Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Quản lý nhà nước về trật tự đô thị từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng (Lv thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.85 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỮU HOÀNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỮU HOÀNG

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. HOÀNG THỊ NGÂN

HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, cho phép tôi trân trọng cảm ơn TS. Hoàng Thị Ngân đã giúp đỡ,
hướng dẫn tôi về mọi mặt để hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học xã hội đã tận
tình giảng dạy, giúp đỡ cho bản thân trong 02 năm qua để có được kết quả học tập
như hôm nay.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo, Cán bộ-Công chức Văn phòng Đoàn Đại
biểu Quốc hội, HĐND thành phố Đà Nẵng, UBND thành phố Đà Nẵng và các Sở,
Ban ngành của thành phố đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi để có được những kết quả trong
công tác Quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố, góp phần cho
bản thân hoàn thành luận văn.
Cảm ơn những người thân, bạn bè đồng nghiệp, anh chị em học viên cùng
khóa, cùng lớp đã giúp đỡ, chia sẽ, động viên tôi những lúc khó khăn để hoàn thành
luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu
là trung thực, khách quan. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Hữu Hoàng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNGVẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ ................................................................................... 7
1.1. Đô thị và trật tự đô thị ................................................................................ 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò về trật tự đô thị ...................................... 11
1.3. Các yếu tố bảo đảm quản lý nhà nước về trật tự đô thị ........................... 20
1.4. Chủ thể quản lý nhà nước về trật tự đô thị ............................................... 23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ
THỊ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................. 26
2.1. Hiện trạng trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........................ 26
2.2. Thực tiễn quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................ 31
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.................................................................................................... 49
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ TRẬT TỰ ĐÔ THỊ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .... 57
3.1. Quan điểm tăng cường quản lý nhà nước về trật tự đô thị ...................... 57
3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa thành
phố Đà Nẵng.................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ATGT

: An toàn giao thông


CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

PCCC

: Phòng cháy chữa cháy

QLNN

: Quản lý nhà nước

UBND

: Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

2.2.

Tên bảng
Thống kê kết quả kiểm tra tạm trú, lưu trú tại thành phố
Đà Nẵng từ năm 2012-2016
Thống kê kết quả xử lý vi phạm hành chính tại thành phố
Đà Nẵng từ năm 2012-2016


Trang

47

47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi đô thị phát triển một cách
có kiểm soát, theo quy hoạch, đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước “Cần phải
phát triển đô thị một cách vững chắc, có trật tự, nhằm xây dựng một đô thị đoàng
hoàng hơn to đẹp hơn”.
Trong những năm qua, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, tốc độ phát triển đô thị diễn ra khá nhanh. Việc xây dựng và phát triển các đô
thị này, đòi hỏi phải được thực hiện theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt và
đúng với quy chuẩn, tiêu chuẩn cho phép đối với từng khu vực. Tuy nhiên, trên thực
tế việc vi phạm trật tự đô thị không còn là chuyện xa lạ ở các đô thị trong suốt thời
gian qua. Tình hình vi phạm trật tự đô thị đã và đang là một vấn đề nóng trong thực
tế các đô thị nước ta hiện nay; dường như đây chính là mặt trái của đô thị hoá với
tốc độ quá nhanh trong khi quản lý nhà nước về đô thị lại chưa đáp ứng kịp. Hiện
tượng xây dựng không phép, sai với nội dung giấy phép xảy ra ở nhiều nơi trên cả
nước, đặc biệt ở thành phố lớn, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí
Minh,… có thể nhận thấy các công trình vi phạm pháp luật về xây dựng ngày càng
nhiều và đa dạng hơn. Mức độ không chỉ dừng lại ở mấy căn hộ tập thể cơi nới
không xin phép hay nhà trong kiệt xây ban công lấn chiếm không gian công cộng,
mà nhà riêng sai theo kiểu nhà riêng, biệt thự sai kiểu biệt thự, các vi phạm về đất
đai diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Đồng thời các vi phạm về trật tự vỉa hè,
trật tự an toàn giao thông, về phòng cháy chữa cháy, về cư trú…cũng gia tăng và
diễn biến phức tạp. Điều này đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị phải

được quan tâm một cách thực sự đúng mức.
Thực tế cho thấy, song song với những mặt tích cực, sự phát triển đô thị nước ta
trong những năm qua đã tạo ra sức ép khá lớn về nhiều mặt, có nguy cơ dẫn đến sự
phát triển không bền vững. Quá trình phát triển đô thị đã, đang nảy sinh nhiều vấn đề
lớn, như gia tăng dân số cơ học ở các đô thị lớn; tình trạng lấn, chiếm đất xây dựng

1


nhà trái phép vi phạm các chỉ giới, sai với quy hoạch ngày càng nghiêm trọng; nhiều
khu công nghiệp hình thành không theo một khuôn mẫu về phòng cháy, chữa cháy và
xử lý chất thải; sự bùng nổ các phương tiện cơ giới gây ách tắc giao thông,... Bên
cạnh đó, quá trình phát triển đô thị cũng chính là nguyên nhân làm mất cân bằng sinh
thái, làm giảm chất lượng môi trường sống, làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên
nhiên. Đây chính là thách thức của công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị tại các
thành phố trên cả nước.
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của khu vực Miền
Trung và Tây Nguyên, là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương, trong quá trình chỉnh
trang, phát triển của thành phố trong thời gian qua, cũng không tránh khỏi những
tồn đọng trong trật tự xây dựng đô thị, giao thông đô thị, quản lý cư trú, phòng cháy
chữa cháy,...
Với những lý do yêu cầu cấp bách như vậy, cần thiết phải có những nghiên
cứu khoa học để tìm ra những giải pháp phục vụ cho quá trình phát triển của thành
phố Đà Nẵng nói chung, trật tự đô thị ở Đà Nẵng nói riêng. Đề tài “Quản lý nhà
nước về trật tự đô thị từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” được lựa chọn là xuất phát
từ nhu cầu đó, để đánh giá những thực trạng, tìm giải pháp và phương hướng nhằm
bổ sung thêm về lý luận, áp dụng vào thực tế quản lý trật tự đô thị ở thành phố Đà
Nẵng nói riêng và cả nước nói chung
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay có rất nhiều đề tài nghiên cứu quản lý nhà nước về đô thị nói

chung và quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực nói riêng được nhiều tác giả đề
cập, như:
- “Phát triển Đô thị bền vững” do TS. Nguyễn Thế Nghĩa - TS. Tôn Nữ
Quỳnh Trân chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 2002, trong đó nội dung
cuốn sách tác giả đã nêu lên những đặc thù và đưa ra những phương hướng giải
quyết theo nguyên tắc bền vững trong đô thị. Đặc biệt, nêu lên những trường hợp cụ
thể về việc phát triển đô thị ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Tác giả đã phân
tích những ưu, khuyết điểm của quá trình phát triển một đô thị cụ thể trong những

2


năm qua, nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc quy hoạch, chỉnh trang
và phát triển các đô thị khác trong tương lai.
- Giáo trình “Quản lý đô thị” do GS. TS Nguyễn Đình Hương và ThS. Nguyễn
Hữu Đoàn chủ biên, Nhà xuất bản thống kê Hà Nội năm 2003, giáo trình gồm 10
chương, mỗi chương tương ứng với một vấn đề đặt ra cho quản lý đô thị. Giáo trình
cơ bản đã cung cấp những quan niệm về đô thị, quản lý đô thị, phân loại đô thị, quá
trình phát triển đô thị Việt Nam, các mô hình quản lý đô thị và nêu lên một số giải
pháp, trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý những lĩnh vực hoạt động được quan
tâm tại đô thị, như: Quản lý đất đai; Cơ sở hạ tầng; Dân số và Lao động; Phát triển
kinh tế; Giao thông và thông tin; Môi trường; An ninh xã hội và Tài chính đô thị.
- “Quản lý đô thị thời kỳ chuyển đổi” của TS. Võ Kim Cương, Nhà xuất bản
xây dựng năm 2004, tác giả nêu một số vấn đề về quản lý đô thị trong thời kỳ
chuyển đổi và đúc kết những kinh nghiệm thực tế, đưa ra các quan điểm, giải pháp
quản lý đô thị.
- “Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực” phần III do PGS. TS. Đinh Văn
Mậu, GS. TS. Lê Sỹ Thiệp và TS. Nguyễn Trịnh Kiểm chủ biên, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật năm 2009, trong đó chuyên đề 20 có đề cập đến QLNN về đô
thị nhưng chỉ mới tiếp cận ở một vài khái niệm và gợi ý một số điểm liên quan mà

không đi sâu nghiên cứu và đề ra giải pháp thực hiện.
- “Pháp luật và Quản lý đô thị” do TS. KTS. Lê Trọng Bình chủ biên, Trường
Đại học Kiến trúc, Hà Nội năm 2009, tác giả đã đề cập đến những kiến thức cơ bản
về quản lý và phát triển đô thị, giúp cho người nghiên cứu nhận thức đúng đắn về
quy luật phát triển đô thị, nắm vững những công cụ chủ yếu để quản lý đô thị là
pháp luật, quy hoạch và bộ máy QLNN, đảm bảo cho đô thị phát triển một cách trật
tự, phù hợp với quy luật khách quan và hình thái kinh tế xã hội nước ta.
- Vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới ở Việt
Nam do PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự
thật, Hà Nội năm 2011, cuốn sách đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để phát

3


huy vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong
tiến trình đổi mới ở nước ta.
- Chuyên đề “Quản lý nhà nước về đô thị và nông thôn” của PGS.TS. Phạm Kim
Giao, tập bài giảng Học viện Hành chính, Hà Nội năm 2011, tác giả giới thiệu những
vấn đề cơ bản hai khu vực, hai môi trường, hai loại hình thái định cư của con người và
tác giả luận chứng trong quá trình phát triển của xã hội, do chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và lao động xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, môi trường sống hay
định cư nông thôn sẽ dần thu hẹp lại và ngược lại môi trường sống hay định cư đô thị
sẽ tăng lên và mở rộng thay thế dần cho môi trường định cư nông thôn.
- “Đại cương Quản lý đô thị trong điều kiện toàn cầu hóa và phát triển bền
vững” do GS.TS. Phạm Hữu Khiển và PGS.TS. Lưu Kiếm Thanh chủ biên, Nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội năm 2011, cuốn sách đã phân tích những vấn đề phát
triển xã hội trong bối cảnh của một số quốc gia trên thế giới nói chung, bối cảnh của
Việt Nam nói riêng và đề cập đến vấn đề quản lý xã hội đô thị trong những điều
kiện hiện đại.
- “Quản lý đô thị” của TSKH. Nguyễn Ngọc Châu, Nhà xuất bản Xây dựng,

Hà Nội năm 2012, tác giả đã nêu lên một số khái niệm về đô thị, quản lý đô thị, lịch
sử hình thành và phát triển đô thị. Đồng thời, cuốn sách cung cấp những kiến thức
mới về quản lý một số lĩnh vực cụ thể của đô thị, như dịch vụ công cộng, giao thông
và vận tải đô thị, môi trường, cấp thoát nước đô thị...giúp cho người đọc nắm được
những kiến thức cơ bản về quản lý đô thị.
Ngoài ra, còn nhiều đề tài nghiên cứu quản lý nhà nước trên các lĩnh vực như
đất đai, giao thông đô thị, an sinh xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và tài
nguyên, quy hoạch đô thị,...Tuy nhiên, qua tìm hiểu, rà soát thì việc nghiên cứu đề
tài quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho thấy chưa
có công trình nghiên cứu nào. Từ thực tế công tác của bản thân thấy được sự cần
thiết của việc nghiên cứu đề tài này, góp phần đưa ra các kiến nghị khoa học để
khắc phục những hạn chế, tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị

4


trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm xây dựng thành phố Đà Nẵng ngày càng văn
minh, hiện đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích thực trạng hoạt động quản lý
nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua, từ đó đề
xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về trật tự
đô thị trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về trật tự đô thị; Đánh giá thực
trạng, phân tích nguyên nhân, hạn chế của hoạt động quản lý nhà nước về trật tự đô
thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; Xác định các phương hướng và đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về trật tự đô thị tại thành
phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về trật tự đô thị và thực trạng hoạt
động quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên phạm vi địa bàn thành phố Đà Nẵng và trong thời gian
năm năm từ năm 2012 đến 2016.
Về nội dung, do hoạt động quản lý nhà nước về trật tự đô thị có nội dung rộng
nên trong giới hạn, luận văn chỉ đề cập đến năm vấn đề chính mà thành phố Đà
Nẵng đang còn nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý đó là: 1) Quản lý nhà nước về
trật tự xây dựng; 2) Quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy; 3) Quản lý nhà
nước về trật tự giao thông đô thị; 4) Quản lý nhà nước về cư trú; 5) Quản lý nhà
nước về cảnh quan, mỹ quan đô thị.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

5


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
cũng như của các cấp chính quyền thành phố Đà Nẵng về hoạt động quản lý nhà
nước về trật tự đô thị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã có sự kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, quy nạp,
diễn dịch,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ

thống dưới góc độ pháp luật hành chính về hoạt động quản lý nhà nước về trật tự đô
thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Công trình này có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước về trật tự đô thị nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về trật tự đô thị.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về trật tự đô thị trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về trật tự đô
thị trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

6


CHƢƠNG 1
NHỮNGVẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
TRẬT TỰ ĐÔ THỊ
1.1. Đô thị và trật tự đô thị
1.1.1. Quan niệm về Đô thị
Theo nghĩa Hán – Việt, đô thị là từ ghép của 2 chữ “đô” và “thị”. Thị có nghĩa
là “chợ”, “đô” có nghĩa là sự đông đúc, chợ thì luôn phải đông, phải tập trung con
người và vật dụng trao đổi buôn bán. Đô thị được hình dung là nơi tập trung khu
dân cư sinh sống bằng các ngành nghề phi nông nghiệp.
Theo giáo trình “Quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị”, đô thị Việt Nam
được hiểu là: “một khu dân cư, trong đó lực lượng lao động chủ yếu là phi nông
nghiệp, sống và làm việc theo lối sống thành thị”[40].

Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2004) có giải thích: “Đô thị là nơi
dân cư đông đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể có cả nông nghiệp, là thành
phố hoặc thị trấn, thị tứ” [34]. Như vậy, đô thị được hiểu là khu vực thành phố, thị
xã, thị trấn, thị tứ, những trung tâm phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa của một
quốc gia, một vùng, một địa phương.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị năm 2015, “Đô thị là khu vực tập
trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế
phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên
ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng
lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị,
ngoại thị của thị xã; thị trấn”.[32,tr.1].
Như vậy, đô thị là nơi tập trung đông dân cư với mật độ cao, là trung tâm kinh
tế, chính trị, văn hóa, đa phần nhân dân lao động chủ yếu là phi nông nghiệp, có cơ
sở hạ tầng hiện đại để phục vụ và phát triển kinh tế xã hội cho một vùng lãnh thổ,
một địa phương.

7


* Phân loại đô thị ở Việt Nam
- Theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ về phân loại
đô thị, thì các tiêu chuẩn cơ bản để phân loại đô thị được xem xét, đánh giá trên cơ
sở hiện trạng phát triển đô thị tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị
hoặc tại thời điểm lập đề án phân loại đô thị, theo đó, việc phân loại đô thị dựa trên
các tiêu chí cơ bản sau:
- Chức năng đô thị: Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp
quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng
trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một
vùng lãnh thổ nhất định;
- Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4 nghìn người trở lên;

- Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô
thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập trung của
thị trấn;
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội thành,
nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động;
- Hệ thống công trình hạ tầng đô thị gồm hệ thống công trình hạ tầng xã hội và
hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật:
+ Đối với khu vực nội thành, nội thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ và có
mức độ hoàn chỉnh theo từng loại đô thị;
+ Đối với khu vực ngoại thành, ngoại thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ
mạng hạ tầng và bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.
- Kiến trúc, cảnh quan đô thị: việc xây dựng phát triển đô thị phải theo quy chế
quản lý kiến trúc đô thị được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn
minh đô thị, có các không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô
thị; có tổ hợp kiến trúc hoặc công trình kiến trúc tiêu biểu và phù hợp với môi
trường, cảnh quan thiên nhiên.
Trên cơ sở đó, có các loại đô thị sau:
Thứ nhất, đô thị đặc biệt là đô thị có quy mô dân số tối thiểu từ 5 triệu người

8


trở lên, mật độ dân số khu vực nội thành từ 15.000 người/km2, tỷ lệ lao động phi
nông nghiệp tối thiểu đạt 90% so với tổng số lao động và trên 60% các trục phố
chính đô thị phải đạt tiêu chuẩn tuyến phố văn minh đô thị.
Thứ hai, đô thị loại I, trong đó đô thị trực thuộc trung ương có quy mô dân số
từ 1 triệu người trở lên, mật độ dân số bình quân ở khu vực nội thành từ 12.000
người/km2. Còn đô thị trực thuộc tỉnh có quy mô dân số từ 500 nghìn người trở lên,
mật độ dân số bình quân khu vực nội thành từ 10.000 người/km2. Đồng thời, đô thị
loại I có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành tối thiểu đạt 85% so với

tổng số lao động và các khu đô thị mới phải đạt tiêu chuẩn đô thị kiểu mẫu và trên
50% các trục phố chính đô thị phải đạt tiêu chuẩn tuyến phố văn minh đô thị.
Thứ ba, đô thị loại II, trong đó đô thị trực thuộc trung ương có quy mô dân số
phải đạt trên 800 nghìn người, mật độ dân số bình quân ở khu vực nội thành từ
10.000 người/km2. Còn đô thị trực thuộc tỉnh có quy mô dân số từ 300 nghìn người
trở lên, mật độ dân số bình quân khu vực nội thành từ 8.000 người/km2. Đồng thời,
đô thị loại II có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành tối thiểu đạt 80%
so với tổng số lao động và các khu đô thị mới phải đạt tiêu chuẩn đô thị kiểu mẫu và
trên 40% các trục phố chính đô thị phải đạt tiêu chuẩn tuyến phố văn minh đô thị.
Thứ tư, đô thị loại III là đô thị có quy mô dân số từ 150 nghìn người trở lên,
với mật độ dân số khu vực nội thành, nội thị từ 6.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp khu vực nội thành, nội thị tối thiểu đạt 75% so với tổng số lao
động và các khu đô thị mới phải đạt tiêu chuẩn đô thị kiểu mẫu và trên 40% các trục
phố chính đô thị phải đạt tiêu chuẩn tuyến phố văn minh đô thị.
Thứ năm, đô thị loại IV là đô thị có quy mô dân số từ 50 nghìn người trở lên,
với mật độ dân số khu vực nội thị từ 4.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động phi
nông nghiệp khu vực nội thành, nội thị tối thiểu đạt 70% so với tổng số lao động.
Thứ sáu, đô thị loại V là đô thị có quy mô dân số từ 4 nghìn người trở lên, với
mật độ dân số bình quân từ 2.000 người/km2 trở lên, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tại
các khu phố xây dựng tối thiểu đạt 65% so với tổng số lao động.

9


1.1.2. Quan niệm về trật tự đô thị
Theo Từ điển Tiếng Việt, trật tự được hiểu là “chế độ do chính quyền quy định
để gìn giữ sự an ninh: bảo vệ trật tự, trị an, hay là sự sắp xếp hàng lối trước sau,
trên xuống được đảm bảo theo quy tắc nhất định” [35]. Trật tự đô thị là nói về tình
trạng an toàn, an ninh đô thị liên quan đến những điều kiện căn bản tạo môi trường
dân sự phát triển và bền vững.

Có quan niệm cho rằng, trật tự đô thị là “khái niệm về tổ chức quản lý xã hội đô
thị, đảm bảo tình trạng và môi trường dân sự đối với công dân đô thị, đồng thời cũng
bảo đảm trật tự xã hội trên cơ sở các yếu tố con người và các yếu tố cấu trúc của xã
hội đô thị trong điều kiện được kiểm soát và phát triển”.
Như vậy, có thể hiểu trật tự đô thị là sự điều chỉnh, sắp xếp các quan hệ xã
hội đô thị hoạt động theo một quy tắc, quy chuẩn phù hợp các quy định của pháp
luật hiện hành để đảm bảo cho môi trường dân sự đô thị được phát triển bền vững
theo những nguyên tắc nhất định.
* Các tiêu chí đánh giá trật tự đô thị
Trật tự đô thị là việc nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội theo đúng quy
tắc, quy chuẩn của pháp luật hiện hành vì vậy để đánh giá đô thị đó có trật tự hay
không thì căn cứ vào các tiêu chí sau:
Thứ nhất, căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật ban hành có phù hợp
với thực tế hay không, có được mọi người dân chấp nhận không. Muốn vậy pháp
luật phải đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người dân và nhà nước. Nếu các văn bản
được mọi người đồng tình thì việc tổ chức thực hiện vào thực tế sẽ đem lại hiệu quả
rất cao và ngược lại sẽ rất khó khăn trong tổ chức thực hiện, có khi phải hủy bỏ vì
không khả thi.
Thứ hai, năng lực của chủ thể quản lý, vì mục đích của chủ thể là sắp xếp, điều
chỉnh các quan hệ xã hội dân sự đô thị được thực hiện theo một quy tắc nhất định.
Do đó, năng lực chủ thể cao thì khả năng dự đoán, ban hành những quyết định điều
chỉnh quan hệ đó sẽ có tính chất hiệu quả tốt hơn.
Thứ ba, căn cứ vào quy hoạch tổng thể sẽ dự đoán được mức độ ổn định của

10


sự phát triển, vì quản lý đô thị là quản lý nhiều lĩnh vực khác nhau và phải đảm bảo
tính đồng bộ. Vì vậy sẽ có những chiến lượt quy hoạch tổng thể dài hạn và ngắn hạn
để thực hiện hiệu quả ý đồ quản lý của chủ thể

Thứ tư, căn cứ vào nhận thức hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của công
dân để đánh giá được nơi đó có trật tự hay không. Nếu ý thức pháp luật của công
dân thấp thì không thể thi hành pháp luật đúng được. Do vậy trên một địa bàn mà
nhiều người dân hiểu biết về pháp luật thì rõ ràng việc chấp hành thực thi pháp luật
được thuận lợi và rõ nét hơn.
Thứ năm, căn cứ vào mặt bằng trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức ở các cơ quan chuyên trách. Trong tổ chức thực hiện QLNN về trật
tự đô thị, thì phẩm chất chính trị, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ là khâu quan
trọng nhằm truyền tải có hiệu quả những ý đồ, mục đích từ cơ quan quản lý đến
thực tiễn.
Thứ sáu, căn cứ vào cơ sở vật chất, phương tiện của cơ quan tổ chức thực hiện
việc quản lý về trật tự đô thị. Ở địa phương, đơn vị, cơ quan nào chăm lo đến đầu tư
trang thiết bị, phương tiện, có những điều kiện vật chất thuận lợi để thực thi quyền
lực, thì nơi đó công tác quản lý nhà nước về trật tự đô thị được chú trọng đảm bảo
tốt hơn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò về trật tự đô thị
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Quản lý nhà nước được hiểu theo 2 nghĩa: theo nghĩa rộng, QLNN là toàn bộ
hoạt động của bộ máy nhà nước, từ hoạt động lập pháp, hoạt động hành pháp, đến
hoạt động tư pháp. Theo nghĩa hẹp, QLNN chỉ bao gồm hoạt động hành pháp. Đây
cũng là cách hiểu trong khoa học Luật hành chính.
Tóm lại, từ phương diện của khoa học Luật hành chính thì QLNN là một loại
hoạt động của Nhà nước, được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền (trước hết
và chủ yếu là các cơ quan QLNN, là các cá nhân có thẩm quyền), trên cơ sở Hiến
pháp, Luật và để thi hành Hiến pháp, Luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo
một mục tiêu đã được xác định trước.

11



Quản lý nhà nước về trật tự đô thị là hoạt động mang tính chất quyền lực của
cơ quan hành chính nhà nước, nhằm tạo ra các điều kiện để xác lập, duy trì và ổn
định các quan hệ về trật tự đô thị, theo quy định của pháp luật về trật tự đô thị. Đây
là một hoạt động có vai trò, vị trí rất quan trọng trong lĩnh vực an ninh trật tự đô thị.
QLNN về trật tự đô thị là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở pháp luật, nhằm bảo vệ trật
tự đô thị. QLNN về trật tự đô thị được tiến hành trên các lĩnh vực: ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật về trật tự đô thị; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về trật tự đô thị; quản lý quy tắc trật tự đô thị; quản lý kết cấu hạ tầng trật tự đô
thị…
Từ những nhận thức chung về trật tự đô thị, về QLNN có thể đi đến quan
niệm: Quản lý nhà nước về trật tự đô thị là hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước và cá nhân có thẩm quyền, trên cơ sở Hiến pháp, Luật để can thiệp vào các
lĩnh vực đô thị như: giao thông đô thị, xây dựng đô thị, trật tự xã hội đô thị... nhằm
điều chỉnh các hoạt động đô thị đi theo một quy tắc, một trật tự nhất định, đảm bảo
đúng theo mục tiêu đã được xác định trước.
Quản lý nhà nước về trật tự đô thị có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, QLNN về trật tự đô thị có thể do nhiều chủ thể tham gia. Tuy nhiên,
trong hệ thống chủ thể QLNN về trật tự đô thị, các cơ quản lý hành chính nhà nước
là chủ thể chủ yếu, những cơ quan này thực hiện quản lý với tư cách đại diện công
quyền mang quyền lực nhà nước.
Thứ hai, QLNN về trật tự đô thị dựa trên cơ sở pháp lý trực tiếp là pháp luật
về trật tự đô thị. Việc ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý vi
phạm pháp luật về trật tự đô thị là toàn bộ nội dung quản lý của QLNN về trật tự đô
thị.
Thứ ba, QLNN về trật tự đô thị là hoạt động của con người, liên quan đến
nhiều lĩnh vực của đời sống, tác động trực tiếp đến nhu cầu sinh hoạt của con người,
các hoạt động này có những tính chất phức tạp theo sự phát triển chung của xã hội.
Do vậy, QLNN về trật tự đô thị đòi hỏi phải được thực hiện khoa học, nhanh chóng


12


phù hợp với sự vận động của đô thị.
Thứ tư, QLNN về trật tự đô thị có nội dung rất rộng như: quản lý về phòng,
chống tội phạm; quản lý về phòng, chống tệ nạn xã hội; quản lý về trật tự ATGT;
quản lý về phòng cháy, chữa cháy; quản lý về trật tự hành chính (quản lý cư trú, tạm
trú, tạm vắng, hộ khẩu, quản lý con dấu, quản lý vũ khí, vật liệu nổ); quản lý trật tự
xây dựng... Trong giới hạn của luận văn, xuất phát từ thực tế, đề tài này chỉ đề cập
đến 04 lĩnh vực chính là: 1) QLNN về trật tự xây dựng; 2) QLNN về phòng cháy,
chữa cháy; 3) QLNN về trật tự giao thông đô thị; 4) QLNN về cư trú; 5) QLNN về
cảnh quan, mỹ quan đô thị.
* Vai trò của quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Một là, nhà nước quyết định tốc độ nhanh hay chậm của sự phát triển kinh tế xã hội.
Xã hội càng phát triển đòi hỏi trật tự xã hội nói chung, trật tự đô thị nói riêng
càng hiện đại, phục vụ nhanh hơn, thuận tiện hơn, tiện nghi, văn minh hơn và an
toàn hơn. trật tự đô thị tốt sẽ tạo điều kiện giao lưu kinh tế, phát triển đồng đều giữa
các vùng lãnh thổ làm giảm chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các vùng. Có
thể nói, sự phát triển của kinh tế – xã hội và mức độ bảo đảm trật tự đô thị cũng là
một trong những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia.
Trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay, muốn CNH, HĐH đất
nước, việc xây dựng và phát triển trật tự đô thị phải đi trước một bước. Vai trò của
trật tự đô thị không chỉ dừng lại ở góc độ phát triển kinh tế mà còn ở chỗ thúc đẩy
phát triển xã hội. Ở đâu có trật tự đô thị phát triển ở đó có hoạt động giao lưu văn
hóa, giáo dục, y tế... sôi động hơn, hiệu quả hơn. Nói cách khác, trật tự đô thị phát
triển làm cho nhu cầu đời sống dân sinh được đáp ứng tốt hơn.
Tóm lại, xã hội càng phát triển thì trật tự đô thị phải ngày càng tốt hơn là một
tất yếu. Khi kinh tế phát triển thì trật tự đô thị ngày càng phát triển theo với trật tự,
an toàn cao để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Tốc độ phát triển của trật tự
đô thị cùng mức độ an toàn, thuận tiện của nó và phát triển kinh tế là một quan hệ tỷ

lệ thuận.

13


Hai là, nhà nước quyết định sự đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Hoạt động trật tự đô thị diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc, liên quan đến mọi tầng lớp
dân cư, mọi chủ thể trong xã hội. trật tự đô thị được bảo đảm, tức tài sản, tính mạng,
mọi lợi ích chính đáng khác người dân được đảm bảo, người dân có cuộc sống yên
lành, ổn định, nhu cầu đi lại, phát triển kinh tế... được thuận lợi là điều kiện góp
phần để đảm bảo trật tự an toàn xã hội.
Trật tự an toàn xã hội được quan niệm là trạng thái của các quan hệ xã hội
được hình thành và điều chỉnh bởi hệ thống quy phạm pháp luật của nhà nước, quy
phạm chính trị, quy phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng
của một dân tộc, một nhà nước, là tình trạng xã hội ổn định, ở đó mọi công dân
sống và lao động có tổ chức, có kỷ cương, mọi lợi ích chính đáng được bảo đảm,
không bị xâm hại.
Như vậy, trật tự đô thị là một bộ phận không thể tách rời, có quan hệ khăng
khít với trật tự an toàn xã hội; trật tự đô thị được đảm bảo thì mới góp phần đảm
bảo trật tự an toàn xã hội. trật tự an toàn xã hội được đảm bảo vững chắc sẽ là cơ sở,
là điều kiện để giữ vững trật tự đô thị, củng cố phát huy tính pháp chế XHCN trong
QLNN về trật tự đô thị.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về trật tự đô thị
QLNN về trật tự đô thị là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan
nhà nước, cá nhân có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở pháp luật, nhằm bảo vệ
trật tự đô thị. Để QLNN về trật tự đô thị có hiệu quả, các cơ quan hành chính nhà
nước theo thẩm quyền phải thực hiện các hoạt động xây dựng và ban hành các văn
bản quản lý về trật tự đô thị; tổ chức thực hiện các văn bản quản lý về trật tự đô thị;
xử lý vi phạm các quy định về trật tự đô thị. Đây là ba khâu quan trọng của quy
trình QLNN về trật tự đô thị. QLNN về trật tự đô thị sẽ không đạt được mục tiêu

nếu thiếu đi một trong ba khâu đó. Giữa ba khâu trong quy trình quản lý tồn tại mối
quan hệ khăng khít không thể tách rời, nó cấu thành nội dung của QLNN về trật tự
đô thị.
Thứ nhất, xây dựng, ban hành văn bản quản lý nhà nước về trật tự đô thị

14


Hiến pháp năm 2013 ghi rõ “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Muốn quản lý
bằng pháp luật thì trước hết phải có luật pháp; luật pháp phải đúng, phải đủ. Để
QLNN về trật tự đô thị, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải ban hành hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh
vực có liên quan đến trật tự đô thị. Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật là kết quả của quá trình nhận thức sự vận động, phát triển của đô thị. Đây là sự
ghi nhận về mặt nhà nước nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ có
liên quan đến trật tự đô thị trong thực tiễn quản lý. Trên cơ sở đó, xây dựng các thể
chế quản lý phù hợp, tạo lập hành lang pháp lý cho những quan hệ ấy phát triển
theo đúng định hướng của Nhà nước.
Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về trật tự đô thị là hoạt
động không thể thiếu trong cơ chế lãnh đạo, quản lý lĩnh vực có liên quan đến phát
triển đô thị, đây là sự nối tiếp hoạt động lãnh đạo của Đảng, đồng thời nó là khâu
đầu tiên của quy trình QLNN về trật tự đô thị. Xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật về trật tự đô thị là khâu quan trọng, có tính chất quyết định đối với
hai khâu còn lại của quy trình QLNN về trật tự đô thị, đó là tổ chức thực hiện văn
bản quy phạm pháp luật về trật tự đô thị và xử lý vi phạm pháp luật về trật tự đô thị.
Nhà nước quy định thẩm quyền cho từng cơ quan trong việc xây dựng và ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
các lĩnh vực liên quan đến quản lý trật tự đô thị. Căn cứ pháp lý cho hoạt động này
là Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Ban

hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Xây dựng năm 2003, Luật Đất đai năm
2003, Luật Nhà ở năm 2006, Luật Quy hoạch đô thị năm 2009, Luật Cư trú năm
2006, Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Luật Phòng cháy, chữa cháy năm 2001
và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành và xử lý vi phạm hành chính của
Chính phủ, các Bộ, Ngành có liên quan trong thực hiện các luật trên... Các cơ quan
này được trao những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể trong thực hiện
những nội dung của QLNN về trật tự đô thị.

15


Chính phủ là cơ quan thống nhất QLNN về trật tự đô thị, có thẩm quyền trình
các dự án luật, pháp lệnh có nội dung liên quan đến QLNN về trật tự đô thị, cũng
như ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật có liên quan để áp
dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Pháp luật về trật tự đô thị hoàn thiện mới có khả năng tạo lập được cơ sở pháp
lý vững chắc cho toàn bộ sự vận động phát triển của các quan hệ xã hội đô thị. Hệ
thống pháp luật về trật tự đô thị chỉ hoàn thiện khi đáp ứng được đầy đủ bốn tiêu
chí, đó là tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, có kỹ thuật pháp lý cao.
Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về trật tự đô thị, công tác rà soát, hệ
thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực có liên quan trật tự đô thị
có tầm quan trọng, nhằm khắc phục kịp thời những hạn chế của pháp luật về trật tự
đô thị, nâng cao chất lượng của pháp luật về trật tự đô thị, tính pháp điển và tạo điều
kiện cho công tác quản lý văn bản, cho việc sử dụng, áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật trong lĩnh vực trật tự đô thị đảm bảo phù hợp với thực tế.
Thứ hai, tổ chức thực hiện văn bản quản lý nhà nước về trật tự đô thị.
Thực tế chứng minh, pháp luật được ban hành tự thân nó không thể đi vào đời
sống mà phải thông qua việc tổ chức thực hiện trên thực tế. Tổ chức thực hiện pháp
luật về trật tự đô thị nhằm đưa các quy phạm pháp luật về trật tự đô thị vào điều chỉnh
các quan hệ về lĩnh vực đô thị, được tiến hành trên hai bình diện chủ yếu là triển khai

thực hiện và áp dụng pháp luật về trật tự đô thị.
Về triển khai thực hiện pháp luật QLNN về trật tự đô thị: Trong phạm vi thẩm
quyền, các cơ quan QLNN tổ chức triển khai các quy định trong các văn bản pháp
luật về trật tự đô thị bằng việc tập huấn, hướng dẫn thực hiện tại các cơ quan, đơn vị
cơ sở, tuyên truyền phổ biến giáo dục cho các đối tượng quản lý bằng nhiều hình
thức, biện pháp phù hợp. Trong tổ chức thực hiện pháp luật về trật tự đô thị, các
cấp, các ngành ở Trung ương cũng như các địa phương phải có sự phối hợp một
cách đồng bộ, nhịp nhàng thì mới thực hiện pháp luật về trật tự đô thị một cách có
hiệu quả.
Về áp dụng pháp luật QLNN về trật tự đô thị: Đây là việc các cơ quan nhà

16


nước có thẩm quyền quản lý các lĩnh vực có liên quan về trật tự đô thị bằng các hoạt
động nghiệp vụ, với trình độ chuyên môn cao của các cán bộ, công chức có thẩm
quyền, tổ chức cho các chủ thể tham gia hoạt động trật tự đô thị thực hiện những
quy định của pháp luật về trật tự đô thị để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể trong lĩnh vực trật tự đô
thị.
Với nội dung trên, hoạt động áp dụng pháp luật về trật tự đô thị là sự tác động
quản lý bằng quyền lực nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền và một số cơ quan
khác của Nhà nước được ủy quyền để thi hành pháp luật về trật tự đô thị. Đây là yếu
tố quyết định sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật về trật tự đô thị,
tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước về trật tự đô thị.
Tổ chức thực hiện pháp luật QLNN về trật tự đô thị là hoạt động quan trọng
của cơ quan hành chính nhà nước. Ở nhiều Bộ, Ngành, Tỉnh, Thành phố hàng năm
phải thực hiện tổng kết hoạt động năm trước và đề ra nhiệm vụ năm sau. Đối với
Luật mới, Nghị định, Nghị quyết mới của Chính phủ còn phải lập chương trình
hành động, xác định tiến độ thực hiện, phân công cơ quan chủ trì và cơ quan phối

hợp. Đây là cơ sở để tiến hành giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý.
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong QLNN về trật tự đô thị.
Thanh tra là một chức năng thiết yếu của QLNN, là hoạt động kiểm tra, xem
xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, thường được thực hiện bởi một cơ
quan chuyên trách, theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận
đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý
các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Từ cách hiểu đó, thanh tra QLNN về trật tự đô thị là một chức năng thiết yếu
của cơ quan chuyên trách thực hiện kiểm tra các đối tượng quản lý trên lĩnh vực
liên quan đến trật tự đô thị nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những sai lầm, xử
lý vi phạm trong hoạt động chấp hành các quy định pháp luật của nhà nước về trật

17


tự đô thị.
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta không
thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có người lãnh đạo tổ chức
và những bộ phận tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công việc.
Điều quan trọng là phải thành lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra
lẫn nhau trong nội bộ tổ chức và giữa hai nhân tố chủ quan và khánh quan trong tổ
chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Kiểm tra trật tự đô thị là việc xem xét các hành vi, hoạt động chủ thể có chấp
hành đúng các chủ trương, chính sách pháp luật nhà nước trên các lĩnh vực trật tự
đô thị, từ đó xem xét các mức độ vi phạm để kịp thời xử lý theo quy định.
Xử lý vi phạm pháp luật về trật tự đô thị có thể được hiểu là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, quyết định
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hay hình sự đối với các tổ chức, cá nhân vi

phạm pháp luật trên các lĩnh vực về trật tự đô thị.
Vi phạm pháp luật về trật tự đô thị có thể phát sinh các loại vi phạm pháp luật
như: vi phạm pháp luật dân sự; vi phạm pháp luật hành chính; vi phạm kỷ luật nhà
nước (chủ yếu đối với cán bộ, công chức, viên chức hành chính trực tiếp hoạt động
QLNN về trật tự đô thị); vi phạm pháp luật đất đai; vi phạm pháp luật xây dựng; vi
phạm pháp Luật Cư trú; vi phạm pháp luật giao thông đường bộ; vi phạm pháp luật
phòng cháy và chữa cháy; vi phạm pháp luật hình sự.
Do vậy, xử lý vi phạm pháp luật về trật tự đô thị có thể được tiến hành ở hai mức
độ: xử lý vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi
pham pháp luật về trật tự đô thị (tùy theo từng trường hợp cụ thể).
Xử lý vi phạm hành chính về trật tự đô thị chủ yếu là áp dụng xử phạt vi phạm
hành chính đối với cá nhân và tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm quy định
về trật tự đô thị, các điều kiện đảm bảo ổn định trật tự đô thị mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
1.2.3. Phương pháp quản lý nhà nước về trật tự đô thị
Quản lý nhà nước về trật tự đô thị là một trong những hoạt động của quản lý

18


×