Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Bài giảng giáo dục dân số và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.7 KB, 47 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH


TÀI LIỆU BÀI GIẢNG

GIÁO DỤC DÂN SỐ VÀ MÔI TRƯỜNG
(Dành cho sinh viên Giáo dục Mầm non)

Tài liệu lưu hành nội bộ

Giảng viên thực hiện: ThS. DƯƠNG THỊ MAI THƯƠNG

Quảng Bình, năm 2016
1


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. DÂN SỐ ........................................................................................................ 3
1.1. Một vài vấn đề cơ bản về dân số ..............................................................................3
1.1.1. Khái niệm dân cư – dân số ................................................................................3
1.1.2. Các quan điểm cơ bản về dân số .......................................................................3
1.2. Tình hình dân số trên thế giới và ở Việt Nam ..........................................................5
1.2.1. Tình hình dân số trên thế giới ...........................................................................5
1.2.2. Tình hình dân số ở Việt Nam ............................................................................6
1.3. Các động lực gia tăng dân số ....................................................................................7
1.3.1. Quy mô dân số...................................................................................................7
1.3.2. Các tỉ suất sinh ..................................................................................................7
1.3.3. Các tỉ suất tử ......................................................................................................8
1.3.4. Tỉ suất gia tăng tự nhiên ..................................................................................10


1.3.5. Tỉ suất gia tăng cơ học ....................................................................................11
1.4. Phân bố dân cư .......................................................................................................11
1.4.1. Khái niệm và thước đo ....................................................................................11
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư ................................................12
1.4.3. Đặc điểm phân bố dân cư trên thế giới ........................................................... 14
1.5. Dân số và phát triển ................................................................................................ 15
1.6. Các biện pháp ổn định dân số ở các nhóm nước ....................................................17
CHƯƠNG 2. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG…………………….17
2.1. Môi trường ..............................................................................................................18
2.1.1. Các vấn đề chung về khoa học môi trường .....................................................18
2.1.2. Các thành phần cơ bản của môi trường ........................................................... 19
2.1.3. Các vấn đề môi trường trên thế giới và ở Việt Nam .......................................23
2.2. Tài nguyên thiên nhiên ........................................................................................... 24
2.2.1. Các khái niệm chung .......................................................................................24
2.3. Ô nhiễm môi trường ............................................................................................... 31
2.3.1. Khái niệm ........................................................................................................31
2.3.2. Các loại ô nhiễm môi trường ...........................................................................31
2.3.3. Các biện pháp bảo vệ môi trường ...................................................................38
2.4. Phát triển bền vững .................................................................................................39
2.4.1. Khái niệm ........................................................................................................39
2.4.2. Các nguyên tắc của một xã hội phát triển bền vững .......................................39
CHƯƠNG 3. GIÁO DỤC DÂN SỐ VÀ MÔI TRƯỜNG ................................................ 41
3.1. Mối quan hệ giữa dân số và tài nguyên - môi trường.............................................41
3.2. Giáo dục dân số và môi trường...............................................................................43
3.2.1. Giáo dục dân số ............................................................................................... 43
3.2.2. Giáo dục môi trường .......................................................................................43
3.2.3. Giáo dục dân số và môi trường .......................................................................44

2



CHƯƠNG 1. DÂN SỐ
1.1. Một vài vấn đề cơ bản về dân số
1.1.1. Khái niệm dân cư – dân số
Dân cư: Một hiện tượng đặc sắc trên Trái Đất là có loài người sinh sống. Ở đó tập
hợp những con người cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định gọi là dân cư của vùng đó.
Ví dụ: Dân cư Hà Nội, dân cư Việt Nam, dân cư miền núi…
Dân cư của một vùng lãnh thổ là khách thể nghiên cứu chung của nhiều bộ môn
khoa học, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội: y học, kinh tế học, ngôn ngữ học…
mỗi môn nghiên cứu một khía cạnh, tức là xác định đối tượng nghiên cứu riêng của mình.
Dân số là dân cư được xem xét, nghiên cứu ở góc độ quy mô và cơ cấu.
Nội hàm của khái niệm dân cư không chỉ là số người, cơ cấu theo độ tuổi và giới
tính mà bao gồm cả vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngôn ngữ… tức là nó rộng hơn rất
nhiều so với nội hàm của khái niệm dân số.
Như vậy, nói đến dân số là nói đến quy mô, cơ cấu và những thành tố gây nên sự
biến động của chúng như: sinh, chết, di cư. Vì vậy, dân số thường được nghiên cứu ở
trạng thái tĩnh và trạng thái động.
1.1.2. Các quan điểm cơ bản về dân số
Thế giới vật chất bao gồm 3 hệ thống cơ bản: hệ thống tự nhiên vô cơ, hệ thống tự
nhiên hữu cơ và xã hội loài người.
Trong cuộc sống, con người tác động đến thế giới vô cơ (lao động) tạo nên đồng
ruộng, làng mạc, thành phố… và tác động đến thế giới hữu cơ tạo nên vật nuôi, cây trồng
có chất lượng.
Xã hội loài người là một bộ phận đặc thù về chất tự nhiên. Con người vừa là chủ
thể, nhân tố chủ yếu của hệ sinh thái Trái Đất, vừa là nguồn gốc của mọi cơ cấu kinh tế,
xã hội tạo ra giá trị cho xã hội… luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm.
a. Thuyết ManTuýt và tân ManTuýt
- Thuyết ManTuýt (Thomas Robert Malthus) : 1766 – 1834
Ông là mục sư – nhà kinh tế người Anh. Trong tác phẩm “Bàn về dân số” xuất bản
1798 ông đã đề cập vấn đề “Nhân mãn” có nội dung chính như sau:

- Dân số tăng cấp số nhân (2.4.8.16…) còn lương thực, thực phẩm, phương tiện sinh
hoạt tăng cấp số cộng (1.2.3.4…).
- Sự gia tăng dân số với nhịp độ không thay đổi, còn gia tăng lương thực, thực phẩm
là có giới hạn (diện tích và năng suất).
- Dân cư trên Trái Đất phát triển nhanh hơn khả năng nuôi sống nó. Từ đó, đói khổ,
đạo đức xuống cấp, tội ác phát triển… là sự tất yếu.
* Đóng góp: ManTuýt là người có công đầu trong việc nêu lên và nghiên cứu dân
số, cố gắng tìm ra một quy luật nào đó cho nên đã lên tiếng báo động nguy cơ của gia
tăng dân số.
* Hạn chế: Do xuất phát từ chỗ cho rằng quy luật dân số là quy luật tự nhiên, vĩnh
viễn, nên ông đưa ra những giải pháp có phần sai lệch và vô nhân đạo.
3


Thực chất thuyết ManTuýt không phải là việc đặt giới hạn cho số người trên Trái
Đất mà là việc giải thích sai lầm động lực dân số, cắt nghĩa không đúng những hậu quả
xã hội do sự gia tăng dân số gây ra và đề ra các giải pháp sai lầm ấu trĩ để hạn chế nhịp
độ tăng dân số.
- Các thuyết Tân ManTuýt
Ra đời nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhìn chung các thuyết này “mềm dẻo”
hơn. Nội dung cơ bản là: Sự gia tăng dân số, nhất là ở các nước đang phát triển, dẫn đến
nhiều loại tài nguyên thiên nhiên bị lôi cuốn vào quá trình sản xuất, làm kiệt quệ tài
nguyên và ô nhiễm môi trường. Theo các thuyết, thì sự giới hạn của sự phát triển trên
hành tinh có thể chỉ chịu đựng được trong vòng 100 năm tới, hậu quả là sẽ có sự sụp đổ
tức thời. Từ đó có nhiều luận điểm sai lầm và có phần phản động đó là: Là chỗ dựa tinh
thần cho bọn đế quốc.
Ví dụ: Dựa vào thuyết “Không gian sinh tồn”, Hitle đã nêu ra luận điểm dân Đức
đông, là dân tộc thượng đẳng cần có không gian sinh tồn… là lý do gây ra cuộc chiến
tranh thế giới thứ II.
b. Thuyết quá độ dân số

Là thuyết nghiên cứu sự biến đổi dân số qua các thời kỳ, xem xét mức sinh, mức tử
qua từng giai đoạn để hình thành một quy luật.
- Quá độ dân số là một quan niệm được sử dụng rộng rãi để lý giải sự thay đổi các
kiểu sản xuất dân cư trên thế giới.
A.Ladry (người Pháp) dùng thuật ngữ “cách mạng dân số” ra đời năm 1909 – 1934.
Quan điểm này được F.W.Notestein – nhà dân số học Hoa Kỳ kế tục và trình bày vào
năm 1945.
Cuối thế kỷ XIX, người ta nhận thức rằng chi phối mức sinh và mức tử của con
người không phải là quy luật tự nhiên (sinh học) mà là các nhân tố kinh tế - xã hội.
- Thuyết quá độ dân số phân biệt ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (giai đoạn trước quá độ dân số): mức sinh và mức tử đều cao, dân số
tăng chậm.
+ Giai đoạn 2 (giai đoạn quá độ dân số): mức sinh và mức tử đều giảm nhưng mức
tử giảm nhanh hơn nhiều do dân số tăng nhanh.
+ Giai đoạn 3 (sau quá độ dân số): mức sinh và mức tử đều thấp, dân số tăng chậm
tiến đến ổn định về dân số.
* Hạn chế: Thuyết quá độ dân số chỉ phát hiện được bản chất của quá trình dân số,
nhưng chưa tìm ra các tác động để kiểm soát và đặc biệt chưa chú ý đến vai trò của các
nhân tố kinh tế - xã hội đối với vấn đề dân số.
c. Học thuyết Mac – Lênin
Các nội dung chính:
- Mỗi hình thức kinh tế - xã hội có quy luật dân số tương ứng với nó (không có con
người thì không thể có bất kỳ hình thức sản xuất nào).
- Sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư, suy cho cùng là nhân tố quyết định sự
phát triển của xã hội loài người.
4


- Căn cứ vào những điều kiện cụ thể (tự nhiên, kinh tế, xã hội) mỗi quốc gia có trách
nhiệm xác định số dân tối ưu.

F.Ăngghen: Một xã hội biết điều chỉnh số dân như điều chỉnh việc phát triển nền
kinh tế thì xã hội đó mới thật sự ổn định. Con người có đủ khả năng để điều chỉnh các
quá trình dân số theo mong muốn của mình. Đến một lúc nào đó xã hội phải điều chỉnh
mức sinh đẻ của con người.
1.2. Tình hình dân số trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Tình hình dân số trên thế giới
a. Quy mô dân số thế giới ngày càng lớn, tốc độ gia tăng còn nhanh
Đầu Công Nguyên, số dân trên thế giới có khoảng 270 – 300 triệu người. Lịch sử
dân số nhân loại trải qua hàng triệu năm mới xuất hiện tỉ người đầu tiên. Thời gian có
thêm 1 tỉ người ngày càng rút ngắn (từ 123 năm đến 33 năm, 13-14 năm, 12 năm). Năm
1804, dân số thế giới đạt 1 tỉ người đầu tiên. Năm 2011, dân số thế giới đạt 7 tỉ người.
Năm 2013, tăng lên 7,137 tỉ người. Dự báo đến năm 2025 sẽ đạt xấp xỉ 8 tỉ người.
Để thể hiện nhịp độ tăng dân số người ta sử dụng chỉ số: thời gian tăng dân số gấp
đôi.
Bảng 1.1. Khoảng thời gian dân số tăng gấp đôi và khoảng thời gian dân số tăng thêm 1 tỉ người
Năm
Số dân TG (tỉ người)

1804

1927

1960

1974

1987

1999


1

2

3

4

5

6

Thời gian tăng thêm 1 tỉ ng
(năm)

123

Thời giang tăng gấp đôi
(năm)

123

33

14
47

13

12


2011

2025

7
12

8
14

51

Quy mô dân số bắt đầu tăng nhanh từ đầu thế kỉ XX, nhất là từ sau năm 1950. Dân
số gia tăng ở mức kỉ lục trong vòng 65 năm qua là nhờ áp dụng các công nghệ y tế công
cộng như thuốc kháng sinh và chất dinh dưỡng, thuốc tiêu chảy và vacxin ở các xã hội có
mức sinh và mức chết cao. Do đó, mức chết, đặc biệt mức chết ở trẻ sơ sinh giảm nhanh
chóng trong khi mức sinh tuy có giảm nhưng chậm hơn nhiều, dẫn tới sự “bùng nổ dân
số”. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải thực hiện đẩy mạnh chương trình dân số - sức khỏe
sinh sản.
Hiện nay, mức gia tăng dân số trên thế giới có hơi chững lại song vẫn ở mức cao.
b. Dân số thế giới tập trung chủ yếu ở các nước đang phát triển
Sự chênh lệch trong quy mô dân số giữa các nhóm nước vẫn tiếp tục gia tăng trong
vài thập kỷ tới. 95% số dân gia tăng hàng năm trên toàn thế giới xuất phát từ các nước
đang phát triển (châu Á, châu Phi, châu Mỹ). Số dân của các nước này chiếm hơn 2/3 dân
số thế giới và sẽ đạt 4/5 vào cuối thế kỷ này.
Dân số ở các nước đang phát triển đang tăng vọt, tạo nên hiện tượng “bùng nổ dân
số”. Thực chất bùng nổ dân số là hiện tượng số dân thế giới tăng rất nhanh kể từ những
năm 50 của thế kỷ XX.
5



Sự chênh lệch rất lớn về phân bố dân số giữa hai nhóm nước là kết quả của tốc độ
phát triển kinh tế - xã hội khác nhau ngay từ thế kỷ XVIII. Mặc dù đã có chiều hướng
giảm tương đối rõ rệt trong những năm cuối của thế kỷ này, nhưng tốc độ gia tăng dân số
của các nước đang phát triển vẫn ở mức cao nên số dân ngày càng nhiều hơn so với các
nước phát triển.
Châu Á có quy mô dân số lớn nhất. Đây là nơi tập trung nhiều quốc gia đang phát
triển và đặc biệt có 2 quốc gia đông dân nhất trên thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ. Số dân
châu Phi tăng nhanh và liên tục.
1.2.2. Tình hình dân số ở Việt Nam
a. Dân số nước ta đông
Dân số trung bình năm 2014 của cả nước ước tính 90,73 triệu người, tăng 1,08% so
với năm 2013 (90 triệu người), đứng hàng thứ 3 ở Đông Nam Á (ĐNA) và hàng thứ 14
thế giới.
 Ảnh hưởng:
- Thuận lợi: Với dân số đông, nước ta có nguồn lao động dồi dào, đồng thời đây là
thị trường tiêu thụ rộng lớn.
- Khó khăn: Trong điều kiện của nước ta hiện nay, dân số đông lại là trở ngại cho
việc phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân.
b. Dân số tăng nhanh và cơ cấu dân số trẻ
* Dân số còn tăng nhanh
- Dân số nước ta tăng nhanh, đặc biệt là vào nửa cuối thế kỷ 20, đã dẫn đến hiện
tượng bùng nổ dân số.
- Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm (Ví dụ: giai đoạn 1979 - 1989 tỉ lệ gia tăng dân
số trung bình là 2,1%, đến giai đoạn 2002 - 2005 là 1,32%, năm 2013 giảm xuống còn
0,99%, năm 2014 là 1%) nhưng mỗi năm dân số nước ta vẫn tăng thêm hơn 1 triệu người.
 Hậu quả của việc gia tăng dân số nhanh: Dân số tăng nhanh gây sức ép rất lớn đối với
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi
trường và việc nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.

* Cơ cấu dân số trẻ
- Dân số nước ta thuộc loại trẻ, đang có sự biến đổi nhanh chóng về cơ cấu dân số
theo nhóm tuổi. Cơ cấu dân số năm 2014: từ 0 – 14 tuổi (24,3%), từ 15 – 64 (70,1%), trên
65 tuổi (5,6%).
- Lực lượng lao động nước ta dồi dào chiếm 60% dân số (Lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2014 ước tính 53,0 triệu người), mỗi năm tăng
thêm khoảng 1,15 triệu người gây khó khăn cho việc sắp xếp việc làm.
c. Phân bố dân cư chưa hợp lý
Mật độ dân số trung bình là 271 người/km2 (năm 2013) nhưng phân bố chưa hợp lý
giữa các vùng.
* Giữa đồng bằng với trung du miền núi

6


Dân cư tập trung dày đặc ở vùng đồng bằng. Khoảng 75% dân cư cả nước cư trú ở
vùng đồng bằng phì nhiêu của các con sông lớn và vùng ven biển. Đồng bằng sông Hồng
là nơi có mật độ dân số cao nhất cả nước với 971 người/km2.
Trong khi đó, dân cư thưa thớt ở trung du miền núi với 25% dân số. Vùng núi và
cao nguyên chiếm ¾ diện tích nhưng dân cư chưa tới ¼ số dân cả nước. Rõ ràng, mật độ
dân số ở đây thấp, thấp nhất cả nước là vùng Tây Bắc với 89 người/km2.
* Giữa thành thị với nông thôn
Dân cư nước ta phân bố không đồng đều và chưa hợp lý giữa thành thị và nông
thôn, bao gồm dân số thành thị 30,04 triệu người, chiếm 33,1%; dân số nông thôn 60,69
triệu người, chiếm 66,9%; dân số nam 44,76 triệu người, chiếm 49,33%; dân số nữ 45,97
triệu người chiếm 50,67%.
 Nguyên nhân dẫn đến sự phân bố dân cư không đều như trên là do tác động của
nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội như: lịch sử định cư, điều kiện tự nhiên, trình độ
phát triển kinh tế - xã hội…
 Hậu quả: Sự phân bố dân cư không hợp lý sẽ gây khó khăn cho việc sử dụng lao

động và khai thác tài nguyên. Ví dụ: miền núi giàu tài nguyên thiếu lao động, đồng bằng
đất chật, người đông thừa lao động.
1.3. Các động lực gia tăng dân số
1.3.1. Quy mô dân số
Quy mô dân số là tổng số dân sinh sống trên một lãnh thổ tại thời điểm nhất định.
Dân số trung bình được tính theo công thức:
P

P P
0

1

2

Trong đó, P: dân số trung bình năm
P0: dân số đầu năm
P1: dân số cuối năm
1.3.2. Các tỉ suất sinh
Tỉ suất sinh chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: tình trạng sức khoẻ, tâm lý xã hội,
phong tục tập quán, hoàn cảnh KTXH, chính sách dân số của từng quốc gia.
a. Tỉ suất sinh thô (CBR – Crude Birth Rate):
Tỉ suất thô là tỉ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm so với 1000 người dân trong
cùng thời gian đó.
Công thức tính tỉ suất sinh thô : CBR =

B
x1000
P(1 / 7)


Trong đó :
+ B là số trẻ em sinh ra trong năm.
+ P1/7 là số dân trung bình năm của một nước hoặc một địa phương nào đó
b. Tỉ suất sinh chung (GFR – General Fertility Rate):
Tỉ suất sinh chung là tỉ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm so với 1.000 phụ nữ ở độ
tuổi có khả năng sinh đẻ trong cùng năm đó.
7


Công thức tính tỉ suất sinh chung : GFR =

B
x 1.000
W (15  49)

Trong đó :
+ B là số trẻ em sinh ra trong năm còn sống
+ W(15 – 49) là số phụ nữ trung bình ở độ tuổi sinh đẻ (15 – 49 tuổi).
c. Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFR – Age Specific Fertility Rate):
Tỉ suất này được tính bằng tỉ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm và số phụ nữ theo
từng nhóm tuổi tương ứng.
Nếu chọn khoảng cách giữa hai nhóm tuổi liên tiếp nhau là 5 năm thì có thể chia độ
tuổi có khả năng sinh đẻ của phụ nữ ra thành các nhóm sau: 15 – 19; 20 – 24; 25 – 29; 30
– 34; 35 – 39; 40 – 44; 45 – 49 (có 7 nhóm tuổi).
Công thức tính tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi :
ASFRx =

Bx
x 1.000
Wx


Trong đó :
+ Wx là số phụ nữ thuộc nhóm tuổi x
+ Bx là số trẻ em sinh trong năm còn sống của những bà mẹ thuộc nhóm tuổi x.
d. Tổng tỉ suất sinh (TFR – Total Fertility Rate):
Tổng tỉ suất sinh là tổng của các tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi tính cho từng nhóm
tuổi trong độ tuổi sinh đẻ của phụ nữ. Về bản chất, tổng tỉ suất sinh là số con trung bình sinh
ra còn sống của một người phụ nữ trong suốt cuộc đời mình.
Công thức tính tổng tỉ suất sinh :
49

TFR = n.x

ASFR
x 15

1.000

7

 ASFR

 n.x a1
1.000

Trong đó : n là số năm của từng nhóm tuổi (n = 5 năm)
Nếu khoảng cách của nhóm tuổi là 5 (15 – 19; 20 – 24; 25 – 29,..., 45 – 49).
7

Thì


TFR = 5x

ASFR
a 1

1.000

Tổng tỉ suất sinh thể hiện được sự phân hoá mức sinh ở từng lứa tuổi, không phụ
thuộc vào mức tử vong và những thay đổi về lứa tuổi. Nếu tính theo khoảng cách giữa
các nhóm tuổi là 1 (15, 16, 17..., 49) thì tỉ suất chỉ phụ thuộc vào mức độ hôn nhân.
Người ta quy ước các mức tổng tỉ suất sinh như sau :
+ TFR < 2,15
: mức sinh thấp
+ TFR từ 2,15 đến 4,1
: mức sinh trung bình
+ TFR trên 4,1
: mức sinh cao
1.3.3. Các tỉ suất tử
a. Tỉ suất tử thô (CDR – Crude Death Rate):
Tỉ suất tử thô là tỉ số giữa số người chết trong cả năm so với 1.000 người dân trong
cùng năm đó.
8


Công thức tính tỉ suất tử thô : CDR =

D
x 1.000
P(1 / 7 )


Trong đó :
+ D là số người chết trong năm
+ P(1/7) là số dân trung bình năm.
Người ta quy nước các mức tỉ suất tử thô như sau :
+ CDR < 110/00
: mức tử thấp
+ CDR từ 11 đến 140/00
: mức tử trung bình
0
+ CDR từ 15 đến 25 /00
: mức cao
0
+ CDR trên 25 /00
: mức tử rất cao.
Năm 2014, CDR trên toàn thế giới là 7,890/00, trong đó các nước có CDR thấp
nhất như Các tiểu vương quốc Ả Rập (1,99), Singapore (3,42), Paraguay (4,64), Oman
(3,38), Libya (3,57), Việt Nam (5,93) và các nước có CDR cao nhất như Mali (13,22),
Hungary (12,72), Hy Lạp (11), Đức (11,29).
b. Tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi (ASDR – Age Specific Death Rate):
Tỉ suất này thể hiện chính xác hơn mức tử vong của dân cư và được dùng để đo lường
mức tử vong cuả dân cư theo các nhóm tuổi (thông thường là 5 năm).
Công thức tính tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi :
ASDR(x/x + n) =

D( x / x  n )
P( x / x  n )

x 1.000


Trong đó :
+ D(x/x + n) là số người chết trong năm của nhóm tuổi x đến x + n.
+ P(x/x + n) là số dân trung bình năm của nhóm tuổi x đến x + n.
Thông thường tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi được tính riêng cho từng giới (nam, nữ).
Nếu sử dụng khoảng cách giữa các nhóm tuổi là 5 thì thường nhóm tuổi đầu tiên là
từ 0 – 4 tuổi được tính thành hai phân nhóm: dưới 1 tuổi và từ 1 đến 4 tuổi. Việc phân
chia như vậy sẽ hợp lý hơn vì số trẻ em dưới 1 tuổi có mức tử vong rất cao.
c. Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (IMR – Inafanl Mortality Rate)
Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi (tỉ suất chết 0 tuổi hay còn gọi là tỉ suất tử vong
của trẻ sơ sinh) là tỉ số giữa số trẻ em sinh ra bị chết dưới một tuổi trong năm so với
1.000 trẻ em sinh ra còn sống trong cùng năm đó.
Công thức tính tỉ suất tử vong trẻ em : IMR =

Do
x1.000
B

Trong đó :
+ B0 là số trẻ em sinh ra bị chết dưới 1 tuổi trong năm.
+ B là số trẻ em sinh ra còn sống trong năm.
Tỷ suất này phản ánh trình độ, khả năng chăm sóc, nuôi dưỡng, sức khoẻ của trẻ em
một nước. Xu hướng hiện nay trên thế giới là tỉ suất tử vong trẻ em ngày càng giảm dần. Tuy
nhiên, tỉ suất này vẫn còn chênh lệch khá lớn giữa các nước đang phát triển và nước phát
triển, giữa các châu lục và khu vực trên thế giới.
d. Tỉ suất tử vong người mẹ khi sinh (MMR – Maternal Mortality Rate):
9


Tỉ suất tử vong của người mẹ khi sinh là tỉ số giữa số người mẹ bị tử vong khi sinh
trong năm so với 1.000 đứa trẻ em sinh ra còn sống trong cùng năm đó. Tỉ suất này phản ánh

mức độ chăm sóc và thể trạng sức khoẻ cuả người mẹ khi sinh.
Công thức tính : MMR =

WD
x 1.000
B

Trong đó :

+ WD là số người mẹ chết khi sinh
+ B là số trẻ em sinh ra còn sống trong năm.
e. Tuổi thọ trung bình
Là sự ước tính số năm bình quân của một người sinh ra có thể sống được. Tuổi thọ
trung bình không tính tới những trường hợp chết không bình thường (chết do tai nạn, chết
do chiến tranh...). Tuổi thọ trung bình là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng sống
của dân cư và đồng thời phản ánh được nhiều khía cạnh khác về KTXH của một quốc
gia, một địa phương.
Tuổi thọ trung bình của dân cư chịu ảnh hưởng chủ yếu vào các điều kiện: điều kiện
sống, các điều kiện chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ, vào tỉ suất tử vong của trẻ em nhất là tỉ
suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi (trẻ sơ sinh).
Báo cáo của Liên Hợp Quốc cho thấy, tuổi thọ trung bình của thế giới đã tăng từ 46,9
tuổi giai đoạn 1950-1955 lên 70 tuổi giai đoạn 2010-2015. Tuổi thọ trung bình của các
nước phát triển năm 2013 là 77,7 tuổi, các nước đang phát triển là 68,3 tuổi.
1.3.4. Tỉ suất gia tăng tự nhiên
a. Khái niệm gia tăng dân số tự nhiên
Dân số của một lãnh thổ trong từng thời kỳ tăng hay giảm là kết quả của mối tương
quan giữa số sinh và số tử. Sự tăng, giảm dân số như vậy gọi là gia tăng dân số tự nhiên
(gia tăng tự nhiên). Gia tăng dân số tự nhiên, ở mức độ lớn quyết định tình hình dân số
của một lãnh thổ.
b. Các loại tỉ suất tăng tự nhiên :

* Tỉ suất tăng tự nhiên tại một thời điểm (NIR – Natural Increase Rate):
Khi tính toán tỉ suất gia tăng tự nhiên, người ta thường dùng đơn vị tính là phần
trăm (%).
NIR =

BD
CBR  CDR
x 100 =
P(1 / 7 )
10

Trong đó :

+ B là số trẻ em sinh ra trong năm
+ D là số người chết trong năm
+ P(1/7) là số dân trung bình năm
* Tỉ suất tăng tự nhiên giữa hai thời điểm :
Tỉ suất này thường được dùng để tính tốc độ gia tăng dân số trung bình năm của
một thời kỳ.
r=
Trong đó :

P2  P1
 100
(t2  t1 )  P1

+ P1 là số dân ở thời điểm t1
10



+ P2 là số dân ở thời điểm t2
+ t1, t2 là các mốc thời gian của năm đầu và năm cuối của thời kỳ.
+ r là tỉ suất tăng dân số trung bình năm.
1.3.5. Tỉ suất gia tăng cơ học
a. Khái niệm
Gia tăng cơ học chính là sự chênh lệch giữa số người xuất cư và số người nhập cư.
Khi đề cập đến gia tăng cơ học tức là nói đến quá trình di cư (di dân).
b. Các thước đo mức di cư chính
Quá trình di cư gồm có 2 bộ phận: nhập cư và xuất cư.
- Tỉ suất nhập cư (IMR – Immigration Rate) (0/00)
I
x 1.000
P

IMR =

Trong đó: I là số người nhập cư; P là tổng số dân nơi đến
- Tỉ suất xuất cư (EMR – Emigration Rate)
EMR =

E
x 1.000
P

Trong đó: E là số người xuất cư; P là tổng số dân nơi đi
- Tỉ suất di cư thực (NMR – Net Migration Rate)
NMR =

I E
x 1.000

P

Trong đó: I là số người nhập cư; E là số người xuất cư; P là tổng số dân
c. Ý nghĩa của di cư
Quá trình di cư làm thay đổi quy mô dân số, phá vỡ kết cấu dân số theo tuổi, giới và
kết cấu xã hội của dân số; đồng thời tác động đến mức sinh và mức tử cả nơi đi và nơi
đến.
c. Phân loại
Có rất nhiều tiêu chí để phân loại:
- Theo phạm vi lãnh thô: trong nước và quốc tế.
Chuyển cư trong nước bao gồm nội vùng và ngoại vùng.
- Theo hình thức tổ chức: có tổ chức và tự do.
d. Các nhân tố ảnh hưởng
- Tự nhiên: địa hình, đất đai, nguồn nước…
- Kinh tế - xã hội: đóng vai trò to lớn có ý nghĩa quyết định tới cường độ và quy
mô di cư.
1.4. Phân bố dân cư
1.4.1. Khái niệm và thước đo
Phân bố dân cư là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một lảnh
thổ phù hợp với điều kiện sống của họ và các yêu cầu nhất định của xã hội.
11


Mật độ dân số tự nhiên (hay thô) là chỉ số thường được sự dụng rộng rãi nhất để
xác định mức độ tập trung dân chủ yếu sinh sống trên một lãnh thổ và được tính bằng
tương quan giữa số dân trên một đơn vị diện tích ứng với số dân đó. Mật độ dân số tự
nhiên được tính theo công thức sau:
P
D=
Q

Trong đó, P là số dân thường trú của lãnh thổ; Q là diện tích lãnh thổ (không kể
các hồ nước lớn trong nội địa); D là mật độ dân số được tính theo đơn vị người/km2.
Mật độ dân số càng lớn thì mức độ tập trung dân càng cao và ngược lại. Năm
2014, mật độ dân số trung bình của thế giới là 53 người/km2.
1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư
Theo quan điểm mác xít, sự phân bố dân cư là kết quả tác động tổng hợp của hàng
loạt các nhân tố tự nhiên, dân cư, KTXH, lịch sử; trong đó nổi lên hàng đầu là nhân tố
KTXH.
a. Nhân tố tự nhiên
Sự phân bố dân cư diễn ra trong hoàn cảnh tự nhiên, chịu ảnh hưởng của tự nhiên
đến một mức độ nhất định.
Điều kiện tự nhiên tác động đến sự phân bố dân cư có thể được xem xét ít nhất dưới
hai góc độ. Dưới góc độ cá nhân, nhân tố tự nhiên, trước hết là khí hậu tác động đến sinh
lí của con người và từ đó ảnh hưởng tới tình hình phân bố dân cư trên thế giới. Về mặt
sinh lí, sống trong kiểu khí hậu nào, con người thích nghi với khí hậu ấy. Nếu chuyển
sang khí hậu khác lại phải có quá trình thích ứng. Dưới góc độ kinh tế, nơi nào có điều
kiện tự nhiên thuận lợi, các hoạt động sản xuất có điều kiện phát triển hơn, nơi đó dân cư
thường đông đúc.
* Khí hậu
Nhân tố tự nhiên có ảnh hưởng rõ nét nhất đến sự phân bố dân cư là khí hậu. Nói
chung, khí hậu ấm áp thường thu hút đông dân cư, còn khí hậu khắc nghiệt (nóng quá,
lạnh quá, khô quá hay ẩm quá) ít hấp dẫn con người.
Trong thực tế, nhân loại tập trung đông nhất ở khu vực ôn đới, sau đó đến khu vực
nhiệt đới. Dân cư ở vùng khí hậu nóng ẩm trù mật hơn ở vùng khô hạn.
* Nước
Có thể nói, ở đâu có nước thì ở đó có người sinh sống. Không phải ngẫu nhiên, các
nền văn minh đầu tiên của nhân loại đều phát sinh từ những lưu vực sông lớn như
Babilon ở Lưỡng Hà (sông Tigơrơ và Ơphorát), Ai Cập ở lưu vực sông Nin, Ấn Độ ở lưu
vực sông Ấn- Hằng...
Bên cạnh lưu vực sông Nin dân cư đông đúc là hoang mạc Xahara vắng bóng

người. Thậm chí bên trong các hoang mạc dân cư chỉ tập trung quanh các ốc đảo, nơi có
nguồn nước xuất hiện.
* Địa hình và đất đai

12


Địa hình và đất đai cũng là nhân tố ảnh hưởng đến sự phân bố dân cư. Những châu
thổ màu mỡ của các con sông lớn như Ấn- Hằng, Trường Giang, Mê Công... là những
vùng đông dân vào loại nhất thế giới. Những vùng đất đai khô cằn ở các hoang mạc và
thảo nguyên khô như Xahara, Namip, Calahari, Patagôni... rất ít dân cư.
* Ngoài các nhân tố trên, nguồn tài nguyên khoáng sản cũng có ý nghĩa nhất định
trong việc phân bố dân cư. Những mỏ lớn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với con người.
b. Nhân tố kinh tế- xã hội, lịch sử
Các nhân tố tự nhiên ít nhiều tác động tới sự phân bố dân cư được thể hiện ở chỗ
hoặc là tạo điều kiện thuận lợi hoặc là gây trở ngại cho sự cư trú của con người. Tuy
nhiên, nếu chỉ căn cứ vào các nhân tố tự nhiên thì không thể cắt nghĩa nổi sự phân bố rất
đa dạng của nhân loại. Trên thế giới có nhiều vùng điều kiện địa lí gần tương tự nhau
nhưng mức độ cư trú lại rất khác nhau. Cùng là vùng nhiệt đới, dân cư nói chung đông
đúc, nhưng đồng bằng Amazôn và lòng chảo Công gô chủ yếu vẫn là rừng hoang.
* Trình độ phát triển lực lượng sản xuất
Trong xã hội nguyên thuỷ, con người sinh sống bằng săn bắt, hái lượm nay đây mai
đó. Để phục vụ cho cuộc sống của một thị tộc cần phải có những diện tích đất đai rộng
lớn. Việc tập trung số dân lớn trên một diện tích nhỏ chỉ có thể có được khi nền nông
nghiệp định canh ra đời. Thành phố đã mọc lên từ lâu đời dưới thời nô lệ, nhưng thật sự
trở thành trung tâm thu hút dân cư từ lúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa bắt đầu nở rộ.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, bộ mặt phân bố dân cư trên địa cầu dần
dần thay đổi. Ngày nay, nhiều trung tâm dân cư lớn đã mọc lên ở cả vùng quanh năm
băng giá, ở các vùng núi cao ba bốn ngàn một, ở cả vùng hoang mạc nóng bỏng và thậm
chí vươn ra cả ngoài biển.

* Tính chất của nền kinh tế
Sự phân bố dân cư phụ thuộc chặt chẽ vào tính chất của nền kinh tế. Nói chung,
những khu vực dân cư đông đúc thường gắn với các hoạt động công nghiệp hơn so với
nông nghiệp. Trong khu công nghiệp, mật độ dân số cao thấp khác nhau tuỳ theo tính
chất của từng ngành sản xuất. Trong điều kiện hiện nay, nhờ điện khí hoá, tự động hoá và
liên hiệp hoá, nhiều khu công nghiệp lớn ra đời với mật độ dân số không quá cao. Kỹ
thuật càng tiên tiến, mức độ tập trung dân cư trong các khu công nghiệp có chiều hướng
càng giảm.
Trên thế giới có nhiều khu vực nông nghiệp đông dân. Cùng là hoạt động nông
nghiệp nhưng vẫn có nơi đông dân, nơi thưa dân. Điều này có thể phải cắt nghĩa bằng cơ
cấu cây trồng. Việc canh tác lúa nước đòi hỏi rất nhiều lao động. Vì vậy những vùng
trồng lúa nước đồng thời là vùng dân cư trù mật nhất thế giới. Ngược lại, các vùng trồng
lúa mì, ngô dân cư không đông lắm một phần là do việc trồng các loại cây này không cần
nhiều nhân lực.
* Lịch sử khai thác lãnh thổ
Việc giải thích sự phân bố dân cư đôi khi phải nhờ đến nhân tố lịch sử khai thác
lãnh thổ. Nói chung, những khu vực khai thác lâu đời như các đồng bằng ở Đông Nam Á,
Tây Âu có dân cư đông đúc hơn những khu vực mới khai thác như ở Úc, Canađa. Ở Nga,
khoảng một nửa dân số tập trung ở phía tây sông Vonga mà lãnh thổ chỉ chiếm diện tích
13


rất nhỏ so với diện tích toàn quốc cũng được lí giải bằng lịch sử khai thác lãnh thổ.
Tương tự như vậy là miền Đông Bắc Trung Quốc rất màu mỡ thưa dân so với miền
Trung và miền Nam đông dân. Ở Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ có lịch sử khai thác lâu
đời, dân cư trù mật nhất cả nước, trong khi đó đồng bằng châu thổ sông Cửu Long phì
nhiêu nhưng mật độ dân cư lại thấp hơn.
* Chuyển cư
Các dòng chuyển cư ít nhiều tác động tới bức tranh phân bố dân cư thế giới. Vào
khoảng giữa thế kỉ XVII, dân số Bắc Mỹ mới có 1 triệu, châu Mỹ Latinh 12 triệu, châu

Đại Dương 2 triệu, nghĩa là mới chỉ chiếm chưa đầy 0,2%; 2,3% và 0,4% dân số thế giới.
Ngày nay, sau hơn 3 thế kỉ, số dân của các lục địa ấy tăng lên hàng chục, hàng trăm lần.
Đó là kết quả của những cuộc chuyển cư khổng lồ từ châu Âu và châu Phi tới.
Sự phân bố dân cư mang tính qui luật, song rõ ràng vô cùng phức tạp. Các nhân tố
tự nhiên, kinh tế- xã hội, lịch sử... tác động tới sự phân bố dân cư không phải riêng lẽ, rời
rạc. Sự tác động của các nhân tố có tính tổng hợp trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ giữa
chúng với nhau, trong đó nổi lên hàng đầu là nhân tố kinh tế - xã hội.
1.4.3. Đặc điểm phân bố dân cư trên thế giới
Tổng diện tích Trái Đất là 510 triệu km2, trong đó các đại dương chiếm tới ¾ diện
tích. Phần lớn đất đai còn lại gồm có lục địa và đảo mà con người có khả năng cư trú
được (trừ châu Nam Cực). Số dân trên thế giới ngày càng đông. Khi phân tích sự phân bố
dân cư trên thế giới, có thể rút ra hai đặc điểm chính:
- Sự biến động phân bố dân cư theo thời gian
Tính từ năm 1750 đến những năm 90 của thế kỷ XX, sự phân bố dân cư trên thế giới
có nhiều thay đổi:
+ Châu Á có số dân đông nhất, chiếm tỉ trọng cao nhất và trong những năm gần đây
ít thay đổi do đây là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, có tốc độ gia
tăng dân số tự nhiên cao và ít chịu ảnh hưởng của các di cư liên lục địa.
+ Châu Âu bắt đầu xảy ra sự quá độ dân số, tỉ suất tử vong giảm, dân số tăng nhanh
và cũng bắt đầu những cuộc di cư lớn sang châu Mỹ. Đến năm 1900, dân số châu Âu đã
tăng lên đến gần 25%. Lúc này, Bắc Mỹ là 5%, châu Á 57,4% và châu Phi 8,1%. Nhưng
từ thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới II dân số châu Á, Phi và Mỹ Latinh tăng
nhanh, trong khi đó châu Âu mức sinh bắt đầu giảm và ở mức thấp.
+ Châu Phi biến động nhanh nhất, và có thời gian giảm mạnh do buôn bán nô lệ từ
châu Phi sang châu Mỹ.
+ Châu Mỹ có xu hướng tăng lên đáng kể nhờ các dòng nhập cư từ châu Phi, châu
Âu.
+ Châu đại dương chiếm tỉ trọng thấp nhất và đang có xu hướng tăng lên ít nhiều
sau khi có dòng nhập cư từ châu Âu.
Trong vòng 95 năm (1990 – 1995), dân số châu Á tăng lên và chiếm 60,4%, châu

Phi cũng tăng lên 13%, châu Mỹ từ 4,5% lên 8,5%, còn châu Âu giảm xuống còn 13%
dân số thế giới.
14


- Sự phân bố dân cư trên thế giới không đồng đều theo không gian.
+ Sự phân bố dân cư không đồng đều theo các đới khí hậu, các miền khí hậu.
Khu vực ôn đới chiếm 58% dân số thế giới, khu vực nhiệt đới 40% dân số thế giới
và khu vực hàn đới chỉ chiếm 2% dân số thế giới.
Những vùng tập trung dân cư cao độ như vùng đồng bằng châu Á gió mùa được
khai thác từ lâu đời, đất đai màu mỡ với lúa gạo là cây trồng chính. Tây Âu có khí hậu ôn
hòa cũng là khu vực đông dân được khai thác từ lâu. Ngược lại những vùng băng giá,
đồng rêu ven Bắc Băng Dương hay những hoang mạc rộng mênh mông ở châu Phi và
châu Úc, những vùng núi cao hầu như không có người cư trú.
+ Sự phân bố dân cư không đồng đều theo độ cao địa hình. Ở độ cao dưới 500m so
với mực nước biển chiếm 50% diện tích nhưng chiếm 82% dân số còn độ cao trên 500m
cũng chiếm 50% diện tích nhưng chỉ chiếm 18% dân số thế giới.
+ Tương quan giữa biển và đại dương: dải đất rộng 200km tính từ bờ biển trở vào
chiếm 16% diện tích lục địa nhưng tập trung 50% dân số thế giới.
+ Theo lịch sử khai thác lãnh thổ, dân cư tập trung đông ở những vùng có lịch sử
khai thác lãnh thổ lâu đời như châu Á, châu Âu, châu Phi tập trung >85% dân số.
- Bản đồ phân bố dân cư trên thế giới
+ Khu vực dân cư tập trung đông (Nam Á và Đông Nam Á, Đông Á, Bắc Phi, 2 bên
bờ Bắc Đại Tây Dương, duyên hải phía Đông và Tây Phi).
+ Khu vực dân cư tập trung thưa thớt (Trung Á, Bắc Phi, Bắc Canada, trung tâm lục
địa Úc, ven bờ Bắc Băng Dương, trung tâm lục địa Nam Mỹ).
1.5. Dân số và phát triển
Con người vừa là người trực tiếp lao động sản xuất ra của cải vật chất vừa là người
tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ sản xuất ra.
* Quy mô dân số, chất lượng dân cư có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh

tế ở các nhóm nước:
- Nhóm nước kinh tế phát triển: dân số giảm nên có những vấn đề khó khăn về lao
động và vấn đề già hóa dân số.
- Nhóm nước kinh tế đang phát triển: dân số tăng làm suy giảm tài nguyên, hạn chế
tích lũy vốn, cản trở áp dụng kỹ thuật, khó khăn trong việc giải quyết việc làm và nâng
cao chất lượng lao động.
Như vậy, sự phát triển kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến tỉ lệ gia tăng dân số và chất
lượng dân cư. Kinh tế là cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng cuộc sống và góp phần
làm thay đổi về mức sinh.
* Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), nếu dân số
tăng 1%, lương thực tăng 2,5% thì thu nhập quốc dân tăng 4%.
- Nhóm nước kinh tế phát triển: tỉ lệ gia tăng dân số: 1%; tỉ lệ tăng GDP/năm: >4%.
- Nhóm nước kinh tế đang phát triển: tỉ lệ gia tăng dân số: >2%; tỉ lệ tăng
GDP/năm: 4,2%.
15


Như vậy, gia tăng dân số nhanh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ngược lại sự
phát triển kinh tế ở các nhóm nước tác động trở lại dân số.

Hình 1.1. Sơ đồ tác động của gia tăng dân số nhanh đến sự phát triển kinh tế

Hình 1.2. Sơ đồ tác động của sự phát triển kinh tế các nước phát triển đến dân số

Hình 1.2. Sơ đồ tác động của sự phát triển kinh tế các nước đang phát triển đến
dân số
16


Tóm lại, mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là mối quan hệ tái sản xuất vật chất và

tái sản xuất dân cư của một xã hội. Chúng có mối quan hệ khăng khít, tác động nhiều
chiều, trong đó tái sản xuất con người là tiền đề và điều kiện để tái sản xuất vật chất có ý
nghĩa quyết định trực tiếp sự sống là cơ sở tái sản xuất con người cả về số lượng và chất
lượng.
1.6. Các biện pháp ổn định dân số ở các nhóm nước
* Đối với nhóm nước phát triển:
- Chính sách duy trì dân số ổn định ở các nước phát triển: Đan Mạch, Thuỵ Điển,...
- Thiếu hụt nguồn lao động trẻ em bổ sung cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước.
- Những vấn đề xã hội đặt ra cho người già, tỷ lệ nhóm 65+ ngày càng tăng, do tuổi
thọ trung bình được nâng lên.
* Đối với nhóm nước đang phát triển:
- Chính sách hạn chế gia tăng dân số ở các nước đang phát triển như Trung Quốc,
Việt Nam, Ấn Độ,... tiến tới ổn định quy mô dân số.
- Phát triển kinh tế để tạo việc làm cho người lao động, khắc phục tình trạng thất
nghiệp do lực lượng lao động trẻ tăng nhanh.
- Có chính sách phân bố lại dân cư trên quy mô cả nước nhằm sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên.
Ví dụ: Nội dung Kế hoạch hoá gia đình ở Việt Nam năm 1993 trong NĐ 04NQ/HNTW:
+ Tuyên truyền, vận động và giáo dục nhân dân về dân số, khuyến khích chấp nhận
quy mô gia đình nhỏ.
+ Hướng dẫn mỗi gia đình có từ 1 - 2 con, sinh cách nhau 3 - 5 năm.

17


CHƯƠNG 2. TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
2.1. Môi trường
2.1.1. Các vấn đề chung về khoa học môi trường
a. Định nghĩa:

- Theo UNEP(1980): “Môi trường là một tập hợp các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học,
kinh tế xã hội bao quanh và tác động tới đời sống và sự phát triển của một cá thể hoặc
một cộng đồng người”
- Theo Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, 1993: “Môi trường gồm các yếu tố
tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có
ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
Như vậy, môi trường sống của sinh vật là tập hợp tất cả những điều kiện bên ngoài có
ảnh hưởng tới đời sống, sự sinh trưởng, phát triển của cơ thể. Bao gồm môi trường đất,
môi trường nước, môi trường không khí và môi trường sinh vật.
Môi trường sống của con người là cả vũ trụ, bao gồm môi trường tự nhiên, môi
trường văn hóa – xã hội và môi trường nhân tạo.
Môi trường là tập hợp tất cả các nhân tố như ánh sáng, không khí, đất, âm thanh, cảnh
quan, tài nguyên thiên nhiên, nhân tố xã hội ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, sản
xuất của con người hiện tại và tương lai.
b. Phân loại môi trường:
Căn cứ vào chức năng và tính chất, có các loại môi trường chính sau đây:
+ Môi trường tự nhiên: bao gồm các yếu tố vật lý, hóa học, sinh học, địa lý tồn tại
ngoài ý muốn của co người nhưng cũng ít nhiều chịu sự tác động của con người
Các thành phần của môi trường tự nhiên bao gồm:

Thạch quyển (lithosphere) hay còn gọi là địa quyển hay môi trường đất

Sinh quyển (biosphere) còn gọi là môi trường sinh học.

Khí quyển (atmosphere) hay môi trường không khí

Thủy quyển (hydrosphere) hay môi trường nước
+ Môi trường xã hội: là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, đó chính là
những luật lệ, chiếu lệ, cam kết, qui định, ước định ở các cấp đọ khác nhau: gia đình,
dòng họ, thôn, xã, huyện, tỉnh, quốc gia và liên hợp quốc….

+ Môi trường nhân tạo: bao gồm tất cả các yếu tố nhân tạo do con người tạo nên,
làm thành những tiện nghi trong cuộc sống: nhà ở, công sở, đường xá, công viên…
c. Các chức năng cơ bản của môi trường: đối với sinh vật nói chung và con người
nói riêng thì môi trường sống có các chức năng như sau:

Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật.

Môi trường là nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và
sản xuất của con người

Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và sản xuất

Giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật.

Môi trường có chức năng lưu trữ và cung cấp các thông tin cho con người.
18


d. Khoa học môi trường
Khoa học môi trường là ngành khoa học nghiên cứu mối quan hệ và tương tác qua
lại giữa con người và môi trường xung quanh nhằm mục đích bảo vệ môi trường sống
của con người trên trái đất.
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như sinh học, địa
học, hóa học… Tuy nhiên, các ngành khoa học đó chi quan tâm đến một phần hoặc một
thành phần của môi trường theo nghĩa hẹp mà không có một ngành khoa học nào đang có
hiện nay đủ điều kiện nghiên cứu và giải quyết mọt nhiệm vụ của công tác bảo vệ môi
trường là quản lý và bảo vệ chất lượng các thành phần môi trường sống của con người và
sinh vật trên Trái Đất.
Nhiệm vụ là tìm ra những quy luật về môi trường và vận dụng vào môi trường cụ

thể để giải thích được những hoàn cảnh cụ thể của từng môi trường, tạo cơ sở khoa học
cho những nguyên tắc, phương pháp bảo vệ môi trường, phát triển môi trường bền vững
cho hiện tại và tương lai.
Như vậy, có thể xem khoa học môi trường là ngành khoa học độc lập, được xây
dựng trên cơ sở tích hợp các kiến thức của các ngành khoa học đã có cho một đối tượng
chung là môi trường sống bao quanh con người với phương pháp và nội dung nghiên cứu
cụ thể.
2.1.2. Các thành phần cơ bản của môi trường
a. Thạch quyển
Thạch quyển là lớp vỏ cứng ngoài cùng nhất của các hành tinh có đất đá. Trên Trái
Đất, thạch quyển bao gồm lớp vỏ và tầng trên cùng nhất của lớp phủ (lớp phủ trên hoặc
thạch quyển dưới), được kết nối với lớp vỏ. Thạch quyển bị chia nhỏ ra thành các mảng
khác nhau như trên hình.
Đặc trưng phân biệt của thạch quyển không phải là thành phần của nó mà là các
thuộc tính về sự trôi dạt của nó.
Độ dày của thạch quyển dao động từ khoảng 1,6 km (1 dặm) ở các sống lưng giữa
đại dương tới khoảng 130 km (80 dặm) gần lớp vỏ đại dương cổ. Độ dày của mảng thạch
quyển lục địa là khoảng 150 km (93 dặm).
Do lớp bề mặt đang nguội đi trong hệ thống đối lưu của Trái Đất, độ dày của thạch
quyển tăng dần lên theo thời gian. Nó bị chia cắt ra thành các mảng tương đối lớn, được
gọi là các mảng kiến tạo và chúng chuyển động tương đối độc lập với nhau. Chuyển động
này của các mảng thạch quyển được miêu tả như là kiến tạo địa tầng. Có hai dạng của
thạch quyển là:

Thạch quyển/lớp vỏ đại dương.

Thạch quyển/lớp vỏ lục địa.
b. Khí quyển
Khí quyển Trái Đất là lớp các chất khí bao quanh hành tinh Trái Đất và được giữ lại
bởi lực hấp dẫn của Trái Đất.

Khí quyển Trái Đất có cấu trúc phân lớp với các tầng đặc trưng từ dưới lên trên như
sau: tầng đối lưu, tầng bình lưu, tầng trung gian, tầng điện ly.
19


- Tầng đối lưu: từ bề mặt Trái Đất tới độ cao 7-17 km, phụ thuộc theo vĩ độ (ở 2
vùng cực là 7–10 km) và các yếu tố thời tiết, nhiệt độ giảm dần theo độ cao đạt đến 50 °C. Không khí trong tầng đối lưu chuyển động theo chiều thẳng đứng và nằm ngang
rất mạnh làm cho nước thay đổi cả 3 trạng thái, gây ra hàng loạt quá trình thay đổi vật lý.
Những hiện tượng thời tiết như mưa, mưa đá, gió, tuyết, sương giá, sương mù,... đều diễn
ra ở tầng đối lưu.
- Tầng bình lưu: từ độ cao trên tầng đối lưu đến khoảng 50 km, nhiệt độ tăng theo độ
cao đạt đến 0 °C. Ở đây không khí loãng, nước và bụi rất ít, không khí chuyển động theo
chiều ngang là chính, rất ổn định.
- Tầng trung lưu: từ khoảng 50 km đến 80–85 km, nhiệt độ giảm theo độ cao đạt đến 75 °C. Phần đỉnh tầng có một ít hơi nước, thỉnh thoảng có một vài vệt mây bạc gọi
là mây dạ quang.
- Tầng điện li: từ 80–85 km đến khoảng 640 km, nhiệt độ tăng theo độ cao có thể lên
đến 2.000 °C hoặc hơn. Ôxy và nitơ ở tầng này ở trạng thái ion, vì thế gọi là tầng điện
li. Sóng vô tuyến phát ra từ một nơi nào đó trên vùng bề mặt Trái Đất phải qua sự phản
xạ của tầng điện li mới truyền đến các nơi trên thế giới. Tại đây, do bức xạ môi trường,
nhiều phản ứng hóa học xảy ra đối với ôxy, nitơ, hơi nước, CO 2...chúng bị phân tách
thành các nguyên tử và sau đó ion hóa thành các ion như NO+, O+, O2+, NO3-, NO2-...và
nhiều hạt bị ion hóa phát xạ sóng điện từ khi hấp thụ các tia mặt trời vùng tử ngoại xa.
- Tầng ngoài: từ 500–1.000 km đến 10.000 km, nhiệt độ tăng theo độ cao có thể lên
đến 2.500 °C. Đây là vùng quá độ giữa khí quyển Trái Đất với khoảng không vũ trụ. Vì
không khí ở đây rất loãng, nhiệt độ lại rất cao, một số phân tử và nguyên tử chuyển động
với tốc độ cao cố "vùng vẫy" thoát ra khỏi sự trói buộc của sức hút Trái Đất lao ra
khoảng không vũ trụ. Do đó tầng này còn gọi là tầng thoát ly. Tuy nhiêt, các nhiệt kế, nếu
có thể, lại chỉ các nhiệt độ thấp dưới 0 °C do mật độ khí là cực kỳ thấp nên sự truyền
nhiệt ở mức độ có thể đo đạc được là rất khó xảy ra.
Ranh giới giữa các tầng được gọi là ranh giới đối lưu hay đỉnh tầng đối lưu, ranh giới

bình lưu hay đỉnh tầng bình lưu và ranh giới trung lưu hay đỉnh tầng trung lưu v.v. ở tầng
này có mặt các ion O+ (<1500 km), He+(<1500), H+(>1500 km). Một phần hiđrô của Trái
Đất (khoảng vài nghìn tấn/năm) được tách ra đi vào vũ trụ đồng thời các dòng plasma do
môi trường thải ra là bụi vũ trụ (khoảng 2g/km²) cũng đi vào Trái Đất. Giới hạn trên của
đoạn khí quyển và đoạn chuyển tiếp với vũ trụ rất khó xác định, ước đoán khoảng
1.000 km. Nhiệt độ trung bình của khí quyển tại bề mặt Trái Đất là khoảng 14 °C.
c. Thủy quyển
Thủy quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh Trái Đất gồm nước ngọt,
nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thủy quyển bao gồm đại dương, biển, ao
hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết.
Nước có vai trò quan trọng đối với cơ thể sinh vật. Nước là thành phần không thể
thiếu của tất cả các tế bào sống và chiếm tới 80 – 95% khối lượng của các mô sinh
trưởng. Nước tham gia vào hầu hết các hoạt động sống của cơ thể sinh vật: là nguyên liệu
cho quá trình quang hợp, là phương tiện để vận chuyển và trao đổi khoáng trong cây, là
phương tiện để vận chuyển máu và chất dinh dưỡng ở động vật. Nước tham gia vào quá
20


trình trao đổi năng lượng, điều hòa nhiệt độ cơ thể và là môi trường sống của nhiều loài
sinh vật.
Khối lượng của thủy quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó, đại dương có khối
lượng chiếm 97,4%. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực Trái Đất chiếm 1,98%;
nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%. Ranh giới trên
của thủy quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thủy quyển
khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính
nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập nước. Thủy quyển phân bố không
đều trên bề mặt Trái Đất, ở Nam bán cầu là 80,9% và ở Bắc bán cầu là 60,7%.
Đại dương chiếm phần quan trọng của Trái Đất, gồm có Thái Bình Dương, Đại
Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc Bắc Dương. Trong các đại dương, người ta lại chia ra
các vùng biển có diện tích nhỏ hơn như biển Ban Tích, biển Bắc, biển Đông, biển Nam

Trung Hoa… Tuy nhiên, có một số biển không có liên hệ với đại dương như biển Caxpi,
biển Aran được gọi là biển hồ. Một số phần đại dương hoặc biển ăn sâu vào đất liền được
gọi là vịnh như vịnh Thái Lna hoặc vịnh Bắc Bộ.
Trên Trái Đất, vòng tuần hoàn nước là quá trình lưu chuyển của nước trong thủy
quyển. Nó bao gồm nước có dưới bề mặt Trái Đất, trong các lớp đất, đá thạch
quyển (tức nước ngầm), nước trong cơ thể động vật và thực vật (sinh quyển), nước bao
phủ trên bề mặt Trái Đất trong các dạng lỏng và rắn, cũng như nước trong khí
quyển trong dạng hơi nước, các đám mây và các dạng mưa, tuyết, mưa đá, sương.
Tài nguyên nước ở trên thế giới theo tính toán hiện nay là 1,39 tỷ km3, tập trung
trong thủy quyển 97,2% (1,35 tỷ km3), còn lại trong khí quyển và thạch quyển. 94%
lượng nước là nước mặn, còn lại là nước sông và hồ. Lượng nước trong khí quyển
khoảng 0,001%, trong sinh quyển 0,002%, trong sông suối 0,00007% tổng lượng nước
trên Trái Đất. Lượng nước ngọt con người sử dụng xuất phát từ nước mưa (lượng mưa
trên Trái Đất là 105.000 km3/năm). Lượng nước con người sử dụng trong một năm
khoảng 35.000km3, trong đó 8% cho sinh hoạt, 235 cho công nghiệp và 63% cho hoạt
động nông nghiệp.
d. Sinh quyển
Theo X.V.Kaletxnik (1970): sinh quyển là một bộ phận của vỏ hành tinh chứa đầy
vật chật sống (nghĩa là toàn bộ các cơ thể sống) và các sản phẩm do hoạt động sống của
chúng sinh ra.
* Sinh quyển bao gồm các thành phần sau đây:
- Vật chất sống: bao gồm tất cả các cơ thể sinh vật, kể cả các bào tử và các viroit
bay lơ lửng trong không gian.
- Vật chất có nguồn gốc sinh vật: than đá, dầu mỏ, khí đốt…
- Vật chất được hình thành do tác động của các cơ thể sinh vật: lớp vỏ phong hóa,
lớp phủ thổ nhưỡng, không khí trong tầng đối lưu…
* Phạm vi của sinh quyển tùy thuộc vào giới hạn phân bố của sinh vật:

21



- Giới hạn trên là nơi tiếp giáp với tầng ôzôn của khí quyển (cách mặt đất từ 25 –
30km) trong tầng bình lưu, các bào tử có thể tồn tại trong độ cao này.
- Giới hạn dưới xuống tới đáy đại dương và trong lớp vỏ phong hóa ở các lục địa.
Sinh vật phân bố không đều trong toàn bộ bề dày của sinh quyển, chúng chỉ tập
trung nhiều ở những nơi có thực vật phân bố. Như vậy, giới hạn của sinh quyển bao gồm
toàn bộ môi trường không khí tầng đối lưu, môi trường nước, môi trường đất và lớp vỏ
phong hóa của thạch quyển (có độ sâu trung bình 60m).
Sự tương tác qua lại giữa các cơ thể sống với môi trường sống của chúng có ảnh
hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của các môi trường sống: môi trường nước, môi
trường đất và môi trường không khí. Vì vậy, bảo vệ đa dạng sinh học không chỉ bảo vệ
vốn gen, mà còn bảo vệ sự cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường sống của chúng.
e. Thổ nhưỡng quyển
Thổ nhưỡng quyển là lớp vỏ chứa vật chất tơi xốp nằm ở bề mặt lục địa, nơi tiếp
xúc với khí quyển, thạch quyển, sinh quyển.
Các thành phần chính của đất là chất khoáng, nước, không khí, mùn và các loại sinh
vật từ vi sinh vật cho đến côn trùng, chân đốt…
* Đất có cấu trúc hình thái rất đặc trưng, xem xét một phẫu diện đất có thể thấy sự
phân tầng cấu trúc từ trên xuống dưới như sau:
- Tầng thảm mục và rễ cỏ được phân hủy ở mức độ khác nhau.
- Tầng mùn thường có màu thẫm hơn, tập trung các chất hữu cơ và dinh dưỡng của
đất.
- Tầng rửa trôi do một phần vật chất vị rửa trôi xuống tầng dưới.
- Tầng tích tụ chứa các chất hòa tan và hạt sét bị rửa trôi từ tầng trên.
- Tầng đá mẹ bị biến đổi ít nhiều nhưng vẫn giữ được cấu tạo của đá.
- Tầng đá gốc chưa bị phong hóa hoặc biến đổi.
Mỗi loại đất phát sinh trên mỗi loại đá, trong điều kiện thời tiết và khí hậu tương tự
nhau đều có cùng một kiểu cấu trúc phẫu diện và độ dày.
* Thành phần khoáng của đất bao gồm loại ba chính đó là khoáng vô cơ, khoáng
hữu cơ và chất hữu cơ.

- Khoáng vô cơ là các mảnh khoáng vật hoặc đá vỡ vụn đã và đang bị phân hủy
thành các khoáng vật thứ sinh.
- Khoáng hữu cơ chủ yếu là muối humat do chất hữu cơ sau khi phân hủy tạo thành.
- Chất hữu cơ là xác chết cua động thực vật đã và đang bị phân hủy bởi quần thể vi
sinh vật trong đất.
Ngoài các loại trên, nước, không khí, sinh vật và keo sét tác động tương hỗ với nhau
tạo thành một hệ thống tương tác các vòng tuần hoàn của các nguyên tố dinh dưỡng nitơ,
phôtpho…
* Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài và phức tạp, có thể chia các quá trình
hình thành đất thành ba nhóm: quá trình phong hóa, quá trình tích lũy và biến đổi chất
hữu cơ trong đất, quá trình di chuyển khoáng chất và vật liệu hữu cơ trong đất..
22


Tham gia vào sự hình thành đất có các yếu tố: đá gốc, sinh vật, chế độ khí hậu, địa
hình, thời gian. Các yếu tố trên tương tác phức tạp với nhau tạo nên sự đa dạng của các
loại đất trên bề mặt thạch quyển. Bên cạnh quá trình hình thành đất, địa hình bề mặt Trái
Đất còn chịu sự tác động phức tạp của nhiều hiện tượng tự nhiên khác như động đất, núi
lửa, nâng cao và sụt lún bề mặt, tác động của nước mưa, dòng chảy, sóng biển, gió, băng
hà và hoạt động của con người.
2.1.3. Các vấn đề môi trường trên thế giới và ở Việt Nam
Kể từ sau Hội nghị quốc tế về Môi trường con người ở Stockholm (Thuỵ Điển)
1972, Khoa học môi trường ở trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ. Trung bình hằng năm
có hơn 30 hội nghị khoa học Quốc tế liên quan đến môi trường. Hội nghị Thượng đỉnh về
môi trường và phát triển bền vững ở Rio de Janeiro (Brazil) 1992 đã thảo ra bản Hiến
chương 21 (Agenda 21), đề cập đến các hoạt động của các quốc gia về môi trường từ nay
đến thế kỷ XXI.
Gần đây nhất, Hội nghị Thượng đỉnh thế gíới về phát triển bền vững diễn ra từ
26/8 đến 4/9 2002 tại thành phố Johannesburg, Nam Phi, là hội nghị quan trọng có tầm
cở, quy mô lớn nhất từ trước đến nay với sự tham gia của hơn 100 nguyên thủ quốc gia

và khoảng 50.000 đại biểu đến từ hơn 180 nước. Hội nghị tập trung thảo luận nhiệm phát
triển, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và giải quyết 5 vấn đề chủ chốt:

Cung cấp nước sạch và xử lý nước thải

Cung cấp nguồn năng lượng mới để thay thế năng lượng từ dầu mỏ, than đá

Phòng chống các loại dịch bệnh

Phát triển sản xuất nông nghiệp, chống sa mạc hoá đất đai

Bảo vệ đa dạng sinh học và cải tạo hệ thống sinh thái
Ở Việt Nam, do nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề môi
trường, ngay sau Tuyên bố Rio, Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường năm
1993; sau đó đã hình thành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Ngày 26 tháng 8 năm 1998, Bộ Chính trị đã ban
hành Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Đặc biệt gần đây là Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15
tháng 11 năm 2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản
không thể thiếu trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”; “Bảo vệ môi trường vừa là
mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững,... Khắc phục
tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư
cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(2001 - 2010) và Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm (2001 - 2005) đã khẳng định “phát
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ và cải

23


thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên
nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của
Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của
Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành; nhiều chương
trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả
bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần
trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
2.2. Tài nguyên thiên nhiên
2.2.1. Các khái niệm chung
a. Khái niệm:
Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố tự nhiên có quan hệ trực tiếp với hoạt động
kinh tế của con người. Nói cách khác, tài nguyên thiên nhiên là các vật thể và lực lượng
tự nhiên, ở một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định được sử dụng nhằm thoả
mãn nhu cầu của xã hội như là phương tiện tồn tại của con người.
b. Tính chất:
Tài nguyên thiên nhiên có tính chất hai mặt:
- Tài nguyên thiên nhiên thuộc phạm trù KTXH và có quan hệ trực tiếp đến trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Mặt khác, chúng là các vật chất, là lực lượng tự nhiên cho nên sự phân bố và tính
chất của chúng do các quy luật tự nhiên chi phối.
Tài nguyên thiên nhiên được mở rộng hay thu hẹp phụ thuộc chặt chẽ vào trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển của xã hội, nhất là sự tiến bộ của KHKT
– CN.
c. Phân loại tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức, thông tin được con người sử dụng
để tạo ra của cải vật chất hay tạo ra giá trị sử dụng mới. Tài nguyên thiên nhiên rất phong

phú, đa dạng. Do đó, cần tiến hành phân loại chúng.
Tài nguyên thiên nhiên được chia thành:
Tài nguyên vĩnh cữu: loại tài nguyên có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến năng
lượng mặt trời. Có thể phân ra:
- Năng lượng trực tiếp: là nguồn năng lượng chiếu sáng trực tiếp, giá trị định lượng có
thể tính được.
- Năng lượng gián tiếp: là những dạng năng lượng gián tiếp của bức xạ mặt trời bao
gồm: gió, sóng biển, thuỷ triều,...
Tài nguyên tái tạo: loại tài nguyên có thể tự duy trì, tự bổ sung liên tục khi được quản
lý hợp lý. Ví dụ: tài nguyên sinh vật (động thực vật), tài nguyên nước, đất. Tuy nhiên,
nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên tái tạo có thể bị suy thoái không thể tái tạo được.
Ví dụ: tài nguyên nước có thể bị ô nhiễm, tài nguyên đất có thể bị mặn hóa, bạc màu, xói
mòn…
24


Tài nguyên không tái tạo: là dạng tài nguyên bị biến đổi hay mất đi sau quá trình sử
dụng. Ví dụ: tài nguyên khoáng sản có thể cạn kiệt sau khi khai thác, tài nguyên di truyền
(gen) có thể mất đi cùng với sự tiêu diệt của các loài sinh vật quý hiếm.
Theo bản chất tự nhiên, tài nguyên được phân loại: tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển,....
2.2.2. Các loại tài nguyên thiên nhiên
a. Tài nguyên khoáng sản và vấn đề sử dụng
Tài nguyên khoáng sản là những nhiên liệu tự nhiên nằm trong lòng đất và chủ yếu
phục vụ cho sản xuất công nghiệp.
* Phân loại:
Người ta chia khoáng sản thành hai nhóm chính:
- Khoáng sản kim loại, với các quặng kim loại thông thường có trữ lượng lớn như:
sắt (Fe), nhôm (AL), mangan (Mn), magie (mg), đồng (cu), chì (Pb), kẽm (Zn)... và các
kim loại quý với trữ lượng nhỏ và phân tán như: vàng (Au), bạc (Ag), bạch kim (Pt), thuỷ

ngân (Hg)... kim loại hiếm (La, Ce...)
- Khoáng sản phi kim loại, với các quặng như: photphat, sunphat, natri, kali... các
nguyên liệu khoáng như: cát, sỏi, đá vôi... và các nhiên liệu như: than đá, dầu mỏ, khí
đốt...
* Các vấn đề môi trường phát sinh do khai thác và sử dụng khoáng sản thể hiện
trong các hoạt động cụ thể sau:
- Khai thác khoáng sản làm mất đất, mất rừng, ô nhiễm nước, ô nhiễm bụi, khí độc,
lãng phí tài nguyên.
- Vận chuyển, chế biến khoáng sản gây ô nhiễm bụi, khí, nước và chất thải rắn.
- Sử dụng khoáng sản gây ra ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước, chất thải rắn.
* Khai thác tài nguyên khoáng sản đang tạo ra các nguy cơ đối với con người:
- Trữ lượng hạn chế, đang cạn kiệt trong tương lai.
- Khai thác khoáng sản tàn phá môi trường.
- Sử dụng khoáng sản gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước.
* Các hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường trong khai thác và sử dụng
khoáng sản ở Việt Nam:
- Hạn chế tổn thất tài nguyên và tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình
thăm dò, khai thác, chế biến.
- Điều tra chi tiết, quy hoạch khai thác và chế biến khoáng sản, không xuất thô các
loại nguyên liệu khoáng, tăng cường tinh chế và tuyển luyện khoáng sản.
- Đầu tư kinh phí xử lý chất ô nhiễm phát sinh trong quá trình khai thác và sử dụng
khoáng sản như xử lý chống bụi, chống độc, xử lý nước thải, quy hoạch xây dựng các bãi
thải.
b. Tài nguyên đất và vấn đề sử dụng
Đất là nguồn tài nguyên cơ bản của mỗi quốc gia. Đất là đối tượng và là tư liệu sản
xuất của nông, lâm nghiệp và nhiều hoạt động khác.
Tài nguyên đất trên thế giới
25



×