18.019 vụ việc; tiếp nhận và xử lý
21.354 đơn thư khiếu nại, tố cáo. Trong đó, có 8,043 đơn thuộc thẩm quyền. Do đây là tranh
chấp giữa một bên là cơ quan công quyền và một bên là công dân, tổ chức nên người dân
thường yếu thế nếu họ không nắm vững pháp luật, vì vậy họ phải tìm đến luật sư. Luật
Khiếu nại 2011 quy định người khiếu nại có quyền "Nhờ luật sư tư vấn về pháp luật hoặc
ủy quyền cho luật sư khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình".

1.1.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động tố tụng
Trong lĩnh vực tố tụng đặc biệt là tố tụng hình sự, vai trò của luật sư trong việc bảo
vệ quyền con người càng được thể hiện rõ nét hơn. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng
không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần

trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được
nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm.
Trong hoạt động tham gia tố tụng, "theo số liệu thống kê trong 6 năm (2005 - 2010),
đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 85.000 vụ án hình sự, 53.000 vụ việc về dân sự, 3.500 vụ
việc về kinh tế, 1.500 vụ việc về lao động, 2.800 vụ việc về hành chính, tăng cường bảo
đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp.
Trong những năm qua tỷ lệ luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự đã có
bước chuyển nhất định, "giai đoạn 2009-2013 đội ngũ luật sư đã tham gia hơn 51.100 vụ án
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


6

hình sự, hơn 39.600 vụ án dân sự, hơn 5000 vụ án kinh tế"[6]... qua đó bảo vệ quyền lợi ích
của công dân, bảo vệ công lý, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.

1.2. Vai trò:
1.2.1. Vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các
đương sự trước Toà
Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo và các đương sự trước Toà không phải ở mọi lúc, mọi nơi được tôn trọng. Ở
những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm linh, thần
cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát
triển thậm chí không có nghề luật sư.
Nghề luật sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ, phát
triển. Để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà
chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật sư khi tham gia
bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc

bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội.
Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau. Ở Nhật Bản
trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao sự hoà thuận,
tránh cưỡng ép. Các quy phạm với chế tài là sự hổ thẹn và trách cứ đủ để duy trì trật tự xã
hội ở Nhật Bản. Tuy nhiên ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đặc biệt là sau đại chiến thế
giới lần thứ II vai trò của pháp luật đã được thừa nhận trong xã hội Nhật Bản, nghề luật sư
đã được hình thành và ngày càng phát triển.
Tuỳ theo quốc gia khác nhau mà pháp luật có vai trò quan trọng khác nhau. Ở Pháp
trong một thời gian dài pháp luật chỉ đóng vai trò thứ yếu. Pháp luật chỉ tồn tại ở khía cạnh
luật nội dung mà không có luật hình thức, luật nội dung không có bảo đảm của luật tố tụng,
pháp luật tồn tại bên ngoài Toà án, bên ngoài các vụ kiện. Cái mà được gọi là pháp luật lại
đối lập với tư pháp và không được mọi người quan tâm. Các nhà doanh nghiệp chỉ quan tâm
đến khía cạnh thương mại của một hợp đồng mà không quan tâm đến khía cạnh pháp lý của
nó. Pháp luật chưa được xã hội tôn trọng
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa dạng. Sự đa
dạng này xuất phát từ đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ thống pháp luật
của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề luật sư nhưng đều có chung
một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


7

công lý. Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật sư và tính
chất của nghề tự do trong tổ chức hành nghề luật sư.
Tại Việt Nam, luật sư có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức và gốp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc sống hàng ngày công dân thường có nhiều mối quan hệ với nhau và với
cơ quan, tổ chức. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh những mâu thuẫn, động chạm
đến quyền lợi của mỗi bên. Đặc biệt là những vấn đề phải giải quyết bằng con đường Tòa án

mà ở đây những quyền cơ bản của công dân dễ bị đụng chạm nhất. Thường công dân bị hạn
chế bởi trình độ văn hóa, sự hiểu biết pháp luật nên khó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình một cách đầy đủ và toàn diện. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp cho
công dân về mặt pháp lý. Luật sư là người am hiểu pháp luật có kinh nghiệm trong hoạt
động pháp luật, là người giúp cho công dân về mặt pháp lý có hiệu quả nhất khi có những
vụ việc xảy ra liên quan đến pháp luật, nhất là những vụ việc ở Tòa án.
Trong thời gian qua, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã bảo đảm thực hiện tốt
nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, góp phần quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm của cải cách tư pháp. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc tham gia tố tụng của
các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự
khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ
sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Thông qua hoạt động bào chữa, tranh tụng tại Tòa án, luật sư đã góp phần làm giảm
thiểu các vụ án oan, sai, đã xuất hiện nhiều tấm gương luật sư xuất sắc trên diễn đàn “Pháp
đình”, vị thế của luật sư trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao.
1.2.2. Vai trò của luật sư trong hoạt động tư vấn pháp luật góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
Luật sư trước hết là một chuyên gia pháp luật, là một cố vấn pháp luật mà ở họ có
những kỹ năng nghề nghiệp thực thụ. Để công chúng, các nhà kinh doanh tuân thủ pháp luật
và tin tưởng vào sự công bằng, bình đẳng của pháp luật thì những người hành nghề luật sư
phải tự mình tôn trọng pháp luật. Đó là lý do vì sao nghề luật sư phải được pháp luật điều
chỉnh chặt chẽ để duy trì lòng tin của xã hội và giới kinh doanh. Ngoài những quy định trên
còn có những quy tắc nghề nghiệp bổ sung cho các quy định của pháp luật.
Bên cạnh hoạt động tranh tụng, luật sư còn nhận làm tư vấn pháp luật cho cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước bằng hình thức ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý. Luật sư thực
hiện tư vấn trong nhiều lĩnh vực pháp luật, soạn thảo các văn bản pháp luật, soạn thảo di
chúc, hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán bất động sản, soạn
thảo giấy tờ pháp lý của công ty... Lĩnh vực hoạt động soạn thảo văn bản có liên quan đến
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH



8

pháp luật là một lĩnh vực hoạt động quan trọng trong hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư.
Luật sư còn hướng dẫn khách hàng về những vấn đề có liên quan đến pháp luật, quyền của
họ được pháp luật quy định và cách xử sự theo đúng pháp luật. Việc tư vấn pháp luật cho
khách hàng của luật sư góp phần không nhỏ trong việc giải quyết những tranh chấp xảy ra
trong đời sống xã hội, ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật, giảm bớt phiền hà
cho cơ quan nhà nước khi người dân thiếu hiểu biết pháp luật đi khiếu nại không đúng cơ
quan có thẩm quyền.
Hoạt động tư vấn pháp luật và dịch vụ pháp lý khác của luật sư là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh
theo đúng pháp luật, đồng thời hỗ trợ tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển thị trường dịch vụ, tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm; góp phần bảo vệ quyền lợi
cho doanh nghiệp cả ở nước ngoài. Sự tham gia tích cực của các luật sư trong dự án đầu tư,
các giao dịch kinh doanh, thương mại không chỉ góp phần phát huy nội lực mà còn thu hút
ngoại lực, thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.3. Vai trò của luật sư trong việc tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Là người hiểu biết pháp luật, thông qua việc hành nghề, luật sư góp phần tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cộng đồng xã hội.
Thông qua tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình, luật sư có trách nhiệm tham gia xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Luật sư đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của
công dân và phát triển xã hội. Cùng với thời gian, đội ngũ luật sư Việt Nam dần dần khẳng
định rõ vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu,
rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham
gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định mình hơn nữa
trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở Việt Nam.
1.3. Nghĩa vụ của luật sư trong mối quan hệ với khách hàng:

Đối với khách hàng, luật sư phải tư vấn cho khách hàng về những quyền và nghĩa vụ
pháp lý của họ, về cơ chế làm việc của hệ thống pháp luật trong chừng mực có liên quan đến
quyền và trách nhiệm pháp lý của khách hàng; Giúp đỡ khách hàng bằng mọi hình thức
thích hợp và tiến hành các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi của họ; Giúp đỡ khách
hàng trước tòa án hay các cơ quan hành chính khi thích hợp.
Trong khi bảo vệ các quyền của khách hàng và thúc đẩy sự nghiệp vì công lý, luật sư
phải tìm cách đề cao các quyền và các tự do cơ bản của con người được pháp luật quốc gia
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


9

và quốc tế công nhận. Luật sư luôn luôn phải hành động tự do, cần mẫn phù hợp với pháp
luật và những tiêu chuẩn đạo đức đã được công nhận của nghề luật. Luật sư phải luôn tôn
trọng một cách trung thành quyền lợi khách hàng của mình

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


10

CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC BẢO VỆ TỐT NHẤT LỢI ÍCH CỦA KHÁCH
HÀNG
2.1. Luật sư phải nghiên cứu pháp lý và tuân theo pháp luật hành nghề luật sư;
2.1.1. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan:
Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật
chất, tinh thần hoặc bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.
Độc lập, trung thực ở đây không chỉ với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
mà Luật sư còn phải độc lập, trung thực với cả khách hàng của mình.
Sứ mệnh bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ

của công dân; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một thực tế, là tất yếu
khách quan được đặt lên vai đội ngũ Luật sư trong bối cảnh đất nước đang không ngừng
phát triển, hướng đến nền dân chủ vững mạnh và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Ngày 20/11/2012, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Luật sư, qua đó khẳng định và đề cao hơn nữa vị trí, vai trò, thể
hiện sự quan tâm đặc biệt cho đội ngũ Luật sư
Luật sư là người hoạt động khoa học pháp lý ở vị trí người hướng dẫn pháp
luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc bảo vệ công lý, bảo vệ lẽ phải và công
bằng xã hội làm mục tiêu cao quý. Trước khi là một luật sư thì chính bản thân phải rèn
luyện được đức tính độc lập, trung thực, khách quan, nhiệt tình trong công việc, không ngại
khó, ngại khổ, không dồn trách nhiệm cho đồng nghiệp, cho người khác. Luật sư phải độc
lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc bất kỳ
áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Luật sư có nghĩa vụ phát huy
truyền thống tốt đẹp của nghề luật sư, thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn,
giữ gìn phẩm chất và uy tín nghề nghiệp; thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành
nghề và lối sống để xứng đáng với sự tin cậy, tôn trọng. Ở Việt Nam, nghề luật sư có từ thời
Pháp thuộc. Lỳc bấy giờ (trước năm 1930) các luật sư người Pháp chiếm độc quyền hành
nghề bào chữa và mói đến khi có sắc lệnh của Tổng thống Pháp 25/5/1930, thực dân Pháp
mới tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn. Và đến lúc này có luật sư người Việt
Nam tham gia biện hộ.
Luật sư độc lập, trung thực và tận tụy trong hành nghề; không vì bất kỳ lợi ích vật
chất, tinh thần hoặc áp lực nào khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật trong hoạt động
nghề nghiệp.
Phẩm giá và uy tín của luật sư còn thể hiện khi phải đứng giữa và phán quyết
cho sự đối trọng của cường quyền (quyền lực, chính trị) và công lý, giữa tiền bạc và sự công
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


11


tâm, khách quan. Lợi ích vật chất không thể làm mờ mắt người luật sư chân chính, cường
quyền không thể làm chùn chân người luật sư cương trực và chỉ có công lý mới có thể làm
kim chỉ nam dẫn đường cho họ.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về
pháp lý và đạo lý. Luật sư phải biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem
xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ đâu là đúng, đâu là sai, thế nào là phải, thế
nào là trái, từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp loại bỏ cái sai, bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ
phải, đó chính là bảo vệ công lý.
2.1.2. Giữ bí mật thông tin của khách hàng.
Việc luật sư giữ bí mật cho khách hàng là một trong những nguyên tắc cơ bản hàng
đầu. Ông phân tích: “Nếu luật sư thực hiện tốt nguyên tắc này thì khách hàng mới có niềm
tin vào luật sư. Khi đó họ sẽ cung cấp toàn bộ, đầy đủ thông tin liên quan đến sự việc, kể cả
những vấn đề tế nhị. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư
Giới hạn những thông tin về khách hàng mà luật sư phải giữ bí mật.
Luật Luật sư 2006 vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng” là nghĩa vụ của
luật sư trong hoạt động hành nghề luật sư, vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng”
thông qua điều cấm đối với luật sư. Cụ thể, theo điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006,
nghiêm cấm luật sư thực hiện hành vi: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình
biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc
pháp luật có quy định khác”. Đây là quy định mang tính kế thừa và không khác gì về nội
dung so với quy định tại khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh Luật sư 2001.
Đồng thời với quy định tại khoản 1 Điều 9, Điều 25 Luật Luật sư 2006 còn quy định
về “Bí mật thông tin” như sau:
“1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết
được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc
pháp luật có quy định khác.
2. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết
được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

3. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức
hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình”.
Như vậy, vấn đề giữ bí mật thông về khách hàng của luật sư là vấn đề mang tính pháp
lý, được quy định trong các vấn bản quy phạm pháp luật. Có nghĩa là việc luật sư giữ bí mật
2.1.2.1.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


12

thông tin về khách hàng là vấn đề có tính chất “bắt buộc chung” và là nghĩa vụ pháp lý của
luật sư
Ngoài ra, Quy tắc 12 trong Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt
Nam quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch
vụ pháp lý”. Quy định này đặt ra vấn đề thông tin nào của khách hàng phải được luật sư giữ
bí mật? Có sự giới hạn về những thông tin cần được bảo mật hay không? Vấn đề này dẫn
đến hai luồng quan điểm:
Một là, không có sự giới hạn, luật sư phải giữ bí mật tất cả các thông tin về khách
hàng. Quan điểm này có ưu điểm là tạo được sự tin cậy tuyệt đối cho khách hàng, nâng cao
quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp của luật sư đối với khách hàng, nâng cao tinh thần
trách nhiệm của luật sư; quan điểm này cũng phù hợp với quy tắc “bảo vệ tốt nhất lợi ích
của khách hàng” vì việc tiết lộ thông tin về khách hàng có thể tiềm ẩn những rủi ro, bất lợi
đối với khách hàng. Hạn chế của quan điểm này là tính rủi ro cao đối với luật sư.
Hai là, có sự giới hạn, luật sư chỉ có nghĩa vụ bảo mật đối với những tin về khách
hàng được xem, được xác định là thông tin mật theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa
thuận bảo mật giữa luật sư và khách hàng. Nó có ưu điểm là tạo cơ chế rõ ràng trong việc
bảo mật, dễ dàng xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư trong việc giữ bí mật thông tin
về khách hàng vì đã xác định rõ với khách hàng thông tin nào là thông tin mật, thông tin nào
cần được bảo mật. Hạn chế của quy tắc này là chưa phát huy cao nhất tinh thần trách nhiệm

của luật sư đối với khách hàng, có thể tạo sự không thoải mái cho khách hàng. Trong quá
trình tiếp xúc, giải quyết vụ việc, không phải bao giờ khách hàng cũng cung cấp đầy đủ các
thông tin cho luật sư cùng một lúc mà mỗi giai đoạn, khách hàng có thể cung cấp những
thông tin khác nhau. Nếu mỗi lần khách hàng cung cấp thông tin, luật sư lại lập văn bản bảo
mật với khách hàng thì sẽ gây ra sự bất tiện cho khách hàng. Ngoài ra, việc xác định thông
tin nào là thông tin mật cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đối với mỗi khách hàng, thông
tin họ muốn giữ bí mật có thể khác nhau, phụ thuộc vào tâm lý, điều kiện, hoàn cảnh, địa vị
xã hội của mỗi khách hàng. Chẳng hạn về độ tuổi, đàn ông thường không quan trọng nhưng
với phụ nữ thì họ thường không muốn tiết lộ, đặc biệt nếu đó là nữa diễn viên, người mẫu,
ca sĩ,... thì họ càng không muốn tiết lộ độ tuổi của họ vì có thể ảnh hưởng đến”sức hấp dẫn”
của họ và thậm chí ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Theo quan điểm của em, cần
kết hợp hai quan điểm trên trong việc xác định giới hạn của luật sư đối với những thông tin
về khách hàng cần được bảo mật. Cụ thể, nếu giữa luật sư và khách hàng có sự thỏa thuận,
xác định những thông tin nào cần được bảo mật thì giới hạn bảo mật của luật sư được thực
hiện theo thỏa thuận đó và không ràng buộc nghĩa vụ bảo mật của luật sư đối với những
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


13

thông tin khác về khách hàng (ngoài sự thỏa thuận). Trường hợp không có thỏa thuận như
vậy, hoặc khách hàng không đồng ý thỏa thuận như vậy thì luật sư có nghĩa vụ bảo mật tất
cả các thông tin về khách hàng, bất kể thông tin ấy luật sư có được từ nguồn nào (khách
hàng cung cấp, luật sư thu thập,...). Chỉ có như vậy mới bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách
hàng trong mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của luật
sư đối với thông tin về khách hàng.
Tuy vậy, cũng cần chú ý là luật sư chỉ bảo mật tất cả các thông tin mà luật sư biết
được về khách hàng trong mối quan hệ nghề nghiệp với khách hàng, thực hiện dịch vụ pháp
lý cho khách hàng; luật sư không có nghĩa vụ giữ bí mật những thông tin về khách hàng mà

luật sư biết được trước khi “quan hệ nghề nghiệp” với khách hàng hoặc sau khi đã kết thúc
vụ việc với khách hàng (nhưng luật sư vẫn giữ bí mật thông tin trước đây mà luật sư biết về
khách hàng lúc thụ lý giải quyết vụ việc của khách hàng).
Trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng, luật sư cần chú ý tìm hiểu các quy
định pháp luật về giữ bí mật thông tin có liên quan đến khách hàng của mình. Chẳng hạn,
đối với khách hàng là cá nhân, luật sư cần tuân thủ quy định về bí mật đời tư (Điều 38 Bộ
Luật dân sự 2004); khách hàng là doanh nhân hoặc doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, luật sư
cần tuân thủ các quy định về bí mật kinh doanh( Khoản 23 Điều 4 và Khoản 1 Điều 127
Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009),...
Trong thực tế, có thể có những vụ việc, khách hàng của luật sư là những người nổi
tiếng hay khách hàng của luật sư là đối tượng có liên quan trong những vụ việc trọng điểm,
thu hút sự quan tâm của dự luận; các phương tiện thông tin đại chúng đã công bố thông tin
về khách hàng, thông tin về vụ việc đó. Vậy, trong trường hợp đó, nghĩa vụ bảo mật thông
tin của luật sư được thực hiện như thế nào? Luật sư có nghĩa vụ bảo mật tất cả các thông tin
về khách hàng nữa hay không? Em cho rằng trong những trường hợp như vậy, nghĩa vụ của
luật sư về giữ bí mật thông tin khách hàng, giới hạn của luật sư trong việc giữ bí mật thông
tin về khách hàng vẫn phải được thực hiện và phải được thực hiện một cách thận trọng. Đối
với những vụ việc này, tùy trường hợp cụ thể mà luật sư có hướng giải quyết và thực hiện
nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách hàng khác nhau. Chẳng hạn, nếu các phương tiện
thông tin đại chúng đã công bố thông tin về vụ việc trước khi luật sư nhận thực hiện dịch vụ
pháp lý từ khách hàng thì như phân tích ở trên, luật sư không có nghĩa vụ bảo mật nhưng
thông tin đã được công bố trước đó mà chỉ bảo mật những thông tin về khách hàng từ thời
điểm luật sư nhận vụ việc. Nghĩa vụ của luật sư lúc này là không tiết lộ thêm thông tin về
khách hàng, trừ trường hợp được sự đồng ý của khách hàng để tiết lộ những thông tin có lợi
cho khách hàng và tranh thủ được sự đồng tình của dư luận (luật sư phải tư vấn cho khách
hàng và xin phép sự đồng ý của khách hàng trước khi tiết lộ thông tin). Có thể luật sư của
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


14


những khách hàng trong những vụ việc này còn được mời phỏng vấn, phát biểu quan điểm.
Khi đó, luật sư chỉ được phát biểu trên nguyên tắc “bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách
hàng” và chỉ phát biểu trên cơ sở những thông tin về khách hàng, liên quan đến vụ việc đã
được công bố, tuyệt đối tránh vô tình tiết lộ các thông tin khác về khách hàng, về vụ việc
nếu chưa được sự đồng ý của khách hàng. Trong nhiều trường hợp, luật sư cần xem xét từ
chối phát biểu trước các phương tiện truyền thông mà chỉ phát biểu trong trường hợp cơ
quan có thẩm quyền yêu cầu hoặc khi vụ việc đưa đưa ra giải quyết chính thức.
Giới hạn về thời gian
Việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư là không có sự giới hạn về thời
gian. Luật sư có trách nhiệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong lúc đang thụ lý giải
quyết vụ việc cho đến khi vụ việc đã kết thúc. Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp của Luật sư Việt Nam quy định rõ: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của
khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó”. Như phần trên
cũng có đề cập, khi kết thúc vụ việc, luật sư vẫn có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin về khách
hàng nhưng đó là những thông tin mà luật sư biết được trong lúc giải quyết vụ việc cho
khách hàng, còn những thông tin mới mà luật sư biết được sau khi đã kết thục vụ việc với
khách hàng thì luật sư không có nghĩa vụ bảo mật. Một vấn đề đáng lưu ý là Quy tắc 12
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư Việt Nam quy định luật sư vẫn tiếp tục
giữ bí mật thông tin của khách hàng “cả khi đã kết thúc dịch vụ đó” mà không đề cập đến
tình trạng của khách hàng, còn sống hay đã chết (đối với cá nhân), còn hoạt động hay đã
chấm dứt hoạt động (đối với tổ chức). Như vậy, kể cả khi khách hàng trước đây của luật sư
đã chết (đối với cá nhân), không còn hoạt động (tổ chức) luật sư vẫn phải giữ bí mật thông
tin của những khách hàng đó.
2.1.2.2.

Giới hạn đối với nhân viên, cộng sự của luật sư và tổ chức hành nghề của
luật sư
Đối với các luật sư cùng hành nghề trong một tổ chức hành nghề luật sư (Văn phòng
luật sư hoặc Công ty luật), không chỉ bản thân luật sư tiếp nhận, thụ lý giải quyết vụ việc

của khách hàng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng mà các luật sư khác trong cùng tổ
chức hành nghề luật sư cũng phải giữ bí mật thông tin về khách hàng của tổ chức mình. Đây
là quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Luật sư 2006: “Tổ chức hành nghề luật sư có trách
nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về
khách hàng của mình” và Quy tắc 12 Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư
Việt Nam: “luật sư có trách nhiệm yêu cầu các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của
2.1.2.3.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


15

mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết được và giải thích rõ nếu tiết
lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
Một số ngoại lệ trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng trong tư
vấn pháp luật dân sự
Nhìn chung, giới hạn bảo mật của luật sư đối với thông tin về khách hàng là vô hạn.
Không có giới hạn trong việc luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng. Tuy vậy, Luật Luật
sư 2006 và Quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp Luật sư Việt Nam vẫn quy định một số
ngoại lệ trong việc giữ bí mật thông tin về khách hàng.
Trong những trường hợp ngoại lệ, luật sư không bị ràng buộc bởi các giới hạn về bảo
mật đối với thông tin về khách hàng như đã phân tích ở trên. Trong những trường đó, luật sư
được (hoặc phải) tiết lộ thông tin về khách hàng.
Có hai trường hợp ngoại lệ được xác định: Một là, sự tiết lộ thông tin về khách hàng
được chính khách hàng đồng ý; hai là luật sư tiết lộ thông tin theo quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 25 Luật Luật sư 2006 quy định: “Luật sư không được tiết lộ thông tin
về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được
khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghể nghiệp của luật sư Việt Nam cũng quy định: “Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật

thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, mặc dù Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư không quy
định nhưng theo Luật Luật sư 2006, trong trường hợp luật sư tiết lộ thông tin theo sự đồng ý
của khách hàng thì sự đồng ý đó phải thể hiện bằng văn bản.
2.1.2.4.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


16

2.1.3. Chịu trách nhiệm khi nhận vụ việc, giao kết hợp đồng với khách hàng
Nhận và thực hiện yêu cầu của khách hàng luật sư phải tôn trọng sự lựa chọn của
khách hàng, chỉ nhận vụ việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ việc trong phạm vi
yêu cầu của khách hàng.
Có hai nguyên tắc chung phải tuân theo khi Luật sư nhận yêu cầu đại diện cho khách
hàng. Nguyên tắc đầu tiên và là quan trọng nhất là khách hàng phải có quyền tự lựa chọn
bất cứ Luật sư nào mà mình muốn. Nguyên tắc thứ hai là Luật sư phải lựa chọn cho mình vụ
việc mà trong đó Luật sư đưa ra được những lời bào chữa vô tư cho khách hàng của mình.
Điều này cũng có nghĩa là luật sư không được nhận việc nếu có xung đột hoặc có nguy cơ
xung đột về quyền lợi với các khách hàng khác.
Luật sư phải đảm bảo tính liêm chính, chính trực trong hành nghề:
Một Luật sư không được trực tiếp hoặc gián tiếp làm bất cứ việc gì làm ảnh hưởng
bất lợi hoặc chắc chắn ảnh hưởng bất lợi đến tính độc lập, liêm chính và và uy tín của Luật
sư. Khi nhận vụ việc Luật sư phải thông báo cho khách hàng về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của Luật sư trong việc thực hiện yêu cầu của khách hàng. Luật sư không được
chuyển giao vụ việc mà mình đang đảm nhận cho Luật sư khác hoặc làm thay trừ trường
hợp khách hàng đồng ý hoặc bất khả kháng.
Điều quan trọng trong mối quan hệ giữa Luật sư với khách hàng là Luật sư có thể

đem đến cho khách hàng lời khuyên vô tư, không thiên vị, không bị áp lực bởi ảnh hưởng từ
bên thứ ba, khách hàng phải được lựa chọn Luật sư bằng ý chí tự do của riêng mình và Luật
sư phải không bị áp lực (áp lực tài chính, hoặc áp lực khác) từ một bên thứ ba nào có thể
làm ảnh hưởng tới tính chất của tư vấn cho khách hàng.
2.1.3.2.
Luật sư có quyền từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý:
Luật sư sẽ từ chối cấp hợp đồng dịch vụ nếu yêu cầu của khách hàng không có căn
cứ. Nếu yêu cầu của khách hàng vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc nếu thực hiện
việc đó dẫn đến việc Luật sư vi phạm pháp luật hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư thì
Luật sư phải từ chối thực hiện yêu cầu của khách hàng.
Luật sư phải từ chối đại diện cho khách hàng trong những trường hợp sau:
Việc chấp nhận hoặc tiếp tục làm đại diện có thể dẫn đến một hành vi vi phạm pháp luật
hoặc vi phạm những quy tắc về đạo đức nghề nghiệp Luật sư.
Nếu Luật sư được yêu cầu tiến hành một vụ kiện chống lại khách hàng cũ.
Nếu có chắc chắc xảy ra xung đột về quyền lợi giữa Luật sư và khách hàng hoặc giữa hai
khách hàng của Luật sư.
Khi Luật sư không đủ khả năng làm hoặc không đủ thời gian cần thiết cho vụ việc của
khách hàng.
2.1.3.1.

-

-

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


17

Thông thường Luật sư phải từ chối hoặc rút lui khỏi vụ việc nếu khách hàng yêu cầu

Luật sư làm một việc phạm pháp hoặc vi phạm quy tắc đạo đức nghề Luật sư.
Luật sư không nên từ chối nhận yêu cầu của khách hàng chỉ vì lý do là họ không nổi
tiếng hoặc các vụ kiện của họ không gây được tiếng tăm cho Luật sư hoặc vì phản ứng thù
địch từ quần chúng.
Luật sư có quyền lựa chọn và rút lui nếu việc đại diện ảnh hưởng bất lợi đến quyền
lợi của khách hàng. Việc rút lui cũng được coi là có cơ sở pháp lý khi khách hàng buộc Luật
sư phải làm một việc mà Luật sư tin rằng phạm pháp hoặc gian dối. Luật sư không được ủng
hộ những hành vi như vậy ngay cả khi Luật sư không phải là chủ xướng những hành vi này.
Luật sư cũng được phép rút lui nếu các dịch vụ của Luật sư bị lợi dụng ngay cả khi
việc lợi dụng này chỉ gây tổn hại cho khách hàng. Luật sư cũng có thể rút lui nếu khách
hàng từ chối tuân theo những điều khoản của bản thoả thuận về đại diện, ví dụ thoả thuận về
thù lao, chi phí Toà án, hoặc thoả thuận hạn chế mục đích của việc đại diện.
Ngay cả khi bị khách hàng từ chối một cách vô lý Luật sư vẫn phải đưa ra mọi biện
pháp thích hợp để giảm hậu quả xấu cho khách hàng. Luật sư chỉ có thể giữ lại hồ sơ như
một vật đảm bảo cho việc thanh toán thù lao trong chừng mực được pháp luật cho phép.
Ngược lại khách hàng có quyền từ chối Luật sư bất cứ lúc nào, bất kể có lý do hay
không sau khi đã thanh toán cho các dịch vụ của luật sư.
Khi thực hiện nghĩa vụ của mình bất kể với tư cách là cố vấn, tư vấn, đàm phán hoặc
bào chữa, Luật sư phải thể hiện một trình độ hoặc kỹ năng nhất định.
Một Luật sư không nên hành nghề ở những lĩnh vực mà mình không đủ năng lực,
Luật sư phải có lòng tự trọng nghề nghiệp. Nghĩa vụ hành động theo đúng chức năng phải
cao hơn nỗi sợ về trách nhiệm dân sự và xử phạt về kỷ luật.
Luật sư không được xử lý mọt vấn đề pháp lý mà luật sư biết hoặc phải biết rằng
mình không đủ khả năng; xử lý một vấn đề pháp lý thiếu sự chuẩn bị đầu đủ trong các
trường hợp cụ thể.
Luật sư phải tuân theo những yêu cầu của khách hàng và phải bàn bạc với khách
hàng về phương pháp xử lý vụ việc. Cả khách hàng và Luật sư đều có quyền và nghĩa vụ
với mục đích và phương pháp thực hiện. Luật sư không được tìm kiếm những mục đích
hoặc sử dụng những phương pháp nếu chỉ vì khách hàng muốn Luật sư làm như vậy.
Luật sư không được tư vấn cho khách hàng tham gia hoặc thực hiện những hành vi

mà Luật sư biết là vi phạm hoặc gia trá. Tuy nhiên Luật sư có thể thảo luận về hậu quả pháp
lý của hành vi mà khách hàng định thực hiện và có thể tư vấn hoặc giúp đỡ khách hàng xác
định hiệu lực pháp lý, phạm vi, phương thức hoặc luật áp dụng.
Nếu luật sư biết rằng khách hàng chờ đợi ở luật sư một sự giúp đỡ để làm một việc
bất hợp pháp, Luật sư phải nói rõ cho khách hàng giới hạn đạo đức mà nghề luật cho phép.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


18

Luật sư có trách nhiệm bảo vệ lợi ích tốt nhất của khách hàng trong khuôn khổ pháp
luật và đạo đức nghề nghiệp.
Luật sư phải thực hiện nghề nghiệp trong khuôn khổ pháp luật, hoàn toàn vì lợi ích
của khách hàng và không bị ràng buộc bởi những thoả hiệp ảnh hưởng đến lòng trung thành,
không được phép đề quyền lợi riêng của Luật sư, quyền lợi của khách hàng hoặc nguyện
vọng của người thứ ba ảnh hưởng đến lòng trung thành của Luật sư đối với khách hàng.
Luật sư không được gợi ý để khách hàng tặng quà cho mình hoặc vì lợi ích của mình
để có thể bị ảnh hưởng không đúng mức và mắc mưu khách hàng. Luật sư và công ty của
luật sư không được nhận một vụ kiện nếu biết hoặc chắc chắn mình hoặc một luật sư khác
trong công ty có thể được đề nghị làm nhân chứng.
Trong quá trình đại diện, nếu khách hàng có hành vi lừa dối người khác hoặc lừa dối
Toà án, Luật sư phải yêu cầu khách hàng sửa chữa khuyết điểm này, nếu khách hàng từ chối
hoặc không thể sửa chữa được thì Luật sư phải thông báo về việc lừa dối đó với người bị hại
hoặc Toà án, trừ khi thông tin đó được bảo vệ như chuyện riêng, chuyện bí mật.
Luật sư phải tích cực khẩn trương giải quyết vụ việc của khách hàng và phải thông
báo về tiến trình công việc để khách hàng có quyết định kịp thời.
Thông tin liên lạc với khách hàng là việc làm cần thiết. Luật sư phải thường xuyên
thông tin cho khách hàng về tình hình của vụ việc và nhanh chóng thực hiện những yêu cầu
hợp lý khác của hàng về thông tin và giải thích nội dung vụ việc ở mức cần thiết để khách

hàng đưa ra quyết định thực hiện yêu cầu của mình.
Trong những cuộc đàm phán nếu có thời gian Luật sư phải trình bày mọi điều khoản
quan trọng với hác hàng trước khi ký một thoả thuận. Trong một vụ kiện Luật sư phải giải
thích chiến lược và triển vọng thành công và thường phải bàn bạc với khách hàng trước khi
có những hành động có thể gây ảnh hưởng hoặc ép buộc người khác. Mặt khác, thường thì
Luật sư không thể mô tả chi tiết về việc xét xử hoặc chiến lược đàm phán.
2.1.3.3.
Trách nhiệm nghề nghiệp với khách hàng.
Ngoài những trách nhiệm đã thoả thuận có hàng loạt trách nhiệm mà Luật sư phải
thực hiện đối với khách hàng của mình khi đại diện cho họ.
Luật sư nhận thay mặt khách hàng có nghĩa vụ thực hiện những yêu cầu của khách
hàng một cách thận trọng với một kỹ năng phù hợp. Luật sư cũng phải hành động trong
khuôn khổ thầm quyền mà khách hàng trao cho. Vì lý do này, Luật sư phải khẳng định chính
xác yêu cầu của khách hàng khi nhận việc.
Luật sư phải giữ bí mật về công việc kinh doanh và các quan hệ của khách hàng. Quy
tắc này cũng áp dụng đoói với các nhân viên của Luật sư . Luật sư phải chịu trách nhiệm đối
với hành vi vi phạm những quy định này của các nhân viên của mình.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


19

Luật sư phải tuân thủ các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp. Ngoài những trách
nhiệm với khách hàng Luật sư còn là một nhân viên của nền tư pháp. Luật sư phải thể hiện
trách nhiệm này trước Toà án khi hai trách nhiệm này xung đột với nhau. Cụ thể là Luật sư
khi có trách nhiệm phục vụ lợi ích tốt nhất cho khách hàng trong một vụ kiện không bao giờ
được lừa dối toà, ví dụ bằng cách giữ lại những chứng cứ bất lợi cho vụ việc của khách
hàng.
2.1.3.4.

Chấm dứt hợp đồng dịch vụ.
Một Luật sư không được ngừng tiến hành vụ việc cho khách hàng trừ khi có lý do
chính đáng và gửi thông báo đúng lúc việc này cho khách hàng. Những lý do chính đáng có
thể là khi yêu cầu của khách hàng dẫn Luật sư tới chỗ vi phạm những quy định đạo đức
hoặccó bất đồng lớn giữa họ về lòng tin về sự tín nhiệm.
Khi hợp đồng giữa Luật sư và khách hàng kết thúc Luật sư phải trao cho khách hàng
toàn bộ tài liệu và tài sản thuộc sở hữu của khách hàng hoặc giữ chúng nếu khách hàng yêu
cầu như vậy và trả tiền lại cho khách hàng.
Nếu khách hàng còn nợ tiền Luật sư thì Luật sư có thể giữ lại tài liệu và tài sản của
khách hàng cho tới khi Luật sư được thanh toán đầy đủ. Tuy nhiên, Luật sư không thể bán
chúng để lấy tiền thù lao.
2.2.

Phạm vi dịch vụ luật sư cung cấp cho khách hàng được thể hiện bằng hợp
đồng dịch vụ pháp lý
2.2.1. Bản chất giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý:
2.2.1.1.
Khái niệm và căn cứ pháp luật:
Giao kết hợp đồng là giai đoạn thiết lập mối liên hệ pháp lý giữa các chủ thể trong
quan hệ trao đổi. Quy định về đề nghị giao kết hợp đồng (Điều 386 BLDS 2015) nhằm bảo
đảm sự an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao kết, hướng dẫn sử xự của các chủ thể
trong quá trình giao kết và thiết lập quan hệ hợp đồng hợp pháp.
Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý
chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận.
Việc quy định nguyên tắc giao kết hợp đồng nhằm bảo đảm sự an toàn pháp lý cho
các bên tham gia giao kết, hướng dẫn xử sự của các chủ thể trong quá trình giao kết và thiết
lập quan hệ hợp đồng hợp pháp. Theo đó, nguyên tắc đầu tiên là tự do giao kết hợp đồng
nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Theo nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng, các bên chủ thể giao kết hợp đồng được
quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng, không có bất kỳ cá nhân, tổ chức nào kể cả

Nhà nước được can thiệp, làm thay đổi ý chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do ý chí
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


20

của các bên chủ thể khi giao kế hợp đồng “không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Tức
là sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng không được trái với điều cấm của pháp luật và
những chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận rộng rãi.
Luật La Mã ghi nhận rằng: “Với tư cách như một cơ sở phát sinh nghĩa vụ, hợp đồng
chỉ có thể có nếu các bên ký hợp đồng có chủ ý xác lập các mối liên hệ trách nhiệm”.
Hơn nữa, quyền tự do cam kết, thỏa thuận, trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết thỏa thuận đó không trái đạo đức xã hội
Nguyên tắc này được thể hiện trong Khoản 1 điều 11 Luật Thương Mại 2005: “Các
bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật mỹ tục và đạo đức
xã hội để xác lập quyền, nghĩa vụ các bên trong hoạt động thương mại và bảo hộ các quyền
đó”
Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 quy định tại
điều 1.1: “Các bên được tự do giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung hợp đồng”
Nguyên tắc thứ hai là tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng. Nguyên tắc các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng
dân sự nói riêng bình đẳng với nhau cũng là một nguyên tắc cơ bản. Đặc trưng và cơ sở của
các quan hệ trao đổi là được thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận ngang giá. Ngoài ra trong
UNIDROIT về Thiện chí và trung thực được quy định như sau:
Điều 1.7 UNIDROIT (Thiện chí và trung thực):
− “Các bên trong hợp đồng phải tuân theo những yêu cầu về thiện chí và trung thực trong
thương mại quốc tế.
− Các bên trong hợp đồng không được loại trừ hay hạn chế nghĩa vụ này”.
2.2.1.2.


Trình tự giao kết hợp đồng.

Trình tự giao kết hợp đồng dân sự là một quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày
tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến rồi đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau xác
lập các quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau, xác định từng nội dung cụ thể của hợp đồng.
Quá trình giao dịch dân sự chính thức được bắt đầu khi các bên đã xác định rõ được
nhu cầu giao dịch của mình. Trình tự giao kết hợp đồng thông qua 2 giai đoạn: đề nghị giao
kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị giao kết hợp đồng:
Khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn đó phải thể hiện ra bên ngoài
thông qua một hành vi nhất định. Như vậy bên đối tác mới có thể biết được ý muốn của họ
và mới có thể đi đến việc giao kết một hợp đồng.
2.2.1.3.

Đề nghị giao kết hợp đồng:

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


21

Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu hiện ý chí, muốn bày tỏ cho bên kia ý
muốn tham gia giao kết với họ một hợp đồng dân sự.






Một lời đề nghị được coi là đề nghị giao kết hợp đồng thì phải chứa đựng một số yếu

tố cơ bản sau:
Thể hiện rõ được nguyện vọng muốn đi đến giao kết hợp đồng của bên đề nghị.
Phải có chứa toàn bộ mọi điều kiện cơ bản của hợp đồng.
Phải xác định rõ bên được đề nghị.
Yêu cầu về thời hạn trả lời là không bắt buộc: Theo Điều 394 BLDS 2015 còn dự liệu cả
trường hợp đề nghị có thời hạn trả lời và đề nghị không có thời hạn trả lời.
Việc đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau:
người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc
có thể thông qua điện thoại…Ngoài ra, lời đề nghị còn được chuyển giao bằng công văn,
giấy tờ…
Hiệu lực của đề nghị được thay đổi, rút lại, hủy bỏ và chấm dứt đề nghị giao kết hợp
đồng theo quy định tại Điều 389, 390, 391 BLDS 2015.
2.2.1.4.

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là việc bên được đề nghị chấp nhận lời đề nghị
(bên B) và tiến hành việc giao kết hợp đồng với bên đã đề nghị (bên A).
Câu trả lời của bên B không phải trong mọi trường hợp đều được coi là chấp nhận
giao kết hợp đồng. Câu trả lời được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng khi bên B chấp nhận
toàn bộ và vô điều kiện các nội dung đề nghị mà bên A đã nêu. Nếu câu trả lời của bên B
không đáp ứng được một trong hai yêu cầu đó thì sẽ được coi là lời đề nghị mới và cần có
câu trả lời của bên A. Quá trình này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi có được chấp
nhận giao kết hợp đồng đúng yêu cầu thì hợp đồng sẽ được coi là giao kết.
Nếu như bên B không trả lời đề nghị thì sự im lặng đó được coi là lời từ chối giao kết
hợp đồng.
Cụ thể hơn tại điều 2.1.6 Bộ nguyên tắc của UNIDROIT (Phương thức chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng):
“1. Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể là một tuyên bố hoặc cách xử sự
khác của bên được đề nghị cho thấy họ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Bản thân sự

im lặng hay bất tác vi không có giá trị như một chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2. Việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của
việc chấp nhận giao kết hợp đồng đến bên đề nghị.
3. Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác
lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp nhận
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


22

giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà không cần thông báo cho bên đề
nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành.”

2.2.2. Thù lao luật sư quy định trong hợp đồng dịch vụ pháp lý:
2.2.2.1.
Khái niệm và căn cứ pháp lý:

Quy định về thù lao và chi phí luật sư, về cơ bản, phù hợp với những nguyên tắc của
Bộ luật dân sự về tiền công trong hợp đồng dịch vụ. Luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của cá nhân, tổ chức, cơ quan và được nhận một khoản thù lao, được thanh toán các
chi phí hợp lý khác do người sử dụng dịch vụ trả. Như vậy, thù lao là khoản tiền bù đắp lại
công sức mà luật sư bỏ ra để thực hiện dịch vụ pháp lý. Chi phí luật sư là những khoản tiền
mà luật sư phải chi trả trong khi thực hiện dịch vụ pháp lý như: tiền tàu xe, lưu trú, các chi
phí hợp lý khác. Khách hàng của luật sư phải trả thù lao và thanh toán chi phí thực tế cho
luật sư khi sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư.
Việc tính toán thù lao được dựa trên các căn cứ và phương thức cụ thể. Các căn cứ và
phương thức tính thù lao quy định tại Điều 55 Luật Luật sư phù hợp với thông lệ nghề
nghiệp luật sư được pháp luật của nhiều nước trên thế giới quy định. Về cơ bản, việc tính
mức thù lao được thực hiện trên cơ sở thoả thuận giữa Văn phòng luật sư, Công ty luật, hoặc
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân (người cung cấp dịch vụ pháp lý) với khách hàng

(người sử dụng dịch vụ pháp lý) và được thể hiện trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Tuy
nhiên, nguyên tắc thoả thuận về thù lao chỉ được áp dụng đối với vụ việc tư vấn pháp luật,
dịch vụ pháp lý khác, vụ việc dân sự.
Thù lao luật sư chỉ áp dụng đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư
và luật sư hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với luật sư
hành nghề với tư cách cá nhân làm việc cho cơ quan, tổ chức (tổ chức trợ giúp pháp lý của
Nhà nước, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức khác) theo chế độ hợp đồng lao động
thì được hưởng lương theo quy định của pháp luật về lao động.
Các căn cứ tính mức thù lao được quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Luật sư 2006,
bao gồm các căn cứ sau đây:
− Nội dung, tính chất của dịch vụ pháp lý;
− Thời gian và công sức của luật sư sử dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý;
− Kinh nghiệm và uy tín của luật sư.
Các căn cứ để tính mức thù lao có tính chất định hướng, là cơ sở để khách hàng và
Văn phòng luật sư, Công ty luật hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thoả thuận phù
hợp với nội dung, tính chất của từng vụ việc cụ thể.

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


23
2.2.2.2.
Phương thức tính thù lao
2.2.2.2.1. Phương thức tính thù lao theo giờ làm việc

Thông thường, phương thức tính thù lao theo giờ làm việc của luật sư được áp dụng
trong lĩnh vực tư vấn pháp luật. Với phương thức tính thù lao này, việc tính toán cụ thể về
thời gian luật sư bỏ ra để thực hiện công việc là căn cứ quan trọng để tính mức thù lao.
2.2.2.2.2. Phương thức tính thù lao trọn gói
Phương thức tính thù lao trọn gói là việc tính một mức thù lao cố định cho toàn bộ

quá trình giải quyết vụ việc theo yêu cầu của khách hàng. Việc thoả thuận về mức thù lao cố
định thường được căn cứ vào nội dung, tính chất công việc cũng như tổng số thời gian dự
tính hoàn thành công việc. Phương thức này thường được áp dụng trong các lĩnh vực tham
gia tố tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
2.2.2.2.3. Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc
giá trị hợp đồng, giá trị dự án
Phương thức tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm giá ngạch vụ kiện hoặc giá trị hợp đồng,
giá trị dự án thường được áp dụng trong lĩnh vực tham gia tố tụng đối với các vụ án dân sự,
kinh tế, giao dịch về bất động sản hay tư vấn pháp luật trong các dự án. Thực chất đây cũng
là phương thức tính thù lao theo một mức cố định nhưng được căn cứ vào giá ngạch của vụ
kiện hoặc giá trị của giao dịch.
2.2.2.2.4. Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố
định
Phương thức tính thù lao theo hợp đồng dài hạn với mức thù lao cố địnhđược sử
dụng khá phổ biến tại các nước có nghề luật sư phát triển. Tổ chức hành nghề luật sư hoặc
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chịu trách nhiệm về những vấn đề pháp lý liên quan
đến khách hàng của mình. Khách hàng phải trả một khoản thù lao cố định đã được thoả
thuận theo định kỳ cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân bất kể trong thời gian đó khách hàng có cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý của luật sư hay
không. Phương thức này cũng có thể áp dụng đối với trường hợp luật sư có hợp đồng dài
hạn để tư vấn pháp luật cho một doanh nghiệp.
Thông thường, trong văn bản thoả thuận giữa luật sư và khách hàng không cần thiết
phải liệt kê toàn bộ những căn cứ làm cơ sở cho việc tính thù lao mà chỉ cần nêu phương
thức tính thù lao (tính theo giờ, tính cố định hay xác định những yếu tố cần chú ý khi tính
thù lao). Khi có những sự kiện mới phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc ảnh hưởng
đến mức thù lao đã thoả thuận thì luật sư cần thông báo bằng văn bản cho khách hàng và
trong trường hợp cần thiết, luật sư và khách hàng có thể thoả thuận mức thù lao mới phù
hợp.
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH



24

Hạn mức tính thù lao:
Vấn đề về thù lao, chi phí trong trường hợp luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo hợp
đồng dịch vụ pháp lý được quy định tại Điều 56 của Luật Luật sư 2006 như sau:
“1) Mức thù lao được thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; đối với vụ án hình
sự mà luật sư tham gia tố tụng thì mức thù lao không được vượt quá mức trần thù lao do
Chính phủ quy định.
2) Tiền tàu xe, lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý
do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.”
Theo quy định trên thì mức thù lao, chi phí của luật sư khi cung cấp dịch vụ pháp lý
theo hợp đồng dịch vụ pháp lý được tính trên cơ cở thoả thuận giữa khách hàng và luật sư
trong hợp đồng dịch vụ pháp lý. Đối với các vụ án hình sự mà luật sư tham gia tố tụng thì sự
thoả thuận đó không được vượt quá mức trần thù lao do Chính phủ quy định. Cụ thể, điều
18 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP về thi hành một số điều Luật Luật sư quy định “Mức cao
nhất cho 01 giờ làm việc của luật sư không được vượt quá 0,3 lần mức lương cơ sở do
Chính phủ quy định”.
Ngoài mức thù lao đã thoả thuận, luật sư được nhận thêm các chi phí như tiền tàu xe,
lưu trú và các chi phí hợp lý khác cho việc thực hiện dịch vụ pháp lý. Các chi phí này cũng
do các bên thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng
Theo Điều 19 của nghị định số 123/2013/NĐ-CP về thi hành một số điều Luật Luật
sư thì thù lao, chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng được quy định như sau:
2.2.2.2.5.

“1. Đối với những vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu luật sư thì mức thù lao
được trả cho 01 ngày làm việc của luật sư là 0,4 lần mức lương cơ sở do Chính phủ quy

định.
2. Thời gian làm việc của luật sư được tính bao gồm:
a) Thời gian gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
b) Thời gian thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa;
c) Thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu;
d) Thời gian tham gia phiên tòa;
đ) Thời gian hợp lý khác để thực hiện việc tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng.
Thời gian làm việc của luật sư phải được cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án xác nhận.
3. Ngoài khoản tiền thù lao, trong quá trình chuẩn bị và tham gia bào chữa tại phiên
tòa và các cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư được thanh toán chi phí tàu xe, lưu trú theo
NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


25

quy định hiện hành về chế độ công tác phí cho cán bộ, công chức nhà nước đi công tác
trong nước.
4. Cơ quan tiến hành tố tụng đã yêu cầu luật sư tham gia tố tụng có trách nhiệm
thanh toán theo đúng quy định về thù lao và các khoản chi phí nêu tại Khoản 1 và Khoản 3
Điều này. Nguồn kinh phí chi trả được dự toán trong ngân sách hàng năm của cơ quan tiến
hành tố tụng.
5. Ngoài khoản thù lao và chi phí do cơ quan tiến hành tố tụng thanh toán, luật sư
không được đòi hỏi thêm bất cứ khoản tiền, lợi ích nào khác từ bị can, bị cáo hoặc thân
nhân của họ.”
Thực tế cho thấy, thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ và chuẩn
bị tài liệu tại cơ quan tiến hành tố tụng hay thời gian tham gia phiên toà có thể được xác
nhận một cách dễ dàng, nhưng việc xác nhận thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình
tiết liên quan đến việc bào chữa lại gặp khó khăn. Vì vậy, luật sư cần lưu giữ tất cả tài liệu

có liên quan làm cơ sở cho cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng xác nhận thời gian làm
việc của luật sư. Luật sư có thể xin xác nhận của người có thẩm quyền sau đây về thời gian
làm việc:
− Quản giáo hoặc người quản lý trại giam về thời gian luật sư gặp gỡ bị can, bị cáo tại trại tạm
giam;
− Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án về thời gian luật sư thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết
liên quan đến việc bào chữa, thời gian nghiên cứu hồ sơ và chuẩn bị tài liệu tại Toà án;
− Chủ toạ phiên toà về thời gian luật sư tham gia phiên toà.
Bên cạnh đó, khi tham gia tố tụng theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư
cần lưu ý về cách thức thanh toán thù lao như sau:
Đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư thì luật sư đó không được
trực tiếp nhận thù lao từ cơ quan tiến hành tố tụng mà phải thông qua tổ chức hành nghề luật
sư nơi luật sư đó hành nghề. Tổ chức hành nghề luật sư nhận thù lao phải tuân theo các quy
định của pháp luật về kế toán. Trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân thì được
quyền nhận thù lao trực tiếp từ cơ quan tiến hành tố tụng. Luật sư nhận thù lao cũng phải
chấp hành đúng quy định của pháp luật về thuế, tài chính và thống kê
2.3.

Tự nguyện tuân theo quy chuẩn đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư và nêu
bật tính chất xã hội - nhân đạo trong hành nghề luật sư
2.3.1. Đạo đức nghề luật sư:

NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI KHOA HỌC – ĐINH THÙY TRINH


×