Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.94 KB, 25 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ NHA TRANG

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 7
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


Công trình được hoàn thành tại: Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Quang Vinh.

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn

Phản biện 2: TS. Phạm Văn Beo

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện khoa học xã hội …… giờ …… ngày ….. tháng
…. năm …..
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội.



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là một phần
của hoạt động THAHS. Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
cũng như công tác THAHS nói chung là công tác rất quan trọng và
được thực hiện rất nhiều trên thực tế, đòi hỏi có hành lang pháp lý rõ
ràng, thống nhất. Ở Việt Nam, trước khi có Luật THAHS năm 2010,
hoạt động THAHS nói chung và thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù nói riêng được thực hiện theo hàng loạt các văn bản pháp luật
đơn hành mà chưa có một văn bản quy định một cách thống nhất,
đầy đủ. Luật THAHS là văn bản pháp luật mang tính pháp điển hóa
đầu tiên trong lịch sử pháp luật THAHS nhằm mục đích tạo cơ sở
pháp lý vững chắc và đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động thi
hành án. Tuy nhiên, trước những vấn đề phức tạp phát sinh trên thực
tế và một số quy định chưa thực sự phù hợp, chưa mang tính khả thi
và chặt chẽ, Luật THAHS cùng với một số văn bản hướng dẫn hiện
tại chưa đáp ứng được yêu cầu về một hành lang pháp lý rõ ràng,
toàn diện và đầy đủ cho công tác này.
Khi thi hành những bản án này, ngoài những khó khăn,
vướng mắc chung về quy định của pháp luật, thực trạng tổ chức, cơ
chế thi hành loại án trên ở Quận 7 cũng đặt ra những vấn đề khó
khăn nhất định cần sớm có giải pháp tháo gỡ.
Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về
công tác thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và thực tiễn
thực hiện công tác này trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
trong những năm gần đây nhằm góp phần làm rõ thêm về lý luận,
đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật khi thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7, từ đó đưa ra một số
1



giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật và nâng cao chất lượng công tác thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 nói riêng và cả nước nói chung
là một yêu cầu khách quan, cần thiết. Vì những lý do trên, tác giả
chọn vấn đề “Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh”
làm đề tài luận văn là đáp ứng yêu cầu cấp thiết khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình khoa học
liên quan đến đề tài của tác giả dưới các góc độ khác nhau. Trước
hết, hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù nói riêng được phân tích trong một số giáo trình, sách chuyên
khảo và được đề cập chung trong một số bài viết đăng trên các tạp
chí chuyên ngành.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy, các công
trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nói trên đều là những
công trình có giá trị về mặt khoa học và thực tiễn. Tuy nhiên, nội
dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn
đề lý luận chung về thi hành án và thi hành án hình sự, công tác thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù thì mới được thể hiện một
phần trong kết quả của các công trình nghiên chung đó mà chưa
được triển khai nghiên cứu độc lập, chuyên sâu để đánh giá lý luận
và tổng kết thực tiễn. Chưa có tác giả nào đưa ra công trình khoa học
nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ về vấn đề này ở
cả hai phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật ở địa bàn
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ sau đại học.

2



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý
luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 thành
phố Hồ Chí Minh để tác giả đưa ra một số giải pháp, kiến nghị góp
phần hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như cơ chế thi hành,
nâng cao hiệu quả thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trong
thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn
đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu, làm rõ lý luận về
thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù; Nghiên cứu lịch sử quy
định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù qua các thời kỳ
lịch sử của Việt Nam; Phân tích quy định về thi hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù theo pháp luật Việt Nam hiện hành; Khảo sát,
phân tích thực trạng thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù,
đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân trong
quá trình thực hiện công tác này trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ
Chí Minh; Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn
thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7
nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quy định của pháp luật Việt Nam và
thực tiễn áp dụng pháp luật về về thi hành các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: luận văn làm rõ những
vấn đề lý luận của thi hành án các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù,
đánh giá thực tiễn thi hành án các hình phạt này và đưa ra giải pháp

3


nâng cao hiệu quả thi hành án. Về không gian, thời gian: luận văn
nghiên cứu và đánh giá thực tiễn thi hành án các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ
sở phương pháp luận là phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; hệ thống
các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội
phạm, về chính sách hình sự đối với việc thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp so sánh; phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Với kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn
có thể góp phần bổ sung, làm phong phú thêm lý luận về thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù dưới góc độ pháp lý và đưa ra cơ sở
khoa học của hoạt động hoàn thiện pháp luật về thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo đối với những người làm công tác thực
tiễn để nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và những người học tập, giảng
dạy, nghiên cứu lập pháp về công tác này.

4


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
1.1.

Khái niệm, ý nghĩa của thi hành các hình phạt

nhẹ hơn hình phạt tù
1.1.1.

Khái niệm

Theo Từ điển Tiếng Việt, thi hành là: "Đem cái việc đã dự
định làm thành sự thực". Từ điển Luật học ghi nhận, “thi hành án là
hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được tiến hành theo
thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án”. “Thi hành án là một
hoạt động mang tính hành chính – tư pháp tuân theo những nguyên
tắc không giống các nguyên tắc chỉ đạo hoạt động tố tụng hình sự”.
THAHS là hoạt động tổ chức thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án do các cơ quan, tổ chức được Nhà nước trao
quyền thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật THAHS quy định,
thể hiện qua việc quản lý, tổ chức các biện pháp tác động đối với
người bị kết án hình sự, buộc họ phải thi hành đầy đủ nghĩa vụ pháp
lý mà pháp luật THAHS quy định, nhằm quản lý, giáo dục, cải tạo họ
thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
"Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định".
Thi hành hình phạt là hoạt động do cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định, kết hợp
giữa phương pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế để đảm bảo

lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.

5


Bản chất thi hành án các hình phạt nhẹ hơn tù là khi thi hành
án sẽ không cách ly người bị kết án ra khỏi đời sống xã hội mà cải
tạo, giáo dục họ trong môi trường xã hội dưới sự hỗ trợ, giám sát của
cả cộng đồng. Việc thi hành hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng như
hiệu quả của công tác này dựa trên sự hỗ trợ tích cực, sự giám sát của
cộng đồng, xã hội giúp cho người bị kết án cải tạo để trở thành người
có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật. Từ đó có thể hiểu:
thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là hoạt động của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
buộc người chấp hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù phải tuân
thủ, chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ tại
phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do
họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân,
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới
cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.
Ngoài ra, theo quy định của Luật THAHS, “Thi hành án phạt
cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại xã,
phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ nhà nước theo bản án
đã có hiệu lực pháp luật”. “Thi hành án phạt trục xuất là việc cơ
quan, người có thẩm quyền theo quy định của luật này buộc người
chấp hành án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam theo bản án đã có hiệu lực pháp luật”.
Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có đặc điểm: Đó

là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành để thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp. Việc
thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù được giao cho cơ quan
thi hành án dân sự hay cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương
6


thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Khi thi hành
các loại hình phạt này, họ không bị cách ly khỏi xã hội, khỏi môi
trường sống bình thường mà họ tự cải tạo và chịu sự quản lý, giáo
dục cũng như giúp đỡ của gia đình, cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, sau
khi chấp hành xong bản án, quyết định của Tòa án, người bị kết án
vẫn còn phải chịu hậu quả pháp lý trong một thời gian nhất định, đó
là án tích. Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là buộc người
bị kết án phải chấp hành hình phạt.
1.1.2. Ý nghĩa của việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù
Công tác thi hành án hình sự nói chung và thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng: Thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là hoạt
động đưa phán quyết của Tòa án vào hiện thực xã hội. Thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nhằm đảm bảo cho các nội dung trong
phán quyết của Tòa án được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế; Thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là cách thức nhằm đạt mục
đích của hình phạt là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành
người lương thiện; Thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù góp
phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, đẩy lùi tình
hình phạm tội.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt Nam từ năm 1945 đến

trước khi ban hành Luật thi hành án hình sự năm 2010
1.2.1. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù ở Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ Luật Tố
tụng hình sự năm 1988

7


Ở giai đoạn này, việc thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù chưa được quy định một cách cụ thể mà chỉ được nhắc đến ở
một số văn bản như Thông tư số 1735-P/4 ngày 03/06/1946 về việc
thi hành các án hình; Thông tư số 24-BK, ngày 26/4/1949 về việc thi
hành các án hình và hộ; Luật tổ chức TAND năm 1960; Nghị quyết
số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLHS năm 1985. Các văn bản này chủ yếu đề
cập đến các cơ quan có thẩm quyền THAHS nói chung, quy định về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù vẫn còn mang tính chất sơ thảo, chung chung mà chưa được
ghi nhận một cách cụ thể và chi tiết.
1.2.2. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù ở Việt Nam từ khi có Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 1988
đến trước khi ban hành Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003
Ở giai đoạn này, quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù đã hoàn thiện hơn. Chỉ có hình phạt cảnh cáo là chưa
được quy định còn quy định về thi hành ba hình phạt còn lại đều đã
được thể hiện trong khá nhiều văn bản: BLTTHS năm 1988 được sửa
đổi bổ sung năm 2000 áp dụng chung khi thi hành tất cả các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ được thực
hiện theo quy định tại Nghị định số 95-HĐBT ngày 25/07/1989 của

Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế về chế độ cải tạo không giam
giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội; Nghị định số
60/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2000. Qua những quy
định tại văn bản này, hành lang pháp lý cho việc thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ đã tương đối rõ ràng.

8


Việc thi hành hình phạt trục xuất được thực hiện theo quy
định tại Pháp lệnh số 24/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/04/2000 quy
định về Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt
Nam của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghị định số 54/2001/NĐ-CP
hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất. Các quy định trong các văn
bản đó đã tạo hành lang pháp lý tương đối rõ ràng và đầy đủ cho hoạt
động thi hành án phạt trục xuất.
Việc thi hành hình phạt tiền được thực hiện theo quy định tại
Pháp lệnh số 23-LCT/HĐNN8 ngày 28/8/ 1989 của Hội đồng Nhà
nước về thi hành án dân sự và sau đó là Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 1993.
1.2.3. Quy định về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù ở Việt Nam từ khi có Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003
đến trước khi ban hành Luật Thi hành án hình sự
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc thi hành
hình phạt này tiếp tục thực hiện theo quy định tại BLTTHS năm
2003; Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt; Nghị quyết số 02/2007/NQHĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ năm “Thi hành

bản án và quyết định của Tòa án” của BLTTHS và Nghị định số
60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000.
Thi hành hình phạt trục xuất. Việc thi hành hình phạt trục
xuất thời kỳ này chủ yếu là vẫn tiếp tục áp dụng theo hướng dẫn cụ
thể tại Nghị định số 54/2001/NĐ-CP. Tuy nhiên, nghị định này vẫn

9


bộc lộ một số hạn chế gây khó khăn cho quá trình áp dụng quy định
trên thực tế.
Thi hành hình phạt tiền. Cơ quan thi hành án dân sự thi hành
hình phạt tiền thay cho cơ quan thi hành án cùng cấp trước đây.
Ngoài BLTTHS năm 2003, việc thi hành hình phạt tiền còn được
thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án dân sự năm 2008 và
Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BTPBCA-BTC ngày 17/6/2005 hướng dẫn việc miễn, giảm thi hành án
đối với khoản tiền phạt, án phí; Thông tư liên tịch số 10/2010/TTLTBTP-BTC-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/5/2010).
1.3. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
Điều kiện thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù nói
chung được quy định trong Hiến pháp, BLHS năm 1999, BLTTHS
năm 2003, Luật THAHS năm 2010, … Các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù bắt buộc phải dựa
trên và tuân theo các điều kiện pháp lý đó để có thể buộc người bị
kết án thi hành hình phạt. Điều kiện thứ nhất là bản án tuyên về các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
bao gồm những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Những bản án và
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Những quyết định của Tòa án
cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Những bản án, quyết định đó còn

hiệu lực thi hành. Điều kiện thứ hai là có quyết định thi hành bản án
tuyên các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Quyết định thi hành án do Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm
hoặc của Chánh án Tòa án khác cùng cấp được ủy thác ban hành.

10


CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TỪ NĂM 2012 ĐẾN NĂM 2016
2.1. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình
phạt cảnh cáo trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành hình phạt
cảnh cáo
Luật THAHS lần đầu tiên ghi nhận quy định về thi hành án
phạt cảnh cáo: hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên
tòa do Tòa án tuyên. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có
hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét xử sơ thẩm phải gửi bản án cho các
tổ chức, cá nhân được pháp luật quy định. Đối với người bị áp dụng
hình phạt cảnh cáo thì sau khi tòa tuyên án công khai cũng có nghĩa
là họ đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo mà không có cơ quan
nào tổ chức thi hành hình phạt này.
2.1.2. Thực tiễn thi hành hình phạt cảnh cáo trên địa bàn
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2012 đến năm 2016, hình phạt cảnh cáo được TAND
Quận 7 áp dụng với số lượng rất hạn chế, số người phải thi hành hình
phạt cảnh cáo trên địa bàn quận chiếm số lượng ít và có xu hướng
giảm. Đối với ba bản án áp dụng hình phạt cảnh cáo trong những

năm vừa qua, TAND Quận 7 đã thực hiện đúng và kịp thời quy định
của pháp luật: Hội đồng xét xử ghi nhận ngay trong bản án và tuyên
hình phạt cảnh cáo tại phiên tòa, gửi bản án cho các đối tượng theo
luật định đúng thời hạn, thực hiện việc theo dõi, thống kê và báo cáo
về việc thi hành hình phạt này.

11


Hình phạt cảnh cáo không có tổ chức thi hành, do đó, các tổ
chức xã hội, đơn vị công tác nơi người bị kết án làm việc, hay
UBND xã, phường nơi người đó sinh sống khó có thể nắm được tình
trạng của người bị kết án và dẫn đến hệ quả là không thể theo dõi,
giúp đỡ, cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc thi hành hình phạt này ở Quận 7 trong những năm vừa
qua đạt hiệu quả không cao. Một số trường hợp sau khi tuyên án
được trả tự do tại phiên tòa, người bị kết án không về địa phương mà
đi nơi khác làm ăn sinh sống hoặc có hành vi vi phạm pháp luật sau
khi thi hành hình phạt cảnh cáo.
2.2. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình
phạt tiền trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành hình
phạt tiền
Hình phạt tiền được thi hành theo trình tự thủ tục của
LTHADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Các cơ quan có
thẩm quyền thi hành án phạt tiền bao gồm: Cơ quan thi hành án dân
sự cấp huyện, Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và Cơ quan thi
hành án cấp quân khu. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ
động ra quyết định thi hành án phạt tiền. Việc thông báo phải thực
hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản. Trong

thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Chấp hành
viên phải tiến hành việc xác minh. Trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định thi hành án, người chấp hành án có quyền tự nguyện thi
hành án. Hết thời hạn đó, người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Chính

12


quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp
chấp hành viên trong việc thi hành án.
Ngoài ra, khi đã thi hành được một phần hình phạt tiền và
thỏa mãn một số điều kiện khác thì người chấp hành án được giảm số
tiền phạt hoặc miễn số tiền phạt còn lại theo hướng dẫn cụ thể tại
Thông



liên

tịch

số

12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-

VKSNDTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi
hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
2.2.2. Thực tiễn thi hành hình phạt tiền trên địa bàn Quận 7

thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2012 đến năm 2016, không có bị cáo nào bị TAND
Quận 7 áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Hình
phạt tiền được TAND Quận 7 áp dụng tương đối nhiều nhưng đều
với tư cách là hình phạt bổ sung, hầu hết là áp dụng khi phạt tù đối
với người bị kết án. Bên cạnh đó cũng không có trường hợp ủy thác
thi hành án phạt tiền trên địa bàn quận. Điều này đồng nghĩa với việc
không có bị án nào phải thi hành hình phạt tiền với tư cách là hình
phạt chính trên địa bàn Quận 7 trong những năm vừa qua.
2.3. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ
Chí Minh
2.3.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ
Những quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
được ghi nhận trong Luật THAHS, tập trung từ Điều 72 đến Điều 81.
Thủ tục thi hành quyết định thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ được quy định cụ thể tại Điều 73 Luật THAHS. Những hướng

13


dẫn tại Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc
thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn đang được áp dụng.
Việc thi hành hình phạt này đòi hỏi tinh thần tự giác cao của
người chấp hành án, vì vậy, Luật THAHS cũng quy định rõ nghĩa vụ
của người chấp hành án. Bên cạnh đó, Luật THAHS cũng quy định
thủ tục giảm thời hạn chấp hành án và thủ tục miễn chấp hành án đối
với người bị kết án cải tạo không giam giữ tại Điều 77 và Điều 78 và
hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQPTANDTC-VKSNDTC ngày 16/08/ 2012 hướng dẫn việc giảm, miễn

thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp
hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại.
Luật THAHS tại Điều 81 quy định, gia đình người chấp
hành án có trách nhiệm phối hợp với UBND cấp xã và người được
phân công giám sát, giáo dục người chấp hành án để giám sát, giáo
dục người đó, thông báo kết quả chấp hành án của người chấp hành
án với UBND cấp xã giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu. Ngoài
ra gia đình phải bồi thường thiệt hại và thực hiện các nghĩa vụ dân sự
khác do người chấp hành án là người chưa thành niên gây ra theo
bản án, quyết định của Tòa án, đồng thời phải có mặt tại cuộc họp
kiểm điểm người chấp hành án theo yêu cầu của UBND cấp xã được
giao giám sát, giáo dục.
2.3.2. Thực tiễn thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2012 đến năm 2016, số người phải thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn quận chiếm số lượng không
nhiều và có xu hướng tăng nhưng tăng không đều. Đối chiếu với quy
định về việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, việc thi hành
hình phạt này trên địa bàn Quận 7 đã được thực hiện tương đối tốt.
14


Nhìn chung, các cơ quan có trách nhiệm thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ trên địa bàn Quận 7 đã có sự quan tâm chỉ đạo thực
hiện công tác, đảm bảo thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo
quy định của Luật THAHS. Phần lớn các cán bộ được giao thực hiện
nhiệm vụ đều nhiệt tình, chủ động trong công việc, khắc phục khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ được giao.. Đa số các tổ chức đoàn thể
và gia đình các bị án đã có sự phối hợp chặt chẽ trong việc giám sát,
giáo dục các bị án. Hầu hết các bị án đều có ý thức tự giác cải tạo tốt,

chấp hành đúng nghĩa vụ và quy định của địa phương.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong công
tác thi hành án cải tạo không giam giữ trên địa bàn Quận 7 vẫn còn
một số tồn tại, chưa thực hiện đúng theo nhiệm vụ, quyền hạn được
quy định trong Luật THAHS, vì vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả của
hình phạt cải tạo không giam giữ cũng như tác dụng của việc giáo
dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Thứ nhất, một số trường hợp không triệu tập được người
chấp hành án. Họ không biết về nghĩa vụ của mình hoặc cố tình trốn
tránh nên đã đi khỏi địa phương trong thời gian phải chấp hành án.
Thứ hai, một số trường hợp bị án bị tuyên hình phạt cải tạo
không giam giữ và bị bị khấu trừ thu nhập nhưng khó thi hành. Một
phần vì thu nhập của họ không ổn định và họ cũng không cư trú cố
định, ổn định ở một nơi, nhất là việc họ không tự nguyện, chủ động
trong việc nộp khoản tiền này. Việc xác minh của cơ quan có thẩm
quyền gặp rất nhiều khó khăn vì họ cố tình giấu, trốn tránh.
Thứ ba, hiệu quả của việc giám sát, giáo dục chưa cao.
Nhiều trường hợp vẫn mang tính hình thức mà chưa thực sựu phát
huy hiệu quả như mục đích đặt ra.

15


Thứ tư, việc bảo vệ quyền lợi của bị án khi thi hành án chưa
được thực hiện đầy đủ. Một số trường hợp người chấp hành án cải
tạo tốt, đủ điều kiện để được giảm mức hình phạt nhưng cơ quan có
thẩm quyền không xem xét và họ cũng không đề nghị.
Thứ năm, việc giải quyết cho người thi hành hình phạt cải
tạo không giam giữ được vắng mặt ở nơi cư trú cũng chưa đảm bảo
đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, việc chuyển hồ sơ cho Cơ quan THAHS Công an
quận để xem xét cấp giấy chứng nhận cho những trường hợp đã
chấp hành xong thời gian phạt cải tạo không giam giữ thực hiện
chưa đúng.
2.4. Quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình
phạt trục xuất trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
2.4.1. Quy định của pháp luật hiện hành về thi hành hình
phạt trục xuất
Việc thi hành hình phạt này được Luật THAHS ghi nhận tại
Chương VII gồm 7 điều luật (từ Điều 96 đến Điều 102). Thi hành
hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính được bắt đầu bằng
việc Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án cho các
chủ thể theo luật định. Sau khi ra quyết định, Toà án thực hiện việc
gửi quyết định. Điều 13 Luật THAHS đã quy định Cơ quan THAHS
Công an cấp tỉnh là cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành án phạt
trục xuất. Đây cũng là cơ quan có trách nhiệm lập hồ sơ thi hành án
phạt trục xuất. Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT- BCA-BQPBNG ngày 16/11/2011 hướng dẫn thi hành án phạt trục xuất đã quy
định một cách cụ thể hơn về Cơ quan thi hành án phạt trục xuất; thời
hạn và thủ tục thông báo thi hành hình phạt trục xuất; thẩm quyền lập
hồ sơ; thời hạn lập hồ sơ. Việc lưu trú trong thời gian chờ xuất cảnh
16


trong một số trường hợp đặc biệt được quy định tại Khoản 2 Điều 99
Luật THAHS. Việc giải quyết trường hợp người chấp hành án phạt
trục xuất bỏ trốn được quy định cụ thể tại Điều 100 Luật THAHS và
Điều 7 Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT- BCA-BQP-BNG. Điều
14 Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT- BCA-BQP-BNG hướng dẫn
cụ thể thủ tục tiến hành việc buộc rời khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp xuất cảnh theo đường hàng không thì thực hiện theo quy

định tại Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 81/2010/NĐ-CP ngày
14/7/2010 của Chính phủ quy định về an ninh hàng không dân dụng.
Người chấp hành án phạt trục xuất được mang theo tài sản hợp pháp
của mình khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam. Chi phí trục xuất được quy
định tại Điều 102 Luật THAHS và hướng dẫn cụ thể tại Khoản 2
Điều 14 Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT- BCA-BQP-BNG.
2.4.2. Thực tiễn thi hành hình phạt trục xuất trên địa bàn
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đa số các vụ án liên
quan đến người nước ngoài đều do TAND thành phố Hồ Chí Minh
xét xử và giao cho Cơ quan THAHS công án thành phố. Chính vì
vậy, từ năm 2012 đến năm 2016, trên địa bàn Quận 7 không có người
bị áp dụng cũng như phải thi hành hình phạt trục xuất.
2.5. Đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
2.5.1. Tình hình chung về thi hành các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh
Số liệu thống kê cho thấy, số bị án phải chấp hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù từ năm 2012 đến năm 2016 chiếm tỷ lệ rất
thấp so với tổng số người phải thi hành án nói chung trên địa bàn
Quận 7, thấp nhất là năm 2013: chỉ chiếm 0.53%. Số bị án phải chấp
17


hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù chiếm tỷ lệ cao nhất cũng
chỉ chiếm 3.39% vào năm 2015. Số lượng cũng như tỷ lệ của số bị án
phải chấp hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn quận
từ năm 2012 đến năm 2016 nhìn chung có xu hướng biến động bất
thường qua các năm. Số lượng bị án phải chấp hành các hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù có số lượng rất ít, thậm chí là không đáng kể,

chiếm tỷ lệ thấp cho thấy việc áp dụng và thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 đang rất hạn chế.
2.5.2. Một số khó khăn, vướng mắc khi thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù trên địa bàn Quận 7 thành phố Hồ Chí
Minh
Khó khăn từ cơ chế tổ chức thi hành. Theo quy định của
pháp luật, mỗi hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù được thực hiện, tổ
chức thi hành bởi một cơ quan khác nhau. Cơ chế này đang bộc lộ
tính chất phân tán, xé lẻ, chia cắt, không tập trung quyền lực, thiếu
đồng bộ và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả công tác
THAHS trên địa bàn Quận 7 nói riêng và cả nước nói chung.
Khó khăn từ quy định của pháp luật. Luật THAHS đã có
hiệu lực từ năm 2011 nhưng đến nay nhiều nội dung vẫn chưa có văn
bản hướng dẫn thi hành.
Khó khăn do thiếu kinh phí. Kinh phí chi cho công tác thi
hành án cải tạo không giam giữ của UBND cấp xã nói chung và
UBND các phường trên địa bàn quận chưa được đầu tư đúng mức,
chưa có chế độ, định mức để bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác này,
nhất là lực lượng Công an phường và những người được giao trực
tiếp giám sát, giáo dục bị án.
Khó khăn từ công tác xét xử các vụ án hình sự. Một số
trường hợp việc áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Quận
18


7 chưa đúng do chưa đánh giá chính xác tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội như phạm tội nhiều lần, … hoặc chưa
xem xét kỹ đặc điểm nhân thân của bị cáo,… dẫn đến việc áp dụng
chưa đúng đối tượng.
Khó khăn từ phía chủ thể thi hành: Sự phân công, phân cấp

của Công an quận chưa rõ ràng; mặc dù công việc theo dõi thi hành
các hình phạt khác tại các phường đã được quy định tương đối cụ
thể, song với số lượng cán bộ ít, hầu hết Công an Quận 7 hiện nay
chưa bố trí cán bộ chuyên trách mà chủ yếu là kiêm nhiệm thực hiện
nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn, tổ chức quản lý thi hành các hình phạt
khác tại các phường trực thuộc Đội Cảnh sát THAHS Công an quận.
Vai trò của gia đình - những người phối hợp giám sát, giáo
dục chưa đạt yêu cầu.
2.5.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
Thứ nhất, bất cập trong quy định của pháp luật về thi hành
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Một là, chưa có chế tài nghiêm
khắc cũng như chưa có cơ chế phù hợp để xử lý những người vi
phạm nghĩa vụ thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù; Hai là,
chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù; Ba là, quy định về việc thi hành hình phạt chưa
chặt chẽ; Bốn là, có độ vênh giữa thời gian thi hành án trong các văn
bản quy định pháp luật; Năm là, một số bản án, quyết định áp dụng
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù chưa phù hợp.
Thứ hai, những vướng mắc trong thực tiễn thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
trên địa bàn quận chưa được thực hiện tốt; Hai là, ý thức pháp luật
của người phải thi hành án còn chưa cao; Ba là, số lượng và chất
19


lượng của cán bộ thực thi pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù còn chưa cao; Bốn là, thiếu cơ chế phối hợp giữa
các chủ thể thi hành án; Năm là, cơ sở vật chất phục vụ cho việc thi
hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù còn hạn chế.


20


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT
NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
3.1. Cải cách tư pháp về thi hành án hình sự
Cải cách tư pháp về THAHS là một nội dung rất quan trọng.
Trên cơ sở Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền,
hình phạt không tước tự do đối với một số loại tội phạm". Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49
NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị đã nêu ra các hạn chế, tồn
tại và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, đưa ra các quan
điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp.
Bên cạnh đó, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
tư pháp cũng được nhấn mạnh. Tới đây, trước mắt cần giải quyết vấn
đề án tồn đọng, đồng thời tiếp tục nghiên cứu đưa ra một mô hình
quản lý thống nhất công tác thi hành án. Trong tác nghiệp thi hành
án, cần kết hợp giữa hoạt động có tính chất chuyên môn nghiệp vụ
của các cơ quan thi hành án với việc từng bước xã hội hóa một số
công việc trong thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, giảm tải cho
Nhà nước một số công việc mà lẽ ra lâu nay người dân phải làm và
có thể làm mà không cần đến sự can thiệp của chính quyền.

21



3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS liên
quan đến công tác thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
Thứ nhất, sửa đổi Khoản 2 Điều 31 BLHS theo hướng: thay
cụm từ "thường trú" bằng cụm từ "cư trú" để phù hợp với quy định
tại Điều 75 Luật THAHS và Điều 12 Luật Cư trú.
Thứ hai, sửa đổi quy định về thời hạn nộp tiền phạt để thi
hành hình phạt tiền: có thể nộp nhiều lần nhưng phải trong vòng 6
tháng kể từ ngày có quyết định thi hành án.
Thứ ba, sửa đổi Điều 304 BLHS: bỏ chế tài về hình phạt cải
tạo không giam giữ và chỉ quy định phạt tù (từ 6 tháng đến 3 năm).
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định của Luật
Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản có liên quan
Thứ nhất, bổ sung 01 Điều luật vào mục 3 chương V Luật
THAHS quy định về việc giải quyết trường hợp người chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú hoặc làm việc.
Thứ hai, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan có thẩm
quyền thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Thứ ba, bổ sung quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính đối với người phải thi hành án mà vi
phạm nghĩa vụ thi hành án.
Thứ tư, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành các
văn bản hướng dẫn Luật THAHS nhằm đồng bộ quy định của pháp
luật.
Thứ năm, bỏ các quy định về công tác thi hành án trong
BLTTHS.


22


Thứ sáu, sửa đổi bổ sung Luật THAHS và các văn bản có
liên quan theo hướng tăng cường xã hội hóa công tác thi hành các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
3.3. Giải pháp bảo đảm cho thi hành các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù
Thứ nhất, phát huy năng lực, trách nhiệm của các chủ thể thi
hành hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao chất lượng xét xử của toà án.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về thi hành các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
KẾT LUẬN

23


×