Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu việt nam trong 3 năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.58 KB, 62 trang )

- 1-

MỞ ĐẦU
Thị trường trái phiếu là kênh dẫn vốn rất quan trọng đối với nền kinh tế. Ở các
nước phát triển, vay vốn ngân hàng chỉ là kênh huy động vốn ngắn hạn còn kênh huy
động vốn từ các nhà đầu tư, Quỹ đầu tư thông qua phát hành cổ phiếu, và trái phiếu
mới là kênh huy động vốn dài hạn. Ngược lại, ở VN, kênh huy động vốn này gần như
chưa phát triển. Đó là do nhiều nguyên nhân: Hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi nhà
đầu tư, sức khỏe của doanh nghiệp, sự minh bạch của thị trường, tính thanh khoản…
Đối với năm 2013, kinh tế vĩ mô vẫn còn bất ổn, kinh tế chưa có dấu hiệu phục hồi
vững chắc, mối nguy lạm phát quay trở lại vẫn còn treo lơ lửng nên các nhà đầu tư sẽ
rất thận trọng. Tình hình thị trường trái phiếu sẽ không khác biệt nhiều so với năm
2012. Đó là trái phiếu Chính phủ (TPCP) hoặc Trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh thì
phát hành thành công, trong khi các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong
việc huy động vốn. Có một nguyên tắc kinh tế, là khi kinh tế càng khó khăn thì nhà đầu
tư sẽ càng tìm đến với các kênh đấu tư an toàn nhất. Ở VN đó chính là TPCP. Do vậy ở
VN, nếu không phải các doanh nghiệp thực sự lớn, tiềm lực đủ mạnh, đã tạo được lòng
tin đối với giới đầu tư như: HAG, Masan, Vincom… thì việc huy động vốn qua kênh
trái phiếu vẫn gặp khó khăn.
Có một nghịch lí đó là hiện nay đối với thị trường chứng khoán Việt Nam thì trái
phiếu vẫn còn đang là hàng hóa “ế ẩm”, hay có sức hút chưa cao đối với các nhà đầu
tư, trong khi đó, đối với các nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán nước ngoài thì trái
phiếu Việt Nam đang là món hàng “béo bở”.
Nghiên cứu tìm hiểu một số nội dung cơ bản về trái phiếu, thực trạng hình thành,
hoạt động của thị trường trái phiếu trong những năm gần đây để góp phần thúc đẩy và


- 2 --

phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam là mục đích chính để chọn và nghiên cứu đề
tài này.



Chương 1: Tổng quan về thị trường trái phiếu


- 3 --

Khái quát chung về trái phiếu
Định nghĩa
1.1.

1.1.1.

Trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của chính phủ hoặc của công ty thể hiện nghĩa vụ
cảu người phát hành phải trả nợ cho người nắm giữ trái phiếu một số tiền nhất định,
vào những khoảng thời gian nhất định và phải trả lại khoản tiền gốc khi khoản tiền vay
đến hạn.
Trái phiếu còn được gọi là chứng khoán nợ trung và dài hạn.
1.1.2. Đặc điểm và giá trị trái phiếu
1.1.2.1.
Đặc điểm
Chủ thể phát hành: công ty, chính phủ và chính quyền địa phương.
- Người mua trái phiếu là người cho chủ thể phát hành vay tiền thường

gọi là

-

trái chủ, là chủ thể của chủ nợ phát hành trái phiếu.
Thu nhập của trái phiếu là tiền lãi, khoản thu cố định không phụ thuộc vào


-

tình hình sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy nếu công ty bị giải thể hay phá sản thì
trước tiên công ty phải có nghĩa vụ thanh toán cho các trái chủ, sau đó mới

1.1.2.2.
-

phân chia cho cac cổ đông.
Thông tin tài chính trên trái phiếu
Mệnh giá trái phiếu (hay còn gọi là giá trị danh nghĩa):

Là giá trị được ghi trên trái phiếu, giá trị này được coi là số vốn gốc đầu tư. Mệnh
giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả.
Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.
-

Lãi suất danh nghĩa:

Là lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành trái
phiếu công bố. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá của trái
phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.


- 4 --

-

Thời hạn của trái phiếu:


Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền
vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là
ngày đáo hạn của trái phiếu.
-

Kỳ trả lãi:

Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu.
-

Giá phát hành:

Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành.Thông thương giá phát hành
được xác định theo tỷ lệ phần trăm của mện giá. Chủ thể phát hành có thể quyết định
giá phát hành ở một trong ba cách: giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá), giá phát
hành dưới mệnh gia (giá chiết khấu), giá phát hành trên mệnh giá (giá phụ trội).
1.1.3.
-

Phân loại
Căn cứ vào chủ thể phát hành:
+ Trái phiếu của chính phủ và của chính quyền địa phương:
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngân sách, chính phủ các nước thường phát hành trái

phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội.
Chính phủ luôn được coi là chủ thể phát hành có uy tín nhất trên thi trường. Vì vậy trái
phiếu chính phủ được coi là loại trái phiếu có ít rủi ro nhất.
Trái phiếu chính quyền địa phương (ở nước ta là cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương) có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn đáp ứng nhu cầu phát triển

kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
+ Trái phiếu doanh nghiệp:


- 5 --

Là những trái phiếu do các doanh nghiệp ( DN nhà nước, công ty cổ phần và công
ty TNHH) phát hành để tăng thêm vốn hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng và các tổ
chức tài chính cũng phát hành trái phiếu để tăng thêm vốn hoạt động.
-

Căn cứ vào tính chất lợi tức:
+ Trái phiếu có lãi suất cố định:
Là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỷ lệ phần trăm cố định tính

theo mệnh giá.
+ Trái phiếu có lãi suất biến đổi ( hay còn gọi là lãi suất thả nổi):
Là loại trái phiếu mà cổ tức được trả trong các kỳ có sự khác nhau và được tính
theo một lãi suất có sự biến đổi, theo một lãi suất tham chiếu.
+ Trái phiếu có lãi suất bằng không:
Là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi nhưng được mua với lãi
suất thấp hơn mệnh gia (mua chiếu khấu) và được hoàn trả số tiền bằng mệnh giá khi
trái phiếu đáo hạn.
-

Căn cứ theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành:
Trái phiếu có bảo đảm: là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có

giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành.
Trái phiếu không có bảo đảm: (là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm

vật bảo đảm mà chỉ được bảo đảm bằng chính sự uy tín của người phát hành.
-

Căn cứ vào hình thức trái phiếu:


- 6 --

Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên của người đầu tư trên trái
phiếu hay trong sổ sách của người phát hành (trái phiếu ghi sổ)
Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên người đầu tư trên trái phiếu hay
trong sổ sách nhà phát hành.
-

Căn cứ vào tính chất của trái phiếu:
Trái phiếu thông thường: là những trái phiếu có tính chất thông thường là người

mua trái phiếu được nhận lợi tức và hoàn trả tiền gốc theo thời hạn đã xác định.
Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu của công ty cổ phần cho phép trái
chủ trong thời gian nắm giữ ngoài được hưởng các quyền lợi thông thường còn có
quyền được chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu tại một thời điểm nhất định.
Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép
người chủ sở hữu quyền được mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty phát
hành với một giá đã được xác định vào những thời kỳ nhất định.
Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu mà khi phát hành có quy định trên trên
trái phiếu cho phép người phát hành được quyền chuộc lại hay nói khác đi là được mua
lại một phần hay toàn bộ trái phiếu trước khi trái phiếu tới hạn thanh toán.
Thị trường trái phiếu
Khái niệm
1.2.


1.2.1.

Thị trường trái phiếu (TTTP) là nơi giáo dịch mua bán các loại trái phiếu đã phát
hành, các loại trái phiếu do Chính phủ hay do Chính quyền địa phương và các công ty
phát hành. TTTP đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế, đối với các doanh nghiệp
cũng như các nhà đầu tư.


- 7 --

1.2.2.
-

Vai trò
a. Đối với nền kinh tế
TTTP là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả.
TTTP là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện chức năng của thị

trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Đây là thị
trường có khẳ năng huy động các nguồn vốn phân tán, tạm thời nhàn rỗi trong toàn xã
hôi và công cuộc đầu tư.
-

TTTPCP phát triển giúp chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ.
Trên thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là trái phiếu

chính phủ với đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp
phần hình thành lãi suất trên thị trường.
Trái phiếu do chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt trong lưu

thông từ các tần lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung gian. Vốn này
được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải hàng hóa cho xã
hội. Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng tốc độ vòng quay
vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kin tế, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước.
-

TTTP phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng hơn.
TTTP có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền

kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững chắc mà nó dựa trên cơ sở cân
đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu trong
tương lai. TTTP thúc đẩy sự phát triển bền vững, ổn định của trị trường vốn.


- 8 --

-

TTTP giúp Chính phủ thức thi có hiệu quả chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế
xã hội.
Đối với chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan trong là quản lý vĩ

mô nền kinh tế để đảm bảo vai trò của “ người trọng tài” tạo môi trường bình đẳng,
thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế xã hội phát triển bền vững. Thông qua phát hành trái
phiếu và đầu tư bằng vốn TPCP góp phần năng cao hiệu quả của việc phân phối và tái
phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
a.

Đối với doanh nghiệp


Đối với doanh nghiệp, thường có 3 cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát
hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Các doanh nghiệp Việt Nam thường huy động
bằng cách vay ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là trái phiếu.
Phát hành trái phiếu có ưu điểm:
-

Đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn.
Không làm pha loãng quyền sở hữu của các cổ đông trong doanh nghiệp.
Trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu.
Để tham gia TTTP với tư cách là nhà phát hành, các doanh nghiệp phải đáp ứng

đúng các yêu cầu về độ tin cậy với nhà đầu tư như quy mô hoạt động, hệ thống kế toán
kiểm toán, định mức tín nhiệm. điều này đặc biệt quan trọng và không thể thiếu khi
doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra công chúng một cách rông rãi và niêm yết trái
phiếu của mình trên sở GDCK.
a.

Đối với nhà đầu tư

TTTP góp phần làm đa dạng hóa các sản phẩm tài chính, cung cấp cho các nhà
đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa các danh mục đầu tư phù hợp với


- 9 --

những khẩu vị rủi ro khác nha. TPCP với độ an toàn cao nhưng lãi suất không hấp dẫn
bằng TPCT. Bên cạch đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi
nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao hơn. TTTP với các loại trái phiếu và kỳ
hạn khác nhau tạo thêm cho nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.

Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa ít rủi ro hơn cổ phiếu. trái
phiếu luôn có một thời hạn nhât định và khi đáo hạn trái chủ được nhậ lại vốn góp ban
đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu bằng tiền lãi, đây là khoản thu cố định.
Khi đầu tư vào trái phiếu công ty trái chủ nhận tền lãi không phụ thuộc vào sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này không giống với cổ đông chỉ
nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi.
Nếu công ty bị giải thể hay phá sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước các cổ
đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư không thích mạo hiểm.
1.3.

Rủi ro trong đầu tư trái phiếu

Tất cả các khoản đầu tư luôn tồn tại những rủi ro nhất định. Đầu tư chứng khoán
nói chung và đầu tư trái phiếu nói riêng, có thể gặp một số rủi ro như: rủi ro do lãi suất,
rủi ro do lạm phát gây ra, rủi ro tài chính và rủi ro do thanh khoản… Đối với nhà đầu
tư để giảm thiểu rủi ro cũng như thiết lập danh mục đầu tư tối ưu. Đối với nhà phát
hành và nhà quản lý đưa ra các biện pháp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và tăng tính
hấp dẫn của trái phiếu. Do đó, việc nhận diện các rủi ro trong đầu tư trái phiếu là rất
cần thiết.
1.3.1.

Rủi ro lãi suất
Lãi suất là yếu tố thường xuyên liên tục biến động, phản ánh những thay đối về

tương quan cung cầu vốn tiền tệ, cung cấp vốn tiền tệ, cung cấp tín dụng trên thị trường


tài chính. Cũng từ đó dẫn đến những

- 10

thay-10đổi

liên tục về tỷ suất sinh lời cần thiết của

trái phiếu. giá của một trái phiếu sẽ thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị
trường. Khi lãi suất tăng làm cho trái phiếu cũ với mức lãi suất thấp hơn nên kém hấp
dẫn hơn, giá trái phiếu sẽ giảm, trái phiếu có thời gian đáo hạn càng dài thì mức giảm
càng lớn. Ngược lại khi lãi suất giảm thì giá trái phiếu tăng. Rủi ro lãi suất là rủi ro
chính mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi đầu tư trái phiếu.
1.3.2.

Rủi ro lạm phát
Lạm phát gây nên sự thay đổi giá trị, sức mua của tiền tệ. từ đó gây nên những

thiệt hại nhất định cho các nhà đầu tư trái phiếu. Lạm phát càng cao, lãi suất thực của
trái phiếu càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. trái phiếu chính phủ được
coi là an toàn nhất nhưng vẫn có rủi ro lạm phát. Ngay cả trái phiếu có lãi suất thả nổi
vẫn có thể phải gánh chịu rủi ro lạm phát nếu lãi suất không phản ánh hết lạm phát.
Lạm phát càng cao thì rủi ro đầu tư trái phiếu càng cao. Trong bối cảnh lạm phát cao để
đảm bảo, lãi suất thực dương thì lãi suất trái phiếu phải tăng.
1.3.3.

Rủi ro thanh khoản
Rủi ro về khả năng chuyển đổi trái phiếu thành tiền mặt trên thị trường, bao gồm

cả yếu tố thời gian và giá cả chuyển đổi. Để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu, nhà
đầu tư buộc phải tăng mức chiết khấu trái phiếu do đo giá trái phiếu đẩy xuống, lúc này
nhà đầu tư đã gánh chịu thiệt hại về giá trị. Khoản thiệt hại này sẽ lớn, khi thị trường
thiếu tính thanh khoản và đặc biệt là trong điều kiện chưa có đội ngũ tạo lập thị trường
làm cho nhà đầu tư khó tìm được người mua trái phiếu và khó có thể bán được với giá

tốt nhất.
1.3.4.

Rủi ro tín dụng


Rủi ro về khả năng thanh toán,

- 11 khi - tổ chức

phát hành trái phiếu không đủ khả

năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn vốn gốc và lãi như đã cam kết với trái chủ.
Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro về khả năng thanh toán vì
Chính phủ có thể tăng thuế hay in thêm tiền để chi trả lãi và vốn gốc khi đến hạn.
Ngược lại với trái phiếu Chính phủ, đối với trái phiếu công ty thì đây là loại rủi ro
đáng ngại nhất, đặc biệt là trái phiếu tín chấp. Đây là loại rủi ro trực tiếp và đôi khi
thảm hại do công ty phát hành bị phá sản đe dọa nhà đầu tư bị thiệt hại một phần hoặc
toàn bộ số tiền mua trái phiếu. Rủi ro tài chính của trái phiếu công ty gắn liền với hệ số
tín nhiệm của công ty, hệ số tín nhiệm càng cao thì trái phiếu càng được đánh giá an
toàn.
1.4.

Định mức tín nhiệm đối với thị trường trái phiếu

Định mức tín nhiệm là đánh giá về khả năng thực hiện thanh toán đúng hạn một
nghĩa vụ tài chính của một tổ chức phát hành các công cụ nợ. Định mức tín nhiệm là
gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của tổ chức phát hành.
Tổ chức phát hành có thể là các doanh nghiệp, chính quyền địa phương và quốc gia
trong trường hợp phát hành nợ của chính phủ. Định mức tín nhiệm đối với các công cụ

của TTTP và thị trường tiền tệ được thực hiện phổ biến ở các thị trường tài chính phát
triển.
Định mức tín nhiệm gồm cả đánh giá định tính và định lượng, đây là hai tiêu chí
cơ bản cảu việc đánh giá định mức tín nhiệm. Bao gồm các yếu tố về rủi ro vĩ mô: tình
hình và triển vọng phát triển kinh tể đất nước, các yếu tố rủi ro vĩ mô, chính sách của
nhà nước có ảnh hưởng đến ngành và công ty; đặc điểm của các ngành kinh tế mà công
ty đang tham gia, triển vọng phát triển của ngành trong nền kinh tế quốc dân, tác động,
ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô, trong, ngoài nước tới ngành kinh tế, vị trí, thị phần


của công ty trong ngành; chính sách

- 12
quản-12lý- trong

sản xuất kinh doanh, chính sách tài

chính, quản lý vốn, marketing, bán hàng, đặc điểm công nghệ, quy trình sản xuất,khả
năng, kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo…
Kết quả đánh giá định mức tín nhiệm được biểu hiện dưới hình thức các ký hiệu
từ A (nghĩa là ít bị vỡ nợ nhất) cho đến D (nghĩa là đã bị vỡ nợ rồi) phụ thuộc vào khả
năng của người phát hành trả nợ gốc và lãi đúng hạn.
1.5.Kết luận
Những nội dung cơ bản về thị trường trái phiếu như khái niệm, vai trò, cũng như
những rủi ro khi đầu tư trái phiếu.... Bên cạnh đó, các thông tin về thị trường trái phiếu
giúp cho ta có một cái nhìn tương đối quá trình phát triển thị trường trái phiếu ở nước ta.
Huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu đem lại những lợi ích đáng kể cho
nền kinh tế. Phát triển thị trường trái phiếu là yêu cầu phù họp với xu hướng phát triến
của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, khi mà vay vốn ngân hàng vẫn còn dễ dãi và thị
trường co phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu ít được quan tâm hon, dẫn đến thị

trường trái phiếu kém phát triển. Thực tế hoạt động của thị trường trái phiếu Việt Nam
sẽ được phân tích ở chương tiếp theo.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU NHỮNG NĂM
GẦN ĐÂY
2.1. Nhận xét chung về thị trường trái phiếu Việt Nam
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của TTCK, là một kênh huy động vốn tiềm
năng cho các dự án của chính phủ và cho các dự án tư nhân. Thị trường trái phiếu Việt
Nam bao gồm các hàng hóa chủ yếu là TPCP, TPCQĐP, TPDN. Các trái phiếu này


chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường

- 13
-1 3 vốn.

Thị trường vốn Việt Nam với quy mô vẫn

còn nhỏ, còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển và thu hút
sự quan tâm của các nhà đầu tư và tổ chức tài chính nước ngoài.
Theo ước tính của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Việt Nam đang có thị
trường trái phiếu quy mô khoảng 27 tỷ USD. Theo lộ trình, từ nay đến 2020, Việt Nam
phấn đấu tăng dư nợ trái phiếu từ 18% lên khoảng 38% GDP. Trong đó, dư nợ trái phiếu
Chính phủ đạt khoảng 22%, còn lại là các khoản vay do Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu
doanh nghiệp và chính quyền địa phương.
Trong các loại trái phiếu đã được phát hành và giao dịch trên TTCK Việt Nam,
TPCP chiếm ưu thế trên thị trường. Theo báo cáo hàng quý “Theo dõi trái phiếu châu Á”
của ADB, riêng với Việt Nam, tính đến cuối tháng 6/2013, thị trường trái phiếu đã tăng
26,8% so với cùng kỳ năm trước, đạt 27 tỷ USD, chủ yếu trên cơ sở sự tăng trưởng
mạnh của thị trường trái phiếu chính phủ. Thị trường này đã tăng 34,3% so với cùng kỳ

năm trước, đạt 26 tỷ USD. Trái lại, trái phiếu công ty đã giảm 55,5% xuống còn 800
triệu USD trong bối cảnh thị trường gặp khó khăn.
Thị trường trái phiếu đồng nội tệ của Việt Nam là một trong những thị trường trái
phiếu phát triển nhanh nhất trong khu vực Đông Á mới nổi trong những năm gần đây.
Tốc độ phát triển của thị trường trái phiếu đồng nội tệ của Việt Nam gần như tăng gấp ba
lần, từ 12,3 tỷ USD trong quý I/2010 lên 30,2 tỷ USD trong quý I/2013. Sự tăng trưởng
này được thúc đẩy hoàn toàn bởi khu vực TPCP, trong đó bao gồm phát hành trái phiếu
kho bạc và trái phiếu của các DNNN.
TPCQĐP được chính quyền địa phương phát hành dưới sự cho phép của Chính
phủ. Các địa phương gần đây đã đua nhau phát hành trái phiếu chính quyền địa phương,
tạo nên làn sóng mới trên thị trường trái phiếu sôi động nhất trong vòng 5 năm qua. Số


trái phiếu này được phát hành thông qua

- 14
-1 4 - kênh
các

đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành.

Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này không cao.
Theo đánh giá của ADB, Việt Nam được xếp vào nhóm các thị trường phát triển
nhanh nhất trong quý II/2011 với mức tăng trưởng 5% so với quý I. Tiếp đến là
Singapore tăng 4,3% và Malaysia tăng 3,7%. Trung Quốc cùng kỳ năm ngoái có mức
tăng nhiều nhất 6,3% thì quý này cũng chỉ tăng 2,7%. Nhưng giá trị giao dịch (một
thước đo về tính thanh khoản) của thị trường trái phiếu Việt Nam lại vào hàng thấp nhất
trong số các thị trường đang nổi lên ở Đông Á. Phần lớn chỉ tập trung ở thị trường sơ
cấp, ở thị trường thứ cấp khối lượng giao dịch trái phiếu còn thấp.
Thị trường trái phiếu Việt Nam đã có những khởi sắc trong một vài năm gần đây cả

khu vực Chính phủ và doanh nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế đã làm cho thị
trường trái phiếu hoạt động kém hiệu quả.
2.2. Phân tích thực trạng thị trường trái phiếu Việt Nam trong 3 năm gần đây
2.2.1. Thực trạng thị trường trái phiếu Chính phủ ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có hai thị trường TPCP là trái phiếu phát hành quốc tế bằng USD và trái
phiếu phát hành nội địa bằng VND. Trái phiếu phát hành quốc tế của Việt Nam hiện mới
có hai lần đấu thầu trái phiếu quốc tế. Lần đầu với 750 triệu USD đáo hạn năm 2016, lần
thứ 2 vào tháng 1/2010 có trị giá 1 tỷ USD được đáo hạn 2020. Hiện nay trên thị trường
trái phiếu quốc tế, Việt Nam chỉ có hai sản phẩm trái phiếu kể trên, vì vậy tất cả các
ngân hàng đầu tư hàng đầu thế giới đều có nắm giữ 2 trái phiếu này. Tuy nhiên, hầu hết
các nhà đầu tư đều đưa TPCP Việt Nam vào danh mục giao dịch. Đây là danh mục mà
nhà đầu tư có thể mua đi bán lại để đảm bảo thanh khoản. Đối với trái phiếu nội địa thì
chủ yếu là các ngân hàng thương mại trong nước, các ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại
Việt Nam. Sản phẩm giao dịch đa phần là TPCP có kỳ hạn 2 năm đến 10 năm. Các ngân


hàng chủ yếu theo yêu cầu của Ngân

- 15
-1 5 -Nhà
hàng

nước đảm bảo tỷ lệ giấy tờ có giá. Số

liệu giao dịch hàng tuần chỉ dừng lại ở vài trăm tỷ đồng hoặc thấp hơn.
Trải qua 4 năm hoạt động, mặc dù thời gian chưa nhiều, nhưng thị trường TPCP đã
đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận về thể chế, khuôn khổ pháp lý, quy mô thị trường
và hạ tầng kỹ thuật. Quy mô phát hành của toàn thị trường liên tục tăng; Tổng khối
lượng trúng thầu tính đến cuối tháng 9/2013 là hơn 421 nghìn tỷ đồng. Tỷ lệ đấu thầu
thành công tăng dần qua các năm từ 32% năm 2010, lên 52% năm 2012, và 9 tháng đầu

năm 2013, tỷ lệ này là 53%. Quy mô giao dịch trên thị trường đạt gần 690 nghìn tỷ
đồng, phiên cao nhất đạt trên 2.000 tỷ đồng/phiên. Đặc biệt khi đưa hệ thống mới vào
hoạt động, quy mô giao dịch tăng đột biến, vượt hơn 212,2 tỷ đồng năm 2012, đến 293,6
tỷ đồng 9 tháng đầu năm 2013, tương đương 1.700 tỷ đồng/phiên, gấp 4,5 lần so với thời
điểm 2010.
Về công tác huy động trái phiếu trên thị trường sơ cấp. Tính đến ngày 17/12/2012,
tổng mệnh giá khối lượng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh huy
động được là 189.315,15 tỷ đồng, bằng 95,13% tổng kế hoạch huy động cả năm 2012.
So với 12 tháng cùng kỳ của năm 2010 và 2011, khối lượng trái phiếu huy động trong
năm 2012 đã lớn hơn rất nhiều, đặc biệt là khối lượng huy động trái phiếu Chính phủ
(bằng 173,6% cùng kỳ 2011 và bằng 206,7% cùng kỳ 2010). Khối lượng phát hành trái
phiếu tăng đã tạo điều kiện rất tốt cho việc điều hành ngân sách của Chính phủ, đảm bảo
nguồn chi trả theo kế hoạch được giao đồng thời có nguồn thực hiện chi trả ứng vốn đầu
tư xây dựng cơ bản năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ.
Về thị trường thứ cấp: Ngoại trừ trong tháng 8 và tháng 9/2012 khi mặt bằng lãi
suất trên thị trường tiền tệ tăng, nhìn chung lãi suất trong năm 2012 có xu hướng giảm.
Do vậy, việc đầu tư vào trái phiếu nói chung, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ nói riêng


được coi là có hiệu quả kinh tế khá cao.

- 16
-16 - vậy,


trong năm 2012, khối lượng giao dịch

trái phiếu trên thị trưởng thứ cấp đã tăng mạnh, bình quân cả năm giao dịch khoảng 600
tỷ đồng/ngày.
Về thành viên đấu thầu trái phiếu: ngày 7/12/2012 Bộ Tài chính đã ban hành Quyết

định số 3089/QĐ-BTC ban hành danh sách thành viên đấu thầu trái phiếu Chính phủ
năm 2013. Với việc ban hành danh sách thành viên đấu thầu trái phiếu năm 2013, hoạt
động của thị trường trái phiếu sẽ dần tiếp cận với thông lệ quốc tế, tập trung hoạt động
thông qua một số thành viên đấu thầu để từng bước chuyên môn hóa hoạt động giao dịch
trái phiếu, hình thành hệ thống các tổ chức tạo lập thị trường. Các thành viên đấu thầu có
nghĩa vụ cung cấp định hướng cho thị trường trái phiếu, hỗ trợ thanh khoản cho thị
trường trái phiếu, và là cầu nối giữa các nhà đầu tư với tổ chức phát hành cũng như cơ
quan quản lý nhà nước.
Theo Báo cáo Theo dõi Trái phiếu Châu Á của Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB) công bố ngày 4/6/2013, Việt Nam là quốc gia trong khu vực có tốc độ tăng
trưởng của thị trường TPCP cao nhất so với cùng kỳ năm 2012 với tốc độ tăng trưởng là
64,6%, đạt giá trị 29 tỷ USD do việc đẩy mạnh phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu
ngân hàng trung ương và trái phiếu của các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước.
Theo Bộ Tài chính, tình hình thị trường trong quý 1/2013 khá thuận lợi cho công
tác huy động vốn thông qua phát hành TPCP. Tính đến hết quý 1/2013, việc huy động
vốn bằng TPCP đã thu được 65.450 tỉ đồng, bằng 43,6% kế hoạch cả năm 2013. Nhu
cầu mua TPCP khá lớn với khối lượng dự thầu luôn cao hơn khối lượng gọi thầu (từ 1,12
đến 5,11 lần), tỷ lệ trúng thầu trong từng phiên khá lớn (90 - 100%); lãi suất huy động
vốn giảm qua các phiên đấu thầu, so với đầu năm thì đến cuối quý 1, lãi suất các kỳ hạn
giảm từ 50-100 điểm cơ bản.


Nguyên nhân chính của sự hoạt

- 17
động-17hiệu

quả của việc đấu thầu:

-


Một phần vì thanh khoản của hệ thống ngân hàng rất dồi dào do tín dụng không tăng

-

trưởng trong thời gian qua.
Ngân hàng Nhà nước bơm ra khối lượng tiền khá lớn qua kênh thị trường mở và qua
việc mua vào khối lượng lớn ngoại tệ; và việc Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất cũng
tác động đến các nhà đầu tư khi mua TPCP cũng góp phần làm cho việc huy động vốn
khá thuận lợi.

-

Việc huy động được một khối lượng lớn trái phiếu Chính phủ trong năm 2012 chủ yếu
do tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng là khá thấp (11 tháng tăng 4,62% so với
cùng kỳ năm 2011), trong khi đó, NHNN tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ hợp lý để
đảm bảo thanh khoản của hệ thống NHTM. Bên cạnh đó, NHNN đã mua khoảng 13 tỷ
USD từ các NHTM (bơm khoảng 270.000 tỷ đồng vào hệ thống), trong khi khối lượng
phát hành tín phiếu NHNN đạt khoảng 150.000 tỷ đồng, hiện còn dư nợ chỉ còn khoảng
51.000 tỷ đồng.
Thị trường trái phiếu trước mắt vẫn còn nhiều hạn chế:
- Mà một trong số đó là sản phẩm vẫn còn đơn điệu, chỉ hạn chế ở các trái phiếu trả
lãi định kỳ, chưa có những sản phẩm phát hành liên kết gắn trách nhiệm, quyền lợi giữa
Nhà nước và chủ đầu tư trái phiếu.
- Nhiều nhà đầu tư cá nhân không quan tâm đến thị trường trái phiếu. Trước hết do
chưa thấy đây là kênh đầu tư hấp dẫn. Thanh khoản của thị trường thấp và hơn thế, việc
sử dụng, đặt niềm tin vào kỳ vọng chính sách vĩ mô tương ứng với các quyết định đầu tư
vẫn là quá vĩ mô so với nhiều nhà đầu tư.



- Thị trường trái phiếu nội địa mới

- 18
-1 8 dừng

lại ở thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ

cấp gần như không có biến động.
- Nhà đầu tư chủ yếu là các NHTM nguồn vốn đầu tư dài hạn ít nên kỳ hạn phát
hành ngắn chủ yếu là tín phiếu và trái phiếu kỳ hạn 2, 3 năm.
2.2.2. Thực trạng thị trường trái phiếu chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện
nay
Ở Việt Nam, việc phát hành trái phiếu của các chính quyền địa phương không phải
là vấn đề mới mẻ. Việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, nếu thành công, sẽ
giúp các chính quyền địa phương bù đắp được nguồn thiếu hụt ngân sách để có thể trả
nợ các khoản nợ đọng xây dựng tại các địa phương, hiện lên tới 91.000 tỉ đồng, trong đó
có hơn 25.000 tỉ đồng nợ các công trình đã hoàn thành và gần 66.000 tỉ đồng là nợ khối
lượng đã thực hiện tại các dự án đang triển khai. Nó cũng giúp chính quyền các địa
phương có tiền để đầu tư hoàn thiện các công trình thiết yếu, hiện đang đầu tư dở dang.
Trong năm 2013 nhiều thành phố chủ động lên kế hoạch phát hành trái phiếu địa
phương thay vì chờ đợi ngân sách từ trung ương. UBND thành phố Hà Nội vừa bán hết
1.000 tỉ đồng trái phiếu thủ đô kỳ hạn 3 năm, lãi suất đạt 8,7%/năm. Theo công bố của
thành phố, trái phiếu xây dựng thủ đô đợt này có mục đích huy động vốn để đầu tư 8 dự
án trong danh mục các dự án trọng điểm, gồm 5 công trình giao thông hạ tầng khung
nhằm giảm thiểu ùn tắc giao thông, 2 bệnh viện khu vực ngoại thành và 1 dự án nông
nghiệp (xây dựng trạm bơm tiêu Yên Nghĩa giai đoạn I, cải thiện hệ thống tiêu nước khu
vực phía Tây thành phố). Trước đó cuối tháng 9, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phát hành
800 tỉ đồng trái phiếu 3 năm với mức lãi suất cố định 8,75%/năm. Lãi suất thanh toán
theo định kỳ mỗi năm một lần. Trái phiếu được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận tham



gia các giao dịch thị trường mở, chiết

- 19
-1 9 tái
khấu,

chiết khấu, vay tái cấp vốn. Cuối tháng 8,

TPHCM đã phát hành thành công 1.030 tỉ đồng trong mục tiêu phát hành 3.000 tỉ đồng
trái phiếu năm 2013 để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Một số địa phương khác đang có kế hoạch phát hành trái phiếu chính quyền địa
phương, như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Những đợt phát hành này cho
thấy đây là làn sóng mới của trái phiếu chính quyền địa phương có thể nói sôi động nhất
trong 5 năm trở lại đây. Nếu kể thêm các đợt phát hành trái phiếu của các tổ chức tín
dụng cũng như một số doanh nghiệp lớn, tổng công ty nhà nước thì thị trường trái phiếu
thực sự đã có chuyển mình.
Việc các chính quyền tham gia vào việc phát hành trái phiếu địa phương sẽ gây rủi
ro nhất định cho nền kinh tế:
Thứ nhất, nó sẽ khiến cho tổng nợ công của cả nền kinh tế tăng thêm và có thể vượt
quá khả năng kiểm soát của chính quyền trung ương. Theo báo cáo mới nhất của Chính
phủ, nợ công của Việt Nam năm 2012 ước chiếm khoảng 55,4% GDP, trong đó nợ
Chính phủ chiếm 43,1% GDP; nợ Chính phủ bảo lãnh chiếm 11,7% GDP; nợ địa
phương mới chỉ chiếm 0,53% GDP. Nhưng với tốc độ tăng của việc phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương như hiện nay thì nợ địa phương so với GDP sẽ tăng mạnh trong
thời gian tới. Với việc chi tiêu của Nhà nước phụ thuộc nhiều vào trái phiếu, mặt bằng
lãi suất của nền kinh tế sẽ khó giảm khiến các doanh nghiệp khó có thể tiếp cận tín dụng
để mở rộng đầu tư sản xuất.
Thứ hai, rủi ro vỡ nợ trái phiếu chính quyền địa phương thường cao vì trong bối
cảnh mà hầu hết các địa phương trên cả nước đều mất cân đối thu chi ngân sách nhà

nước thì nguồn trả nợ này khó có sự đảm bảo. Trong trường hợp của Đà Nẵng, thành


phố này đã liên tục phát triển tốt trong

- 20
-2 0 những

năm qua và thu ngân sách luôn cao hơn so

với chi ngân sách. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, nguồn thu cũng đã không đủ để bù
đắp, đặc biệt là khi một nguồn thu lớn từ khai thác quỹ đất bị giảm mạnh bởi thị trường
bất động sản gặp khó khăn. Không chỉ có vậy, nếu đến hạn ngân sách của địa phương
không thanh toán được thì các trái phiếu này cũng sẽ khó nhận được sự hỗ trợ từ ngân
sách trung ương bởi Chính phủ không hề đứng ra bảo lãnh cho các khoản trái phiếu địa
phương này.
Bài học về sự phá sản của chính quyền địa phương trên thế giới cũng đã được đưa
ra ở nhiều nơi. Tại Mỹ, nhiều thành phố đã nộp đơn xin phá sản do chính quyền địa
phương không thể thanh toán các khoản nợ đến hạn. Gần đây nhất, ngày 1.8.2012, thành
phố San Bernandio thuộc bang California đã nộp đơn xin bảo hộ phá sản.
Mặc dù đã có những tiến hiệu tốt nhưng nhìn chung thị trường trái phiếu chính
quyền địa phương vẫn còn nhiều khó khăn:
-

Các địa phương vẫn còn lệ thuộc vào nguồn trợ cấp ngân sách trung ương, chưa chủ

-

động đa dạng hóa các hình thức huy động vốn đầu tư.
Tuy nền kinh tế được đánh giá tăng trưởng trong thời gian qua nhưng chỉ tập trung ở hai

trung tâm kinh tế lớn là TP.HCM và Hà Nội, các địa phương khác tốc độ tăng trưởng
vẫn còn chậm, thậm chí phần lớn địa phương vẫn trong tình trạng bội chi ngân sách. Do

-

đó, mức độ tín nhiệm của người đầu tư đối với chính quyền địa phương chưa cao.
Thu nhập bình quân đầu người nước ta vẫn còn thấp, vốn tiết kiệm để đầu tư thấp, đây
cũng là yếu tố làm hạn chế khả năng huy động của thị trường trái phiếu.
Do đó để tránh rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, các địa phương phát hành
trái phiếu chính quyền địa phương cần có kế hoạch sử dụng nguồn thu ngân sách thành
phố và nguồn thu từ trái phiếu hợp lý, đầu tư vào các công trình trọng điểm có hiệu quả


cao, tránh sự đầu tư dàn trải. Trước việc

- 21
-2 1 chính

quyền các địa phương tăng phát hành trái

phiếu chính quyền địa phương như vậy, Quốc hội hoặc Chính phủ cần nhanh chóng hình
thành uỷ ban hoặc một bộ phận chuyên trách theo dõi nợ công của cả nước để giám sát
các hoạt động huy động vốn cũng như sử dụng vốn từ trái phiếu. Có như vậy, nguồn trả
nợ mới được đảm bảo và việc phát hành trái phiếu chính quyền địa phương mới có thể
không gây ra các rủi ro vỡ nợ, ảnh hưởng đến mức độ tín nhiệm của cả nước. Nếu sử
dụng trái phiếu địa phương là một công cụ huy động vốn nhằm "lấp đầy" ngân sách sẽ
khiến đồng tiền “dừng” một cách vô nghĩa. Khi đó, quy luật hàng – tiền – hàng sẽ mất
đi, nghĩa là đồng tiền mất khả năng cho ra đời những sản phẩm mới thông qua quá trình
đầu tư, phát triển, sản xuất. Như vậy, tiền lúc này mất đi chức năng cơ bản là phương
tiện trao đổi, đồng thời lâm vào trạng thái “đóng băng”, gây thiệt hại cho nền kinh tế.

2.2.3.

Thực trạng thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thị trường TPDN, năm 2011 là một năm ảm đạm. Môi trường kinh tế bất ổn cả
trong và ngoài nước khiến việc phát hành TPDN hết sức khó khăn. Nhiều doanh nghiệp
phải hoãn hoặc hủy kế hoạch phát hành trái phiếu: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam hoãn
phát hành 500 triệu USD trái phiếu, một loạt các doanh nghiệp trên sàn niêm yết như
Địa ốc Hoàng Quân (HQC), NHTMCP Sài Gòn (SCB); Khoáng sản Na Rì (KSS)… Rủi
ro tín dụng tăng cao dẫn tới nhiều trái phiếu mặc dù được chào với lãi suất rất cao từ 2123%/năm vẫn không thể bán được, đặc biệt đối với các trái phiếu bất động sản. Bức
tranh thị trường thứ cấp cũng không sáng sủa hơn, thanh khoản rất ít và chỉ tập trung ở
một số trái phiếu của doanh nghiệp lớn như EVN, Lilama, BIDV, FPT… Theo thống kê
của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam (VBMA), năm 2011 ước tính có khoảng
27 đợt phát hành trái phiếu với khối lượng giao dịch khoảng 7.000 tỷ đồng, chỉ bằng
12,5% so với năm 2010.


Số lượng các doanh nghiệp tham

- 22
gia-2 2và

lượng vốn huy động từ thị trường TP vẫn

còn hạn chế.Thị tg TP doanh nghiệp năm 2010 có 12 Dn phát hành TPDN. Đến năm
2011, sau khi thực hiện nghi định 52, vẫn ko có gì thay đổi. Giá trị TP đang lưu hành
ước tính khoảng 16 tỷ USD . lượng TPDN chiếm tỷ trọng nhỏ(10%), còn lại 90% là
TPCP.DN phát hành trái phiếu có nhiều nhà đầu tư song tính thanh khoản cao thì chỉ
đếm trên đầu ngón tay, như BIDV, EVN..Trên thi tg sơ cấp chưa có nhiều giao dịch
chuẩn hóa theo đúng thông lệ thị tg. Tại thị trường thứ cấp nhiều sản phẩm chưa được
chuẩn hóa và chưa có cơ sở tham chiếu đáng tin cậy để xác định giá.

Không có tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp, là rào cản cho các doanh
nghiệp nhỉ khi phát hành trái phiếu.
Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp là một trong những tiêu chí quan trọng đối với nhà
tài trợ vốn như NH hay nhà đầu tư để đưa ra quyết định có cho doanh nghiệp vay hay
ko. Đây là 1 tiêu chuẩn phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp bao gồm các chỉ
tiêu tài chính phản ánh khả năng chi trả của doanh nghiệp , cơ cấu vốn và khả năng sinh
lời. Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính, còn có các chỉ tiêu phi tài chính như trình độ năng
lực quản lý, kinh nghiêm điều hành,…các chỉ tiêu này sẽ được chấm điểm trên cơ sở so
sánh với các chỉ tiêu trung bình ngành.
Xếp hạng tín dụng nói riêng hay định mức tín dụng nói chung còn là một công cụ
rất quan trọng để các nhà hoạch định chính sách quản lý thị trường. các tổ chức định
mức tín dụng có uy tín ko chỉ thực hiện việc định mức các TPDN mà còn xếp hạng các
TPCP.
Tuy nhiên ở Việt Nam hiện tại chưa có 1 tổ chức chuyên nghiệp nào thực hiện việc
cung cấp các chỉ tiêu xếp hạng tín dụng DN, từ đó , là cơ sở để xếp hạng TP DN.


Trong xu thế toàn cầu hóa khi 1

- 23
-2 3 doanh

nghiệp được niêm yết trên TTCK nước

ngoài thì TP của doanh nghiệp đó phải được xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc tế( Hiện tại
chỉ có VCB và BIDV được xếp hạng tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế, do đó lãi suất của
các ngân hàng này cao bằng lãi suất trần của trái phiếu chính phủ).
Thiếu vắng các nhà tạo lập thì trường.
Các nhà tạo lập thị tg đóng vai trò người mô giới và tự doanh trái phiếu, họ thu lợi
nhuận từ các hoạt động này.

Tuy nhiên hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu hàm chứa rủi ro cao hơn hoạt
động mô giới chứng khoán. Đóng vai trò là người tạo lập thị trường, các yêu cầu đặt ra
là rất cao và đòi hỏi chi phí lớn.
- nắm giữ 1 lượng lớn Trái phiếu và tiền mặt
- cơ sở hạ tầng công nghệ cao
- đội ngũ nhân viên có trình độ kĩ thuật cao và tác phong chuyên nghiệp.
Hơn nữa, khi giá TP giảm, hay xảy ra rủi ro ko trả được nợ thì những nhà tạo lập thị
trường cũng sẽ bị thua lỗ.
Các thông tin thô có thể có lợi song dễ bị lộ những thông tin nội bộ.
Các nhà tạo lập thị tg phải giúp cân bằng áp lực cung – cầu khi xuất hiện những
thông tin thất thiệt.
Tính thanh khoản của thị trường trái phiếu thấp.
Đây chính là rào cản lớn nhất khiên TTTP doanh nghiệp chưa phát triển mạnh.
-

Nguyên nhân là do:
TP có lãi suất cố định, giá TP ít biến động nên các nhà đầu tư cá nhân ko thấy hấp dẫn,

-

do vậy mà việc mua đi bán lại các TP sẽ ko nhộn nhịp.
Các nhà đầu tư là các tổ chức ngân hàng , các công ty bảo hiểm lớn hay các doanh
nghiệp lớn, họ nắm giữ trái phiếu nhằm quản lý tính thanh khoản chứ ko phải mục đích
lợi nhuận, do vậy họ ưa thích năm giữ các TPCP hơn là TPDN


Vì vậy cac giao dịch thứ cấp TPDN

- 24
-2rất

4 - ít

mà chủ yếu là TPCP. Đối với các TPDN

chưa niêm yêt chính thức thì các nhà đầu tư nắm giữ cho đên ngày mãn hạn như là
khoản cho vay đối với dn.
Chi phí phát hành cổ phiếu thấp, ko khuyến khích các doanh nghiệp phát hành trái
phiếu
Đường cong lãi suất vẫn chưa được xây dựng
Đường cong lãi suất mô tả mối quan hệ giữa thời gian đến khi đáo hạn với lãi suất

-

đến khi đáo hạn của trái phiếu tại một thời điểm nhất định.
Để xây dựng được đường cong lãi suất cần phải hội tụ các điều kiện nhất định:
TP phải đc chuẩn hóa về kì hạn cũng như lãi suất, lô TP đc cùng để tính cho đường cong
lãi suất phải có tính chất giống nhau, trừ thơi gian đáo hạn, chất lg TP giống nhau, có
mức lãi suất coupon như nhau và các điều khoản phát hành giống nhau tg cùng một

-

ngành,
Giá trái phiếu phải sẵn có, yết giá hàng ngày.
Với một chu kì giao dịch bất kì phải có các giao dịch của trái phiếu với kì hạn khác
nhau, đây là điều kiện quan trọng để xây dựng được đường cong lãi suất.
Hiện tại ở VN chưa có đơn vị nào xây dựng được đường cong lãi suất chuẩn.
Nguyên nhân cơ bản là trên thị trường hiện có quá nhiều các loại TP khác nhau, nên giao
dịch bị phân tán. Bên cạnh đó, giao dịch repos và giao dịch mua đứt bán đoạn không bóc
tách được nên lãi suất giao dịch không phản ánh chính xác lãi suất thị trườn.
Năm 2012, tổng sản phẩm trong nước (GDP) chỉ tăng 5,03% so với năm 2011. Đây

là kết quả cách xa với mục tiêu đã đề ra. Trong năm đã có hai lần điều chỉ tiêu tăng
trưởng, từ 6-6,5% xuống 5,5%; cách đây một tháng mức tăng trưởng được dự kiến vào
khoảng 5,2%. Thực tế này cho thấy sự suy giảm khá sâu của nền kinh tế do nhiều khó
khăn trong duy trì sản xuất, khó tiếp cận nguồn vốn hoặc phải vay vốn với lãi suất cao
của hầu hết ngành, lĩnh vực sản xuất - kinh doanh.


Trong bối cảnh khó khăn chung

- 25
của-2 5cả

nền kinh tế, hoạt động của thị trường tài

chính tiền tệ trong nước cũng rất khó khăn. Tuy nhiên, năm 2012 hoạt động của thị
trường trái phiếu có nhiều kết quả đáng khích lệ:
Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động của thị trường trái phiếu được ban
hành đầy đủ, đồng bộ, từng bước hướng tới các nguyên tắc hoạt động của thị trường trái
phiếu quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường.
Trong năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành đầy đủ, đồng bộ các Thông tư hướng dẫn
Nghị định số 211/TT- BTC ngày 5/12/2012 hướng dẫn về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp.
Theo quy định tại các văn bản pháp lý mới ban hành về phát hành trái phiếu,
phương thức phát hành đã được thay đổi để phù hợp với thực trạng phát triển của thị
trường, nhằm minh bạch hóa hoạt động của thị trường, và từng bước tiếp cận các chuẩn
mực của thị trường quốc tế, nhằm giảm rủi ro tái cấp vốn đối với ngân sách Nhà nước và
từng bước tạo các trái phiếu chuẩn làm định hướng cho thị trường thông qua phát hành
bổ sung, mua lại, hoán đổi trái phiếu. Bên cạnh đó, hoạt động đăng ký, lưu ký trái phiếu
cũng đã được rút ngắn, tạo điều kiện để nâng cao thanh khoản của trái phiếu trên thị
trường sơ cấp. Đồng thời, các điều kiện về phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng

đã được quy định chặt chẽ hơn rất nhiều nhằm tăng cường trách nhiệm quản lý, giám sát
của tổ chức phát hành và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, nhất là đối với các nhà đầu tư
không chuyên nghiệp. Có thể nói năm 2012 là năm đánh dấu bước tiến cơ bản trong việc
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để phát triển thị trường trái phiếu bao gồm: trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương và
trái phiếu doanh nghiệp.


×