Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận phân tích tính hiệu quả trong việc thực thi chính sách tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.94 KB, 33 trang )

Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân

CHỦ ĐỀ CHUẨN BỊ THEO NHÓM

Tên chủ đề: Phân tích tính hiệu quả trong việc thực thi Chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước trong những năm gần đây. Đưa ra kiến nghị cần thiết.

Giáo viên hướng dẫn: TS Đoàn Phương Thảo
Đồng tác giả: Nhóm 5

Hà nội – 2017


A. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (CSTT)
1.

Khái niệm:

Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế
của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được
những mục tiêu kinh tê-xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Khác với chính sách
tài chính, chính sách tiền tệ quốc gia tập trung vào mức độ khả năng thanh toán
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, bao gồm việc đáp ứng khối lượng cần cung ứng
cho lưu thông, điều khiển hệ thống tiền tệ và khối lượng tín dụng đáp ứng vốn cho
nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy hoạt động của thị trường tiền tệ, thị trường
vốn theo những quỹ đạo đã định.
Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường.
Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng
tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đền bốn mục tiêu lớn của kinh tế
vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của
đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan


tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là một năm)
phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên
cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.
2.

Vị trí chính sách tiền tệ

Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ
là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh
vực lưu thông tiền tệ . Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế
vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối
ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính
sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
3.1 Ổn định giá trị đồng tiền
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền
của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội
của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối
ngoại(tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới
ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế
không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ
thất nghiệp tăng lên.


3.2 Tăng công ăn việc làm
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa
các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ

lệ lạm phát tăng lên.
3.3 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định
các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định,
đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của
dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu
trên đạt được một cách hài hoà.
4. Các công cụ của CSTT:
4.1 Nghiệp vụ thị trường mở
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do Ngân hàng trung
ương thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết
lượng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động: Khi Ngân hàng trung ương mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm
cho cơ số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trường mở chỉ gồm Ngân hàng trung ương và các Ngân hàng thương mại
thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các Ngân hàng thương mại
(R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong
lưu thông(C)
Đặc điểm: Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một
công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán
mua ( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh,ít tốn kém về chi
phí ,dễ đảo ngược tình thế.
4.2 Dự trữ bắt buộc
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại,do Ngân
hàng trung ương qui định ,gửi tại Ngân hàng trung ương, không hưởng lãi,không
được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng só tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định
của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số
nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các Ngân hàng thương

mại. Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các
Ngân hàng thương mại giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm
cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp Ngân
hàng trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động
của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh


hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao
vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng
không tốt tới hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
4.3 Chính sách tái chiết khấu
Khái niệm : Đây là hoạt động mà Ngân hàng trung ương thực hiện cho vay
ngắn hạn đối với các Ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu
bằng việc đIều chỉnh lãi suất tái chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho
vay tái chiết khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động: Khi Ngân hàng trung ương tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu
sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các Ngân hàng thương mại vay tiền tại Ngân hàng
trung ương làm cho khả năng cho vay của các Ngân hàng thương mại giảm (tăng)
từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Mặt khác khi Ngân
hàng trung ương muốn hạn chế Ngân hàng thương mại vay chiết khấu của mình thì
thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Đặc điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp Ngân hàng trung ương thực hiện vai
trò là người cho vay cuối cùng đối với các Ngân hàng thương mại khi các Ngân
hàng thương mại gặp khó khăn trong thanh toán ,và có thế kiểm soát được hoạt
động tín dụng của các Ngân hàng thương mại đồng thời có thể tác động tới việc
đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào
các lĩnh vực cụ thể.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung ứng,trong
một nền kinh tế nếu Ngân hàng trung ương sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này

thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .
Trong những điều kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển; các giai đoạn kinh
tế quá nóng ) thì để đạt được mục tiêu của mình , Ngân hàng trung ương có thể sử
dụng các công cụ điều tiết trực tiếp sau:
4.4 Quản lý hạn mức tín dụng của các Ngân hàng thương mại
Khái niệm : là việc Ngân hàng trung ương quy định tổng mức dư nợ của các
Ngân hàng thương mại không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời
gian nhất định(một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của
mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trưởng, lạm phát tiêu thụ..) sau đó Ngân hàng trung
ương sẽ phân bổ cho các Ngân hàng thương mại và Ngân hàng thương mại không
thể cho vay vượt quá hạn mức do Ngân hàng trung ương quy định .
Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với
lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền
kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của
Ngân hàng thương mại.
Đặc điểm: Giúp Ngân hàng trung ương điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền
cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của


nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của
nền kinh tế . Nhược điểm: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các Ngân hàng
thương mại,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều
hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương và nó sẽ trở nên
quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
4.5 Quản lý lãi suất của các Ngân hàng thương mại
Khái niệm : Ngân hàng trung ương đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một
trần lãi suất cho vay để hướng các Ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất theo
giới hạn đó,từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và Ngân hàng
trung ương có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.

Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại
làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho Ngân hàng trung ương thực hiện quản lý lượng tiền cung
ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ,điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có
điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp. Do vậy dễ làm mất đi
tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của
vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến
kinh tế . Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất dễ làm cho các Ngân
hàng thương mại bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.


B. THỰC THI CSTT CỦA NHNN VN TRONG GIAI ĐOẠN 2011-2016
I. NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ (NVTTM):
1. CÁC NGHIỆP VỤ TTM:
Có hai loại Nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động
nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ, và Nghiệp vụ thị trường mở thụ động
nhằm bụ lại những chuyển động của nhân tố khác đã ảnh hưởng tới cơ số tiền tệ.
Các hoạt động này cần có sự tham gia của NHTW, nếu không sẽ không làm thay
đổi cơ số tiền.
Giao dịch giấy tờ có giá
- Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch muabán hẳn).
Các giao dịch này bao gồm các nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá của
NHTW trên thị trường theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị
trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hắn quyền sở hữu đối với các chứng
khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy ảnh hưởng của nó đối với dự trữ các Ngân
hàng là dài hạn các giấy tờ đó phải là các công cụ nợ có mức rủi ro thấp và phải
được phát hành bởi các tổ chức đủ điều kiện theo quy định
- Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn).
Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là

các hợp đồng mua lại. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một
giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là nó mua chứng khoán từ người môi
giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngày trong tương lai.


Giao dịch mua mua bán có kỳ hạn tồn tại dưới dạng:
Thứ nhất: Mua bán theo hợp đồng mua lại: Là việc NHTW ký hợp đồng
mua bán với người giao dịch và ngươi giao dịch đồng ý mua lại các giấy tờ có giá
của NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Thứ hai : Mua bán theo hợp đồng mua lại đảo ngược : là việc NHTW bán
các giấy tờ có giá cho người giao dịch và người giao dịch lại đồng ý bán lại các
giấy tờ có giá cho NHTW vào một ngày xác định trong tương lai.
Các giao dịch có hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong Nghiệp vụ thị trường
mở vì những lý do sau:
Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ của các Ngân hàng, chi phí giao dịch của một hợp
đồng mua lại rẻ hơn so với hợp đồng mua đứt bán đoạn; Thích hợp trong trường
hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các
giải pháp khắc phục; làm giảm thời gian thông báo, do đó mà làm giảm bớt biến
động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW .
- Nghiệp vụ giao dịch hoán đổi ngoại tệ
Trong nghiệp vụ này khi tham gia giao dịch thi NHTW đồng thời ký hai hợp
đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi
Hợp đồng 1: Mua bán ngoại tệ với tỷ giá giao ngay
Hợp đồng 2: Bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá có kỳ hạn
Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong
Nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành, chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán
đổi các chứng khoán đến hạn .
2. Các loại giấy tờ có giá được phép giao dịch trên TTM:
Thống Đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã quy định giấy tờ có giá được

giao dịch tại quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của về ban hành
quy chế NVTTM, có quy định giấy tờ có giá được giao dịch gồm:
• Tín phiếu kho Bạc
• Tín phiếu NHTW
• Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy định cụ thể
trong từng thời kỳ
2.2.1 Tín phiếu kho bạc (TB)
Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu
hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12


tháng. Đây là công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW
các nước vì:
-Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao.
-Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu
cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau.
Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng
phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành
hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ. Do vậy, khối lượng tín
phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính phủ và sự hạn chế tốc độ
tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ.
2.2.2 Chứng chỉ tiền gửi (CD).
Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài
chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời
gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi
thường là ngắn hạn nhưng do tính bảo đảm lưu thông nên được sử dụng như là
hàng hóa phổ biến cho NVTTM. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay
đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang
quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân
hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền.

2.2.3 Thương phiếu (CP).
Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc
cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất
định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn
ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với
người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương
phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh
toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của
các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM.
2.2.4 Trái phiếu chính phủ.
Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành
nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu
chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn,
khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp
đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính.


2.2.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương.
Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa
phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông
thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về
thuế thu nhập từ trái phiếu.
2.2.6 Các hợp đồng mua lại.
Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng
làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay
không thanh toán nợ.
Hàng hoá trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hoá, điều này phụ
thuộc vào:
Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt
là dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá các hoạt động tài chính và sự xuất hiện

nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải
tìm kiếm các công cụ mới thoả mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt: Thời hạn,
mức độ rủi ro, mức sinh lời, cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh
hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hoá trên thị trường mở.
3. NHỮNG NGƯỜI THAM GIA NVTTM:
Thị trường mở thực chất là thị trường tiền tệ mở rộng nên các chủ thể tham
gia thị trường này rất đông đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau.
3.1 Các Ngân hàng thương mại.
Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để
duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời qua
thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp cụ môi giới và kinh doanh chứng
khoán.
3.2 Các tổ chức tài chính phi ngân hàng .
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: Các công ty bảo hiểm, công
ty tài chính, quỹ đầu tư…Các tổ chức này coi thị trường mở như là nơi kiếm thu
nhập qua việc sử dụng vốn nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá trị ngắn
hạn hoặc dài hạn.
3.3 Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn.
Khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán
ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi… để kiếm lời.


3.4 Các hộ gia đình.
Hộ gia đình tham gia thị trường mở như họ phải chuyển các giấy tờ có giá
ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất, họ mua các
chứng khoán phòng ngừa rủi ro bật ngờ, đầu tư vào giấy tờ có giá nhờ vào sự thay
đổi lãi suất dự đoán.
3.5 Các nhà giao dịch chuyên nghiệp.
Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua
bán các chứng từ có giá trị giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất

kinh doanh; các nhà đầu tư tư nhân; các ngân hàng và tổ chức tài chính phi ngân
hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giữa giá mua, giá bán.
3.6 Ngân hàng trung ương.
NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị
trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá trị ngắn hạn nhằm cung cấp cho
hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế. NHTW sử dụng Nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính
sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng kiểm soát và điều
tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở
không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách
tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó.
3.7 Kho bạc Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước cung ứng hàng hoá cho thị trường mở như tín phiếu, trái
phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong hoạt động
của thị trường mở.

4. HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG MỞ:
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên các
khía cạnh: phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu .
4.1 Phương thức mua bán trên thị trường mở
Có hai hình thức giao dịch chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình thức
mua bán có thời hạn.
- Mua - bán hẳn : là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá
từ bên bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại. Với phương
thức này, chỉ được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại (tức thời


gian thanh toán còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá
được mua, bán thông qua nghiệp vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy
định trong từng thời kỳ (ở Việt Nam hiện nay là 90 ngày).

- Mua bán có kỳ hạn: (giao dịch có thời hạn) là việc bên bán bán và chuyển
giao giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở
hữu giấy tờ có giá đó sau thời gian nhất định.
4.2 Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
NHTW áp dụng hai hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và
mua bán có thời hạn đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương
thức đấu thầu:
- Phương thức đấu thầu khối lượng:
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia
nghiệp vụ TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng
giấy tờ có giá mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
+ NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ
có giá cần mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua
hoặc cần bán).
+ Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua
hoặc cần bán theo mức lãi suất do NHTW công bố
Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị tham
gia dự thầu theo nguyên tắc sau :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng
NHTW cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khồi
lượng dự thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW cần
mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ
lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD.
- Phương thức đấu thầu lãi suất:
Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở
khối lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua
hoặc cần bán.
+ NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần
mua hoặc cần bán.

+ Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá
cần mua hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ
lệ phần trăm và được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp


xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại
lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.
• Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và
lãi suất dự thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối
lượng giấy tờ có giá NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc
theo lãi suất riêng lẻ:



Lãi suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một
mức lãi suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
Lãi suất riêng lẻ: khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức
lãi suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.

Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :




Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng
mà NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối
lượng trúng thầu.
Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ

lệ thuận với khối lượng dự thầu của các TCTD đó.

5. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NVTTM TẠI VN:
5.1 QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN:
Ở Việt Nam, kể từ khi ra đời vào tháng 7/2000 đến nay, NHNN đã không
ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ NVTTM phù hợp với thông lệ quốc tế thông
qua từng bước xây dựng đồng bộ khuôn khổ pháp lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng và cải
tiến quy trình giao dịch, đa dạng các loại hàng hóa trên NVTTM để thu hút đông
đảo các chủ thể tham gia giao dịch nhằm đưa NVTTM trở thành công cụ gián tiếp
chủ yếu trong điều hành CSTT của NHNN để duy trì sự ổn định và phát triển của
TTTT, cụ thể:
Về khuôn khổ pháp lý, Ngày 09/03/2000 Ngân hàng Nhà nước ban hành
Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 về việc ban hành quy chế nghiệp vụ thị
trường mở. Gần đây nhất với việc ban hành Thông tư số 42/TT-NHNN ngày
31/12/2015 thay thế Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 ban hành
quy chế NVTTM và các văn bản pháp luật có liên quan trước đó đã góp phần hoàn
thiện khung pháp lý cho các giao dịch trên NVTTM, đảm bảo phù hợp với quy
định tại Luật NHNN năm 2010 và thông lệ chung quốc tế. Trong đó, với việc
không giới hạn về thời hạn giao dịch trên NVTTM (có thể giao dịch với kỳ hạn
ngắn hạn, trung và dài hạn), tùy thuộc theo mục tiêu điều hành CSTT đã làm tăng


tính chủ động và hiệu lực của công cụ NVTTM trong việc điều tiết thanh khoản
trên thị trường tiền tệ, qua đó tăng khả năng điều tiết và định hướng thị trường của
NHNN.
Về hạ tầng công nghệ trên NVTTM cũng từng bước được NHNN đầu tư đổi
mới và cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NVTTM, đảm bảo phù hợp
với xu hướng công nghệ hóa toàn cầu. Từ chỗ việc thực hiện thu thập thông tin để
đánh giá, dự báo vốn khả dụng và tổ chức đấu thầu bằng thủ công mất nhiều thời
gian, NHNN đã chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin, cho phép giao dịch

kết nối trực tuyến giữa NHNN và các thành viên thị trường, đến nay NHNN đã
nâng cấp phần mềm hệ thống giao dịch theo dự án Hệ thống thông tin quản lý và
hiện đại hóa hệ thống ngân hàng - FSMIMS và đưa vào vận hành từ tháng 6/2016,
tạo điều kiện cho các thành viên tham gia giao dịch nhanh chóng, thuận tiện và các
giao dịch chuyển quyền sở hữu GTCG, chuyển tiền mua - bán được xử lý ngay sau
khi giao dịch với khối lượng lớn.
Về tần suất giao dịch được rút ngắn 10 ngày/phiên năm 2000 xuống còn 1-3
phiên/tuần trong giai đoạn 2001 - 2006 và từ cuối năm 2006 đến nay thực hiện
thường xuyên theo định kỳ hàng ngày. Tuy nhiên, từ cuối năm 2008, do thị trường
tài chính - tiền tệ toàn cầu có nhiều biến động, hệ thống các TCTD thực hiện tái cơ
cấu nên NHNN tăng cường thực hiện 1 - 2 phiên/ngày, trong đó: duy trì 01 phiên
chào mua GTCG vào buổi sáng để phát tín hiệu ổn định thị trường tiền tệ, hỗ trợ
các TCTD gặp khó khăn vay vốn trên thị trường liên ngân hàng; ngoài ra trên cơ
sở diễn biến lãi suất, tỷ giá và tình hình vốn khả dụng của TCTD, buổi chiều
NHNN có thể thực hiện 01 phiên chào bán tín phiếu NHNN khi thanh khoản dư
thừa nhằm kiểm soát lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá; hoặc thời điểm nhu cầu thanh
khoản tăng cao (như các dịp Tết, dịp nghỉ lễ dài ngày...), NHNN có thể bổ sung 01
phiên chào mua GTCG để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, đáp ứng nhu cầu rút
tiền mặt trong nền kinh tế và ổn định thị trường tiền tệ.
Về hàng hóa giao dịch đến nay rất đa dạng và phong phú, là các GTCG có
tính thanh khoản cao và phù hợp với thông lệ chung của thế giới, chủ yếu gồm Trái
phiếu Kho bạc, Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu NHNN, Trái phiếu Chính phủ bảo
lãnh (do Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát
hành); Trái phiếu Chính quyền địa phương của một số tỉnh, thành phố và các
GTCG khác được phép giao dịch theo quy định của NHNN. Nghiệp vụ thị trường
mở phát triển đã thu hút nhiều TCTD tham gia giúp tăng khả năng lan tỏa tác động
của CSTT đến thị trường tiền tệ và hệ thống TCTD. Từ chỗ chỉ có 4 ngân hàng
thương mại (NHTM) Nhà nước và một số NHTM cổ phần là thành viên khi mới
vận hành NVTTM, đến nay đa số các TCTD đều được công nhận là thành viên
NVTTM (70 TCTD).

Ngoài ra, trong bối cảnh tự do hóa tài chính tiền tệ toàn cầu, các luồng vốn
vào - ra thường xuyên biến động nên đa số NHTW các nước hiện có xu hướng
lựa chọn mục tiêu điều hành NVTTM là điều tiết lãi suất – chuyển từ mục tiêu


điều hành khối lượng sang kết hợp mục tiêu lãi suất theo thông lệ và xu hướng
chung (như Mỹ, Châu Âu, Hàn Quốc, Thái Lan...) nhằm giảm thiểu các rủi ro gây
bất ổn đến thị trường tài chính tiền tệ trong nước cũng như hoạt động của hệ thống
ngân hàng.

5.2 NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP
TRIỂN KHAI NVTTM
5.2.1 Thực thi chính sách ổn định TTTT qua việc điều tiết thanh khoản
hệ thống và lãi suất trên thị trường:
So với các công cụ CSTT khác (tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ…), NVTTM
là công cụ xử lý nhanh, mang tính hai chiều, có thể bơm ra - hút về với khối lượng,
lãi suất hợp lý, kỳ hạn linh hoạt đa dạng để điều tiết thanh khoản hệ thống và lãi
suất trên thị trường nhằm ổn định TTTT và đạt được mục tiêu CSTT trong từng
thời kỳ, cụ thể:
Giai đoạn từ năm 2009-2011, với chủ trương nới lỏng CSTT chống suy
giảm kinh tế trong điều kiện thanh khoản của các TCTD khó khăn và không đồng
đều do sau một thời gian tín dụng tăng trưởng nóng, theo đó, NHNN chủ yếu thực
hiện các phiên chào mua GTCG để đưa tiền ra với các kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28
ngày), khối lượng và lãi suất chào mua điều chỉnh phù hợp với tình hình vốn khả
dụng và diễn biến thị trường nhằm vừa hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, tạo điều
kiện giảm lãi suất huy động, cho vay, ổn định thị trường tiền tệ, vừa đảm bảo kiểm
soát lạm phát và các chỉ tiêu tiền tệ theo mục tiêu. Một số thời điểm lạm phát có
nguy cơ tăng trở lại như từ tháng 7 - 12/2009, NHNN đã linh hoạt chào bán tín
phiếu NHNN định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng để hút tiền về từ các
TCTD có dư thừa. Thời điểm từ tháng 10/2010 đến đầu 9/2011, lạm phát có dấu

hiệu tăng lên 2 con số, NHNN đã điều hành thận trọng theo hướng giảm dần kỳ
hạn chào mua từ 28 ngày xuống 7 ngày; lãi suất chào mua cũng được điều chỉnh
tăng dần lên mức 15%/năm. Từ cuối tháng 9/2011, trong bối cảnh M2, tín dụng
được kiểm soát, lạm phát có dấu hiệu tăng chậm lại, để hỗ trợ thanh khoản cho các
TCTD, tạo điều kiện giảm lãi suất, NHNN đã bổ sung kỳ hạn chào mua 14 ngày và
điều chỉnh giảm lãi suất từ 15%/năm xuống 14%/năm.
Giao dịch NVTTM trong giai đoạn này chủ yếu là các phiên chào mua
GTCG với khối lượng trúng thầu bình quân/phiên ở mức cao, đạt mức cao nhất
6.499 tỷ đồng/phiên năm 2011. (Bảng 1)
Bảng 1: Doanh số giao dịch trên thị trường mở giai đoạn 2011 - 2015
Năm

Tổng doanh
số mua

Tổng
doanh

Số
phiên

Đơn vị: tỷ đồng
Số lượt KL trúng
KL trúng
thành
thầu mua
thầu


số bán

2011
2012
2013
2014
2015
2016

2.801.253
449.922
179.386
101.200
403.490

0
174.000
254.863
353.616
233.350

giao
dịch
431
378
418
484
388

viên
8.469
2.434

1.251
1.903
1.023

bình
quân/phiên
6.499
1.505
698
400
1.563

bán bình
quân/phiên
0
2.203
1.583
1.531
1.127

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tính toán của tác giả
Giai đoạn từ năm 2012 -2015, NVTTM tiếp tục là công cụ chủ yếu giúp
NHNN điều tiết tiền tệ và ổn định lãi suất thị trường. Trong điều kiện thanh khoản
Đồng Việt Nam (VND) của các TCTD cải thiện và có dư thừa, lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng giảm so với giai đoạn trước do tăng trưởng tín dụng đã được
kiểm soát theo mục tiêu, thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định, người dân có xu
hướng chuyển sang nắm giữ VND, tạo điều kiện cho NHNN đưa tiền ra mua lượng
lớn ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, theo đó, NHNN đã điều hành linh
hoạt NVTTM theo cả 2 chiều mua/bán GTCG hàng ngày nhằm góp phần ổn định
thị trường tiền tệ, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định tỷ giá. Cụ thể: (i) Trong

điều kiện các kênh hút tiền về hạn chế, NHNN đã sử dụng công cụ chào bán tín
phiếu NHNN trên NVTTM để hút tiền từ các TCTD có dư thừa với kỳ hạn đa dạng
từ 7 ngày đến 182 ngày, khối lượng chào bán phù hợp với diễn biến vốn khả dụng,
lãi suất chào bán tín phiếu cũng được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với các mức lãi
suất trên thị trường và mục tiêu điều hành CSTT; (ii) Mặt khác, do hệ thống các
TCTD đang trong quá trình tái cơ cấu nên để đảm bảo an toàn thanh khoản cho hệ
thống, hàng ngày, NHNN thực hiện chào mua GTCG với kỳ hạn ngắn (chủ yếu 7
ngày), khối lượng tối thiểu là 1.000 tỷ đồng/phiên để phát tín phiếu hiệu ổn định
thị trường tiền tệ và sẵn sàng hỗ trợ vốn của NHNN, lãi suất chào mua GTCG
cũng được điều chỉnh giảm dần từ 14% xuống và duy trì ở mức 5%/năm, qua đó
góp phần ổn định tâm lý và lãi suất trên thị trường tiền tệ, hỗ trợ tăng trưởng M2,
tín dụng theo đúng định hướng. Doanh số chào bán tín phiếu NHNN giai đoạn này
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng doanh số giao dịch với khối lượng trúng thầu bình
quân/phiên đạt mức cao nhất 2.203 tỷ đồng/phiên vào năm 2012 và giảm xuống
mức 1.127 tỷ đồng/phiên năm 2015.
Trong 7 tháng đầu năm 2016, NVTTM tiếp tục được NHNN điều hành hết
sức linh hoạt và bám sát diễn biến hàng ngày của thị trường tiền tệ, diễn biến kinh
tế vĩ mô để đảm bảo điều tiết tiền tệ theo mục tiêu của Chính phủ và NHNN đề ra.
Cụ thể: (i) Trong hơn 3 tháng đầu năm, huy động vốn tăng chậm, trong khi tín
dụng tăng ngay từ đầu năm, thanh khoản của các TCTD thiếu hụt, mặt bằng lãi
suất thị trường liên ngân hàng tăng cao ở sát mức trần 5%/năm, lãi suất huy động
có xu hướng tăng nhẹ 0,2-0,3%/năm, tạo áp lực tăng mặt bằng lãi suất cho vay,
theo đó, NHNN đã chủ động thực hiện hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD thông
qua việc đưa tiền khối lượng lớn ra qua kênh chào mua GTCG trên NVTTM nhằm
ổn định lãi suất liên ngân hàng, qua đó hỗ trợ giảm lãi suất trên thị trường 1. Kết


quả, từ cuối tháng 4, huy động vốn VND đã có xu hướng tăng trở lại, cùng với
lượng tiền NHNN đưa ra từ mua ngoại tệ, thanh khoản của các TCTD trở nên dư
thừa, lãi suất thị trường liên hàng giảm mạnh; (ii) Từ đầu tháng 4/2016, với việc

thực hiện cơ chế tỷ giá mới đã làm giảm tâm lý găm giữ ngoại tệ, vì vậy giảm áp
lực gia tăng tỷ giá, thị trường ngoại hối ổn định, theo đó, tạo điều kiện cho NHNN
điều hành NVTTM theo hướng cho phép duy trì thanh khoản dồi dào và lãi suất
liên ngân hàng ở mức thấp, qua đó góp phần đạt được mục tiêu ổn định mặt bằng
lãi suất và ngăn xu hướng điều chỉnh tăng lãi suất.
Như vậy, thời gian qua công cụ NVTTM đã được NHNN điều hành linh
hoạt, bám sát diễn biến cung-cầu vốn của các TCTD và ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc điều tiết tiền tệ và lãi suất nhằm đạt được các mục tiêu điều hành
CSTT linh hoạt trong từng thời kỳ.
5.2.2 Định hướng lãi suất liên ngân hàng nhằm kiểm soát biến động lãi
suất trên thị trường 1, hỗ trợ ổn định tỷ giá và phát tín hiệu điều hành CSTT:
Từ cuối năm 2011 đến nay, để đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh
tế vĩ mô, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý, NHNN đã có sự đổi mới trong điều hành CSTT
theo hướng chuyển dần từ điều tiết khối lượng sang kết hợp giữa điều tiết khối
lượng và điều tiết lãi suất, tỷ giá để chủ động dẫn dắt và định hướng thị trường.
Theo đó, bên cạnh đưa ra mục tiêu định hướng về M2 và tăng trưởng tín dụng,
hằng năm, NHNN còn định hướng về giảm mặt bằng lãi suất cho vay, mức tăng tỷ
giá tối đa và sử dụng đồng bộ các công cụ CSTT, đặc biệt là công cụ NVTTM
nhằm đạt được mục tiêu.
Thông qua việc điều chỉnh lãi suất chào mua GTCG trên NVTTM đồng bộ
với các mức lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất chào mua luôn nằm trong
khoảng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu), cùng với việc quyết định khối
lượng tiền cung ứng ra hay hút về trên NVTTM hợp lý, NHNN đã điều tiết vốn
khả dụng của các TCTD, làm cho lãi suất thị trường liên ngân hàng dao động xung
quanh mức lãi suất NVTTM, hạn chế sự biến động của lãi suất thị trường, qua đó
góp phần hỗ trợ đạt được mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất huy động-cho vay và
mục tiêu tỷ giá công bố từ đầu năm. Từ năm 2012 đến nay, trong bối cảnh thanh
khoản toàn hệ thống có dư thừa nhưng NHNN vẫn duy trì thực hiện chào mua qua
NVTTM theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm phát tín

hiệu điều hành CSTT và hỗ trợ nguồn vốn cho các TCTD gặp khó khăn trong việc
đi vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, qua đó ổn định tâm lý và kỳ vọng lãi
suất trên thị trường tiền tệ. Khi thị trường có những biến động hoặc trong các dịp
lễ, Tết nhu cầu rút tiền để chi tiêu của người dân và các doanh nghiệp tăng cao,
NHNN đã tăng cường hỗ trợ thanh khoản qua NVTTM nhằm đáp ứng kịp thời nhu
cầu thanh toán cho nền kinh tế, cũng như hạn chế gây áp lực tăng mặt bằng lãi suất
thị trường liên ngân hàng, góp phần ổn định lãi suất thị trường. Khi thanh khoản
của các TCTD dư thừa nhiều chủ yếu do NHNN mua được ngoại tệ từ nền kinh tế,


lãi suất liên ngân hàng giảm xuống thấp, NHNN đã phát hành tín phiếu NHNN có
tính linh hoạt, mềm dẻo để hút về lượng vốn khả dụng từ các TCTD có dư thừa
nhằm vừa kiểm soát lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá, nhưng với khối lượng, kỳ hạn,
lãi suất phát hành được cân nhắc phù hợp nên vẫn đảm bảo nguồn vốn cho TCTD
tăng trưởng tín dụng, đầu tư trái phiếu Chính phủ(TPCP) và tạo điều kiện cho giảm
mặt bằng lãi suất.
Với việc điều hành linh hoạt NVTTM đã góp phần quan trọng trong việc đạt
hài hòa cả hai mục tiêu lãi suất và tỷ giá trong thời gian qua. Kết quả đến nay, mặt
bằng lãi suất cho vay của hệ thống TCTD chỉ còn bằng 40% so với cuối năm 2011
đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ giá
được kiểm soát trong biên độ NHNN công bố từ đầu năm đã củng cố lòng tin vào
VND, giảm tình trạng đô la hóa, tạo điều kiện cho NHNN tiếp tục mua vào ngoại
tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Đặc biệt trong năm 2015, mặc dù có những biến
động lớn trên thị trường tài chính quốc tế, nhiều đồng tiền bị biến động mạnh,
nhưng VND chỉ mất giá khoảng 5% một phần nhờ NVTTM được điều hành linh
hoạt nhằm điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường liên ngân hàng ở mức hợp lý để
giảm bớt áp lực tăng tỷ giá. (Hình 1)
Hình 1: Diễn biến lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, liên ngân hàng,
NVTTM giai đoạn 2010 – 2015


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Đồng thời, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thường xuyên biến động
xung quanh lãi suất chào mua GTCG trên NVTTM và việc phát hành tín phiếu
NHNN đã góp phần giữ lãi suất liên ngân hàng không giảm sâu, ảnh hưởng đến sự
ổn định tỷ giá, phát huy tối đa được vai trò điều tiết lãi suất trên thị trường của
NHNN. Đây cũng là cơ sở để NHNN dần hình thành khuôn khổ điều hành CSTT
sử dụng lãi suất liên ngân hàng là mục tiêu điều hành, góp phần ổn định thị trường
tiền tệ và hoạt động hệ thống ngân hàng.


5.2.3 Hỗ trợ các TCTD về thanh khoản khi có biến động đột biến, thời vụ:
Qua theo dõi cho thấy, công cụ NVTTM là kênh cung ứng vốn chủ yếu của
NHNN với doanh số chào mua qua NVTTM chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh
số hỗ trợ vốn của NHNN qua các kênh (cầm cố, chiết khấu GTCG, NVTTM và
hoán đổi ngoại tệ…), điều này khẳng định được vai trò quan trọng của NVTTM
trong việc hỗ trợ các TCTD khi thiếu hụt thanh khoản tạm thời, đảm bảo hệ thống
ngân hàng hoạt động an toàn và thông suốt, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong nền
kinh tế.
Với đặc thù thời gian và thủ tục tham gia giao dịch nhanh chóng, thuận tiện
thông qua hệ thống phần mềm đấu thầu qua mạng điện tử, các giao dịch chuyển
tiền diễn ra trong ngày, do dó, việc điều hành NVTTM đã giúp các TCTD có thể
tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ thanh khoản kịp thời từ NHNN. Hiện nay, đa số NHTW
các nước đều thực hiện NVTTM theo định kỳ hàng ngày để giúp NHTW có thể
linh hoạt ứng phó với diễn biến bất thường của thị trường, hạn chế tối đa tác động
tiêu cực. Ở Việt Nam, hệ thống các TCTD đang trong quá trình tái cơ cấu, khả
năng quản lý vốn khả dụng của các TCTD còn hạn chế nên thời gian qua, NHNN
đã thường xuyên duy trì phiên chào mua GTCG/ngày hàng ngày để phát tín hiệu
ổn định thị trường tiền tệ.
Ngoài việc bù đắp về khối lượng vốn thanh khoản thiếu hụt, hoạt động
NVTTM đảm bảo tính kịp thời, đáp ứng ngay được nhu cầu của các TCTD, đặc

biệt là trong các thời điểm nhu cầu thanh khoản tăng cao, thị trường biến động khó
dự đoán trước được như thời điểm cuối năm vào các dịp giáp Tết Dương lịch và
Âm lịch, thời điểm nghỉ lễ dài ngày hàng năm (như 30/4 & 1/5, dịp 2/9...), hoặc
khi các khách hàng lớn có nhu cầu rút tiền mặt thanh toán thuế, lương, thưởng
hàng tháng..., các TCTD có nhu cầu dự phòng thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu
thanh toán, theo đó, trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường, NHNN đã chủ động
tăng khối lượng chào mua GTCG, thậm chí tăng số phiên chào mua lên 2
phiên/ngày nhằm hỗ trợ thiếu hụt thanh khoản tạm thời cho các TCTD, đảm bảo
ổn định thị trường tiền tệ. Riêng trong giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế 2012-2015,
thị trường phải trải qua các biến động mạnh như sự kiện liên quan đến các lãnh
đạo cao cấp của của NHTM (ACB, Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đại
Dương...), sự kiện Biển Đông, hay các thời điểm lãi suất trên liên ngân hàng tăng
quá cao, NHNN đã chủ động bơm khối lượng lớn tiền qua kênh NVTTM nhằm
phát tín hiệu và kịp thời ổn định thị trường tiền tệ và đảm bảo an toàn hệ thống.
Số liệu thực tế cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2009 - 2011, kinh tế trong
nước chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, khối lượng tiền đưa ra qua
kênh chào mua GTCG bình quân đạt mức cao khoảng từ 3.718-6.499 tỷ
đồng/phiên,với số lượt thành viên tham gia khoảng từ 3.085 đến 8.469 lượt/năm.
Từ năm 2012 - 2015 thanh khoản của TCTD dư thừa, khối lượng trúng thầu chào
mua bình quân giảm xuống còn từ 400 - 1.563 tỷ đồng/phiên, số lượt thành viên
tham gia cũng thấp hơn và ở mức khoảng từ 170 - 1.431 lượt/năm, tuy nhiên doanh


số giao dịch từng phiên có xu hướng tăng, một số thời điểm nhu cầu thanh khoản
tăng khối lượng chào mua lên đến 10.000 - 30.000 tỷ đồng/phiên, cho thấy
NVTTM ngày càng trở thành là kênh chủ yếu đáp ứng nhu cầu thanh khoản của thị
trường trong thời gian qua.
Như vậy, với việc điều hành nhanh nhạy, sát với diễn biến thị trường của
NHNN, NVTTM đã phát huy được vai trò quan trọng trong việc ổn định thị trường
tiền tệ với khả năng tác động nhanh, chính xác và kịp thời đến thị trường, cũng

như phát huy được tối đa vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN.
5.2.4 Thúc đẩy sự phát triển TPCP và TTTT qua việc tăng cường phối
hợp chặt chẽ giữa CSTT và CS tài khóa:
Hàng hóa giao dịch trên NVTTM chiếm tỷ trọng lớn là các loại TPCP đã
một mặt làm nâng cao tính thanh khoản cho các GTCG này trên thị trường tiền tệ,
mặt khác tạo động lực khuyến khích các TCTD tăng cường đầu tư, nắm giữ các
GTCG này như dự trữ đệm, khi cần có thể tiếp cận nguồn vốn của NHNN thông
qua NVTTM hay các kênh cho vay TCTD khác của NHNN (tái cấp vốn, cầm cố,
chiết khấu), qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường TPCP sơ cấp và thứ cấp,
tạo điều kiện cho các giao dịch cầm cố, mua - bán GTCG diễn ra sôi động và
thường xuyên hơn, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Đặc biệt, sau khi trải qua
thời điểm khó khăn về vốn thanh khoản như trong năm 2008 nhưng không có
nhiều GTCG để tham gia giao dịch với NHNN, các TCTD đã chủ động hơn trong
việc tăng dự trữ GTCG đủ điều kiện tham gia giao dịch với NHNN. Trong những
năm gần đây, các TCTD đã tăng cường đầu tư vào TPCP với tỷ lệ sở hữu trái phiếu
của các NHTM luôn ở mức cao, năm 2015 đạt khoảng 85,38% (năm 2014:
87,79%), góp phần tạo điều kiện cho Bộ Tài chính phát hành thành công TPCP.
Ngoài ra, với mục tiêu giảm lãi suất trung - dài hạn, thanh khoản của các
TCTD được bảo đảm, NHNN đã điều hành lượng tiền đưa ra/thu về trên NVTTM
một cách hợp lý nhằm thiết lập mặt bằng lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ở
mức thấp, từ đó tác động tới lãi suất TPCP trên thị trường, tạo điều kiện hỗ trợ cho
Bộ Tài chính phát hành TPCP với khối lượng thành công với chi phí huy động
thấp, cũng như góp phần làm cho giao dịch trên thị trường thứ cấp sôi động hơn,
thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. Số liệu cho thấy, từ năm 2011-2015, khối
lượng phát hành TPCP liên tục gia tăng, từ mức khoảng 81.700 tỷ đồng năm 2011
lên mức khoảng 248.000 tỷ đồng năm 2014 và năm 2015 đạt khoảng 256.000 tỷ
đồng. Lãi suất phát hành TPCP bình quân có xu hướng giảm từ 12,01%/năm của
năm 2011 xuống mức 6,54%/năm vào năm 2014 và năm 2015 là 6,07%/năm, tác
động làm giảm chi phí vay nợ cho ngân sách nhà nước và tăng hiệu quả công tác
huy động vốn.

II. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CHIẾT KHẤU:
1. Tổng quan lãi suất chiết khấu của Ngân hàng trung ương


Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng trung ương
(NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng như NHNN Việt Nam là ổn định giá trị
đồng tiền của quốc gia thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là một
trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của NHTƯ để đạt được
mục tiêu tôn chỉ đó.
NHTW thực hiện cơ chế và chính sách lãi suất dựa trên nguyên tắc chủ yếu:
- Xuất phát từ quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường.
- Tác động trực tiếp đến việc điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới
lỏng phù hợp trong từng giai đoạn, thời kỳ của nền kinh tế.
- Là lãi suất cho vay cuối cùng của NHNN đối với NHTM.
Có thể thấy rằng NHTW sử dụng công cụ lãi suất để tác động vào nền kinh tế
vì lãi suất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cụ thể như sau:
- Ảnh hưởng của lãi suất do NHTW ấn định tới các NHTM
Tác động chủ yếu bởi 3 loại lãi suất sau: lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu và
lãi suất tái cấp vốn. Nếu muốn hạn chế việc tạo tiền của các ngân hàng thương
mại, Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn, từ đó kéo theo lãi suất trên
thị trường giữa các ngân hàng tăng lên, vốn khả dụng giảm, Ngân hàng Nhà nước
sẽ hận trọng trong việc cấp tín dụng, do đó tín dụng được cấp cho doanh nghiệp rất
ít.
- Ảnh hưởng tới tổng thể nền kinh tế:
Giả sử khi lãi suất thị trường tăng, lãi suất tăng làm giảm vay nợ dẫn đến cá
nhân giảm đi vay tăng gửi tiết kiệm do đó giảm tiêu dùng và tác động tiêu cực tới
tổng cầu. Thêm vào đó, doanh nghiệp giảm vay mới và do đó giảm đầu tư mới,
nên tác động tiêu cực tới tổng cầu. Mặt khác, lãi suất tăng còn có nghĩa là giá cả
các khoản vay hiện thời của doanh nghiệp tăng, có nghĩa là giá vốn tăng hay chi
phí sản xuất tăng. Điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, khiến doanh

nghiệp có xu hướng thu hẹp sản xuất; do đó tác động tiêu cực tới tổng cầu. Lợi
nhuận của doanh nghiệp giảm còn làm giảm thu nhập của người lao động. Điều
này khiến họ giảm tiêu dùng. Tổng cầu lại chịu tác động tiêu cực.
Thêm vào đó, lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất ở nước ngoài
sẽ khiến cho dòng vốn từ nước ngoài tăng cường chảy vào trong nước. Điều này
làm cho tỷ giá hối đoái giữa nội tệ với ngoại tệ giảm xuống. Xuất khẩu ròng vì thế
giảm làm cho tổng cầu giảm theo. Kiềm chế được lạm phát. Tùy tình hình cụ thể ở
mỗi quốc gia và mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn mà NHTW sử dụng công
cụ lãi suất để đưa ra những chính sách lãi suất phù hợp và riêng
biệt.
2. Lãi suất chiết khấu ở Việt Nam 5 năm gần đây
• Năm 2011:
3 tháng đầu năm:
- Không có nhiều biến động, nền kinh tế đang trên đà phục hồi
- Mức lãi suất duy trì ở mức thấp sau gói hỗ trợ lãi suất của NHNN cơ chế lãi
suất trần không còn cần thiết
03/2011 đến cuối năm:
- Tỷ lệ lạm phát tăng cao + giá cả nhiên liệu, năng lượng, các hàng hóa khác
tăng mạnh


Mục tiêu: kiểm soát lạm phát, ổn định nền kinh tế ◊ NHNN thực thi chính
sách tiền tệ thắt chặt ◊ LS tiền gửi và cho vay của NHTM tang
- Ban hành thông tư 02/2011/TT-NHNN (03/03/3011): mức lãi suất trần huy
động tiền gửi là 14% cho các NHTM.
- Ưu tiên hàng đầu: giảm lãi suất cho vay đối với các DN bằng cách kiểm soát
chặt chẽ mức lãi suất huy động đầu vào của các ngân hàng.
- Lãi suất huy động và cho vay vẫn tiếp tục tăng, và từ 14,5% vào 3/2010 lên
18,5% vào 06/2011 và 18,73% vào 08/2011
- Lập nhóm G12+1 ( 12 NHTM lớn và NHNN) ◊ xây dựng các chính sách

quản lý tiền tệ hiệu quả
- Chính sách trần lãi suất huy động ◊ giảm LS cho vay vào thời điểm cuối
năm
Chính sách trần tỏ ra không có hiệu lực và khó kiểm soát trong 10 tháng đầu
năm, nhung nhanh chóng có những chuyển biến tích cực trong các tháng cuối năm
Mục tiêu của NHNN: chặn lãi suất tăng cao tác động gia tăng lạm phát, ảnh
hưởng xấu tới
tăng trưởng kinh tế◊ 09/2011, NHNN đã quyết liệt siết chặt việc tuân thủ quy định
mức trần
lãi suất huy động vốn 14% và xử lý nghiêm các tổ chức tín dụng vi phạm. Nhờ
vậy, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng cũng đã dần dần đc kéo xuống ở mức
khoảng từ 17-19%, DN có thể chịu đựng được và có thể tiếp tục vay vốn để duy trì
phát triển sản xuất, kinh doanh.
Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên
13%), 4 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ
8% lên 15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010. Lãi suất bắt
đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy động VND lên đến
20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay phi
sản xuất từ 25-28%/năm. Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp
khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao.
Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.
• Năm 2012 (quý 1):
Tựu trung, có 5 gánh nặng đang đè lên vai lãi suất, nên việc điều chỉnh giảm
1% các lãi suất điều hành vừa qua của Ngân hàng Nhà nước là một cố gắng, đặt
trong định hướng thắt chặt - thận trọng - linh hoạt.
Gánh nặng thứ nhất là nhiệm vụ kiềm chế lạm phát. Nhiệm vụ này xuyên
suốt từ năm 2011 cho đến nay. Chính sách tiền tệ thắt chặt để chống lạm phát cao.
Đầu năm 2011, có những lựa chọn được đặt ra. Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng
lãi suất là công cụ chủ lực đề kiềm chế lạm phát, còn tăng dự trữ bắt buộc theo
nguyên Thống đốc Nguyễn Văn Giàu lúc đó là một giải pháp bạo lực. Lãi suất cao

chống lạm phát cao được xem là một giải pháp kinh điển, kéo dài cho đến nay.
Gánh nặng thứ hai là lãi suất đang đóng vai trò trợ lực quan trọng cho việc
giữ ổn định tỷ giá USD/VND. Lãi suất rất cao, cũng như chênh lệch lớn so với lãi
suất USD, đang hỗ trợ cho giá trị VND. Thực tế tỷ giá đã có một quãng thời gian
-


dài tương đối ổn định, để tiếp tục ổn định đòi hỏi lãi suất vẫn phải gánh trên vai
nhiệm vụ tạo độ cao và sự chênh lệch cần thiết.
Thứ ba, lãi suất VND có thêm một nhiệm vụ quan trọng nữa là đảm bảo được
sự hấp dẫn để thu hút tiền gửi, qua đó đảm bảo thanh khoản của hệ thống các ngân
hàng. Mức trần lãi suất
huy động 13%/năm hiện nay là tương đối cao và hấp dẫn, song đâu đó vẫn còn
tình trạng trả lãi cao hơn khiến mức 13%/năm chỉ là tương đối.
Thứ tư, ở chiều ngược lại, một gánh nặng đối với lãi suất và đang làm đau
đầu nhà điều hành là khó khăn của các doanh nghiệp, người vay vốn. Lãi suất cho
vay quá cao kéo dài đang thể hiện rõ hơn trong nền kinh tế, ở sản xuất kinh doanh
đình đốn, lượng tồn kho tăng lên… Và gánh nặng thứ năm, theo chuyên gia này là
vai trò của lãi suất đối với các lĩnh vực khác của nền kinh tế như thị trường chứng
khoán.
Lãi suất cũng đứng trước đòi hỏi làm sao để hỗ trợ cho quá trình tái cấu trúc
và phát triển thị trường chứng khoán, làm sao để thị trường này thực sự trở thành
một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, còn ngân hàng chỉ là kênh hỗ
trợ vốn ngắn hạn Dự báo thị trường chứng khoán Việt Nam có thể tạo đáy trong
giai đoạn quý 2 - quý 3/2012; nếu có sự suy giảm thì chỉ hạn chế trong khoảng
10% - 30% từ mốc kết thúc năm 2011, trong khi tiềm ẩn cơ hội tăng trưởng 60% 100% sau một năm. Lãi suất có thể sẽ tiếp tục giảm từ tháng 6 tới. Khi lãi suất
giảm, tăng trưởng tín dụng sẽ có điều kiện để tăng trở lại. Bên cạnh tín hiệu của
lạm phát, một cơ sở để xác định mốc tháng 6/2012 là lãi suất đứng trước áp lực
của tăng trưởng kinh tế.
Sau quý 1 tăng trưởng thấp, áp lực tăng trưởng GDP nửa sau 2012 sẽ lớn

hơn. Thêm vào đó, từ tháng 6, khi tác động của lãi suất cho vay quá cao kéo dài
trong thời gian qua thể hiện ở sự khó khăn của các doanh nghiệp, những tiếng
“kêu” hay yêu cầu giảm lãi suất sẽ càng có trọng lượng hơn.
• Năm 2013
Chính sách lãi suất được điều hành phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, đặc
biệt là diễn biến của lạm phát. Tính chủ động của công cụ lãi suất trong việc truyền
dẫn tín hiệu tới thị trường đã được cải thiện rõ nét. Trong năm 2013, các mức lãi
suất điều hành của NHNN được điều chỉnh giảm hai lần. Hiện tại, lãi suất tái cấp
vốn được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm xuống còn 7%/năm; lãi suất tái chiết
khấu từ 7%/năm xuống còn 5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán
điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của
NHNN đối với các ngân hàng từ 10%/năm xuống còn 8%/năm. Trên thị trường 1,
NHNN đã thực hiện giảm 3% lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VNĐ đối với
các lĩnh vực ưu tiên; giảm 1% lãi suất tiền gửi tối đa bằng VNĐ. Đồng thời từ
tháng 6/2013, NHNN đã cho phép các TCTD tự ấn định lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
từ 6 tháng trở lên. Đây là bước đi cần thiết để NHNN hướng tới thực hiện tự do hóa
lãi suất. Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng theo sát với lãi suất chỉ
đạo của NHNN và giảm mạnh. Lãi suất huy động giảm liên tục khoảng từ 2 - 4%,
lãi suất cho vay giảm từ 3 - 5% so với mức lãi suất cuối năm 2012. Điều này không
những phản ánh tính thanh khoản của các TCTD ngày càng ổn định, mà còn biểu
hiện tính dẫn dắt thị trường của NHNN ngày càng tăng.


Năm 2014
Vẫn theo xu hướng giảm, năm 2014, NHNN đã linh hoạt điều chỉnh giảm
0,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 2%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn
bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên, giảm 1,5%/năm trần lãi suất huy động
VND kết hợp với điều chỉnh giảm 0,5%/năm trần lãi suất huy động USD.
Mặt bằng lãi suất năm 2014 tiếp tục giảm 1,5 - 2%/năm so với cuối năm
trước; trong đó, lãi suất huy động giảm khoảng 1,5 - 2%/năm, lãi suất cho vay

giảm khoảng 2%/năm.
Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến khoảng 7 - 9%/năm đối với ngắn hạn, lãi
suất trung và dài hạn phổ biến khoảng 9,5 - 11%/năm, các NHTM nhà nước áp
dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến khoảng 9 10%/năm. Thậm chí có những DN có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch,
hoạt động hiệu quả, có phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả lãi suất chỉ
khoảng 5 - 6%/năm.
• Năm 2015


Mặt bằng lãi suất thị trường tiếp tục giảm khoảng 0,2-0,5%/năm, qua đó hỗ
trợ tích cực cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo ổn định thị
trường tiền tệ, ngoại hối. Trong năm 2015, Ngân hàng Nhà nước duy trì ổn định lãi
suất điều hành, trần lãi suất huy động bằng VND, kết hợp với điều chỉnh giảm trần
lãi suất USD, đảm bảo duy trì chênh lệch hợp lý giữa lãi suất VND và lãi suất
USD.
Để tạo điều kiện giảm lãi suất, Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định trần lãi suất
cho vay ngắn hạn bằng VND, các TCTD trên cơ sở nhu cầu vốn của thị trường cân
đối điều chỉnh giảm lãi suất cho vay so với trần quy định; điều tiết thanh khoản của
các TCTD hợp lý để tạo điều kiện giảm mặt bằng lãi suất; điều chỉnh giảm lãi suất
cho vay một số chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực xuống mức khoảng 6,56,6%/năm; tiếp tục yêu cầu các TCTD rà soát giảm lãi suất cho vay của các khoản
vay cũ về mức lãi suất cho vay hiện hành.
Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 0,3-0,5%/năm so với cuối năm trước
(lãi suất ngắn hạn giảm khoảng 0,3%/năm, lãi suất trung và dài hạn giảm khoảng
0,3-0,5%/năm), đưa mặt bằng lãi suất giảm khoảng 50% so với thời điểm cuối năm
2011; Lãi suất huy động giảm khoảng 0,2-0,5%/năm và hiện ở mức tương đối thấp
nhưng lòng tin vào đồng Việt Nam tiếp tục được củng cố.
Năm 2016
Các lãi suất điều hành (lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết
khấu) được duy trì ở mức ổn định để hỗ trợ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và góp phần ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Thông qua

điều hành cung tiền hợp lý, linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn với
thời hạn và khối lượng hợp lý để hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng,
thực hiện mua ngoại tệ khi thuận lợi, NHNN đã đảm bảo được thanh khoản của
hệ thống, đưa mặt bằng lãi suất liên ngân hàng ở mức thấp, tạo điều kiện cho các



tổ chức tín dụng giữ ổn định lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay khi có
điều kiện. Lãi suất liên ngân hàng trong năm 2016, nhìn chung, thấp hơn nhiều so
với năm 2015, do nhu cầu sử dụng vốn của hệ thống chưa cao. Mặt bằng lãi suất
liên ngân hàng giảm mạnh kể từ tháng 4/2016 (từ mức 4,13%) và chỉ đến tháng
11 mới có xu hướng tăng trở lại, từ mức 1,18% lên mức 3,42% trong tháng 12, do
nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế thường tăng cao vào dịp cuối năm. Lãi suất
huy động mặc dù trải qua đợt tăng lãi suất nhẹ trong tháng 9 từ các ngân hàng
nhỏ1, và đợt giảm lãi suất nhẹ từ các ngân hàng lớn trong tháng 10 2, và có tăng
nhẹ trở lại trong tháng 12 tập trung ở các kỳ hạn dưới 12 tháng, nhưng nhìn
chung, mặt bằng lãi suất huy động vẫn được giữ ổn định ở mức 6,5% cho kỳ hạn
1 năm và 7,2% cho kỳ hạn trên 1 năm.
Từ cuối tháng 4/2016, thực hiện chủ trương của Chính phủ và NHNN về
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại nhà nước và một
số ngân hàng thương mại cổ phần đã điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay
ngắn hạn và đưa lãi suất cho vay trung và dài hạn về tối đa 10%/năm đối với các
khách hàng vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, đồng thời tích cực triển khai
các chương trình cho vay với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, Thông tư 06/2016/TTNHNN3 điều chỉnh tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn giảm dần
theo lộ trình4 nhằm hạn chế rủi ro thanh khoản, hệ thống ngân hàng và các doanh
nghiệp bất động sản có gần một năm để điều chỉnh, đã góp phần hỗ trợ giảm áp
lực lãi suất cho các tổ chức tín dụng. Nhìn chung, mặt bằng lãi suất cho vay đã
giảm từ 8,15% (tháng 5/2016) xuống 8,02%/năm đối với các khoản vay ngắn
hạn, và giảm từ 10,2% xuống 10,1% bình quân đối với các khoản vay trung và
dài hạn, sau đó tiếp tục được duy trì ổn định đến cuối năm 2016.


III. DỰ TRỮ BẮT BUỘC:
1. Khái niệm: Dự trữ bắt buộc hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của
Ngân hàng Nhà nước về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các Ngân hàng thương
mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Có thể hiểu dự trữ bắt
buộc là số tiền mà các TCTD hoạt động tại Việt Nam phải duy trì trên tài khoản
tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định.
Trước đây dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản cho các
TCTD trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và làm hạn chế rủi ro thanh
khoản cho cả hệ thống. Tuy nhiên, theo thời gian thì ý nghĩa này giảm dần vì hiện
nay cho dù các TCTD có duy trì một mức dự trữ bắt buộc lớn bao nhiêu thì khi rủi
ro thanh khoản xảy ra mức dự trữ này cũng không thể giúp TCTD chống đỡ được
nguy cơ phá sản.
Mặt khác các TCTD cũng không thể duy trì một mức dự trữ bắt buộc quá
lớn vì đặc điểm của dự trữ bắt buộc là không sinh lời, dự trữ bắt buộc càng cao thì
lợi nhuận của TCTD càng giảm điều này đi ngược với mục tiêu hoạt động vì lợi
nhuận của các TCTD. Sự phát triển của công nghệ ngân hàng luôn cho phép các


TCTD có thể sử dụng đa dạng các hình thức bảo hiểm rủi ro mà không cần phụ
thuộc quá nhiều vào dự trữ tiền mặt. Chính vì vậy các nước hiện nay thường duy
trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp.
2. Căn cứ xác định dự trữ bắt buộc:
- Kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi: Thông thường kỳ hạn tiền gửi càng dài thì
mức ổn định càng cao, độ rủi ro thanh khoản thấp do đó tỷ kệ dự trữ bắt buộc đối
với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - Quy mô của các nguồn tiền gửi: Quy mô của
các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao do đó tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tỷ lệ thuận với quy mô tiền gửi.
- Loại tiền gửi: Với những loại tiền gửi khác nhau đều chứa đựng khả năng

an toàn thanh khoản khác nhau nên Ngân hàng Nhà nước có thể quy định tỷ lệ
khác nhau cho các loại tiền gửi.
3. Nguyên tắc tính dự trữ bắt buộc:
- Số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của các TCTD tại Ngân
hàng Nhà nước không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ.
- Số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của các TCTD tại Ngân hàng Nhà nước
hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn hoặc cao hơn tiền dự
trữ bắt buộc của kỳ đó.
4. Những tác động của công cụ dự trữ bắt buộc.
* Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng.
- Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả
dụng của mỗi Ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc càng thấp thì phần chênh lệch còn lại của bản thân Ngân hàng này càng
cao, khả năng cho vay ra của ngân hàng càng lớn và ngược lại.
- Mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển
khoản của Ngân hàng thì hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một Ngân
hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống
Ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên
nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân
tiền.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ
thống Ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng,
còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc
vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của các Ngân hàng và nhu cầu tín dụng của nền
kinh tế.
* Tác động đến lãi suất và thị trường tiền tệ.
- Dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho
nên lãi suất thị trường cũng có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
- Hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các
Ngân hàng thương mại ở Ngân hàng Nhà nước không được tính lãi hoặc mức lãi

không đáng kể. Khi dự trữ bắt buộc tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay
giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại. Điều này được
các Ngân hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị
trường tín dụng.


×