Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (557.35 KB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Lê Thị Nam Phương


MỤC LỤC
1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC MẦM NON
NGOÀI CÔNG LẬP.......................................................................................26
1.4.1. Kinh nghiệm của TP Hồ Chí Minh....................................................26
1.4.2. Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội..................................................28
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN......................................................................30
DỊCH VỤ GIÁO DỤC MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...............................................................................30
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ ..........................................................56
GIÁO DỤC MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP .............................................56
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..................................................56
3.1.2. Những thách thức cho sự phát triển......................................................58
3.1.3. Mục tiêu phát triển................................................................................59
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC MẦM
NON NGOÀI CÔNG LẬP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.....61
3.2.4. Nhóm giải pháp phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị, công nghệ
quản lý.............................................................................................................65
a. Đổi mới quản lý nhà nước với giáo dục mầm non ngoài công lập............67
c. Giải quyết tốt mối quan hệ với giáo dục mầm non công lập.......................71
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Các chữ viết tắt
BC
CP
CT
CSVC
CSGD
GD&ĐT
GDMNNCL
GDP
GV
HS
NCL
NQ
MNNCL

TW
UBND

Diễn giải
Báo cáo
Chính phủ
Chỉ thị
Cơ sở vật chất
Chăm sóc giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Giáo dục mầm non ngoài công lập
Tốc độ tăng trưởng
Giáo viên

Học sinh
Ngoài công lập
Nghị quyết
Mầm non ngoài công lập
Quyết định
Trung ương
Uỷ ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Kết quả hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ

2.2
2.3

trên địa bàn TP. Đà Nẵng đến tháng 6 năm 2012
Số lượng cơ sở mầm non ngoài công lập ở Đà Nẵng
Báo cáo thống kê số lượng học sinh mầm non của các cơ

34
42

43

2.4

sở giáo dục đào tạo tại thành phố Đà Nẵng qua các năm
Tỷ lệ học sinh mầm non từng quận, huyện trên địa bàn

47

2.5

Tp Đà Nẵng
Các dịch vụ hỗ trợ người học của cơ sở Giáo dục ngoài

48

2.6

công lập TP Đà Nẵng
Số lượng và cơ cấu giáo viên, cán bộ quản lý tại các cơ sở

50

2.7

giáo dục mầm non ngoài công lập ở Đà Nẵng
Số liệu đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý ở từng loại hình

51


2.8

trường học
Thống kê trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhân

52

2.9

viên tại các cơ sở ngoài công lập
Tình hình chất lượng giáo viên mầm non ngoài công lập ở

53

2.10

thành phố Đà Nẵng
Tình hình cơ sở vật chất của các cơ sở cung cấp dịch vụ

55

3.1

giáo dục mầm non ngoài công lập ở Đà Nẵng
Chỉ tiêu phát triển dịch vụ nhà trẻ ngoài công lập đến năm

62

3.2


2020
Chỉ tiêu phát triển dịch vụ mẫu giáo ngoài công lập đến
năm 2020

63

DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu

Tên hình

Trang


hình
2.1
2.2

Tỉ lệ dịch vụ GDMNNCL đảm trách trên địa bàn Tp ĐN
Số học sinh MN ngoài công lập ở Đà Nẵng

41
46


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước sang thập niên thứ hai của thiên niên kỷ thứ ba. Đây

là thời kì mà các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển
với những bước tiến nhảy vọt. Trên cơ sở những thành tựu đó, sự chuyển biến
của kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và kinh tế trí thức đã
diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển nhanh
về kinh tế trí thức đã tác động mạnh mẽ tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi
nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Hiện nay, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới đã đặt giáo dục vào vị trí
quốc sách hàng đầu. Giáo dục vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát
triển bền vững của xã hội. Tác động của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội ngày càng trở nên mạnh mẽ. Trong bối cảnh đất nước ta hội nhập
toàn diện với khu vực và quốc tế, nền giáo dục Việt Nam nói chung và giáo
dục thành phố Đà Nẵng nói riêng đang đứng trước những thời cơ và thách
thức mới ở tất cả các bậc học, cấp học.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ
của trẻ em Việt Nam. Việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non là trách
nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Phát triển mầm non ngoài công lập là hiện thực hoá chủ trương xã hội
hoá giáo dục của chính phủ nhằm hai mục tiêu lớn: Thứ nhất là phát huy tiềm
năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự
nghiệp giáo dục; thứ hai là điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng


2

chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày
càng cao, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Những năm qua, trong đà tăng trưởng của nền kinh tế - xã hội, sự nghiệp
giáo dục và đào tạo ở thành phố Đà Nẵng đã có những bước phát triển mạnh

mẽ trên hầu khắp các mặt. Quy mô giáo dục tăng nhanh ở tất cả các cấp học,
bậc học. Phong trào học tập thường xuyên phát triển sôi nổi trên khắp các địa
bàn của thành phố. Hệ thống giáo dục mầm non được quy hoạch theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, gắn với địa bàn dân cư. Chất lượng giáo dục mầm
non không ngừng được tăng lên. Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí các cơ
sở giáo dục mầm non được tăng cường về số lượng và chất lượng. Công tác
phát triển đa dạng loại hình giáo dục mầm non được chú trọng. Theo báo cáo
số: 2044/BC-SGDĐT ngày 04 tháng 6 năm 2012 về việc báo cáo tổng kết
năm học 2011 – 2012 giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố có: 136
trường mầm non. Trong đó, loại hình công lập có 64 trường; dân lập: 02
trường; tư thục: 70 trường. Tăng 08 trường so với cùng kỳ năm học trước (02
trường công lập và 06 trường tư thục).
Đà Nẵng với định hướng phát triển ở tốc độ cao sự thu hút mà thành phố
năng động nhất miền Trung, dự kiến đạt 1,4 triệu dân vào năm 2020. Đây là
con số tăng cơ học chóng mặt. Thành phố cũng đang đứng trước sức ép đáp
ứng nhu cầu sống của người dân, sự tăng nhanh của lao động nhập cư và dân
số trẻ cũng là bài toán đầu tư nghiêm túc để Đà Nẵng phát triển và phát triển
bền vững. Sự đầu tư dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập là điều kiện
cần thiết để đảm bảo các mục tiêu phát triển điều kiện hạ tầng.
Là một người đang hoạt động trong lĩnh vực đầu tư giáo dục theo chủ
trương xã hội hóa của chính phủ ở bậc học mầm non và bậc học phổ thông,
tôi thực hiện đề tài “Phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng” nhằm tìm hiểu thực trạng phát triển dịch vụ giáo


3

dục mầm non trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay, từ đó đề xuất các giải
pháp để thành phố phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập trong
thời gian đến. Mong rằng những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần

nhỏ bé trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống, đưa mục tiêu xây dựng
thành phố Đà Nẵng là “thành phố đáng sống” trở thành hiện thực.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Khái quát được lý luận về phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài
công lập làm cơ sở cho nghiên cứu.
- Xác định được những điều kiện tiền đề cho việc phát triển dịch vụ giáo
dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Đánh giá được thực trạng phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài
công lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay.
- Kiến nghị được các giải pháp để phát triển dịch vụ giáo dục mầm non
ngoài công lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
- Các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công
lập.
- Các loại hình, chủng loại dịch vụ GDMN nói chung và GDMNNCL
nói riêng.
- Nhu cầu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em độ tuổi 3 tháng đến
dưới 6 tuổi trên địa bàn thành phố.
- Công tác quản lí dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.


4

3.2. Phạm vi
Về không gian: Nghiên cứu thực trạng và tiềm năng phát triển dịch vụ
giáo dục mầm non ngoài công lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong quá
trình thực hiện Chiến lược giáo dục đến năm 2020.
Về thời gian: Khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục mầm non ngoài

công lập từ năm 2006, đề ra giải pháp phát triển dịch vụ giáo dục mầm non
ngoài công lập đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp khảo sát, điều tra, thu thập số liệu (Số liệu tình hình kinh
tế - xã hội, số liệu về giáo dục mầm non của thành phố Đà Nẵng)
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp thống kê (phân tổ thống kê, phương pháp đồ thị thống kê,
phương pháp phân tích dãy số biến động theo thời gian và phương pháp phân
tích tương quan).
- Phương pháp tổng hợp và khái quát hoá.
5. Bố cục đề tài
Chương 1. Cơ sở lí luận về phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài
công lập.
Chương 2. Thực trạng phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công
lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đến năm 2020.
6. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mĩ của trẻ
em. Trẻ được tiếp cận với giáo dục mầm non càng sớm, càng thúc đẩy quá


5

trình học tập và phát triển của các giai đoạn tiếp theo. Chính những kĩ năng
mà trẻ tiếp thu được qua Chương trình giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho
việc học tập sau này. Những công trình khoa học nghiên cứu về sinh lí, tâm lí
học xã hội đều khẳng định: sự phát triển của trẻ từ 0 - 6 tuổi là giai đoạn phát

triển có tính chất quyết định để tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển
trí tuệ trong tương lai.
Hiện nay, các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã
xây dựng và phát triển sôi động hệ thống giáo dục ngoài công lập nói chung
và hệ thống giáo dục mầm non ngoài công lập nói riêng. Nghị quyết 33 của
bộ chính trị và quy hoạch phát triển thành phố đến năm 2020 là Đà Nẵng trở
thành trung tâm kinh tế - xã hội, chính trị - văn hóa - dịch vụ của khu vực
miền Trung, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Để đáp ứng được các yêu cầu
mang tính chiến lược về giáo dục và đào tạo từ nay đến năm 2020, thành phố
cần quan tâm và đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa giáo dục, đặc biệt là loại
hình giáo dục mầm non ngoài công lập. Có thể khẳng định rằng, việc phát
triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập sẽ góp phần giảm được áp lực
quá tải tại hệ thống trường mầm non công lập, đồng thời tranh thủ được
nguồn tài chính của các tổ chức, cá nhân để đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy học hiện đại, thu hút đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lí
chất lượng cao, thúc đẩy nhanh quá trình hợp tác quốc tế, đa dạng hóa các sản
phẩm hỗ trợ giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng, tạo môi trường cạnh tranh
nâng cao chất lượng giáo dục, ưu tiên ngân sách cho các địa phương, vùng
khó khăn, rút ngắn khoảng cách về điều kiện tiếp cận giáo dục... Từ đó, mở ra
những cơ hội được học tập trong một môi trường hiện đại, thân thiện, năng
động, hội nhập quốc tế cho trẻ em trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, nâng cao
chất lượng giáo dục mầm non, tạo sự công bằng trong xã hội.


6

Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu ở Việt Nam về lĩnh
vực giáo dục mầm non ngoài công lập. Trong số những nghiên cứu được xem
xét khi thực hiện đề tài này, tôi nhận thấy rằng, một số công trình đang tập
trung nghiên cứu hoạt động giáo dục mầm non ngoài công lập nhìn từ góc độ

của nhà quản lí giáo dục hoặc được đề cập trong Quy chế của Bộ GD&ĐT,
trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam, của thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 2001-2010, giai đoạn 2011-2020. Những công trình này
hướng đến phạm vi bao quát, tuy đã ít nhiều đề cập đến các giải pháp phát
triển giáo dục mầm non ngoài công lập nhưng chỉ dừng lại ở việc đánh giá
chất lượng giáo dục và chăm sóc trẻ, chưa nêu bật được đặc trưng của dịch vụ
giáo dục mầm non ngoài công lập trong chuỗi liên hệ chặt chẽ.
Năm 1999, trong cuốn sách “Giáo dục hướng tới thế kỷ 21”, Nguyễn
Đình Cự đã khái quát xu hướng phát triển giáo dục của thế giới trong thế kỷ
XXI là: tập trung phát triển toàn diện giáo dục từ giáo dục phổ thông tới
chuyên nghiệp, đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển giáo dục. Trong công trình
nghiên cứu về “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng thể kỷ thứ XXI”, Phạm
Minh Hạc đã chỉ ra những thành công và khiếm khuyết không nhỏ của nền
giáo dục Việt Nam, đặc biệt là sự phát triển không cân xứng và thiên lệch
trong cấu trúc. Sự yếu kém và thiếu thốn dịch vụ giáo dục mầm non đang đặt
ra nhiều thách thức lớn cho sự phát triển bền vững của giáo dục Việt Nam và
sự phát triển kinh tế nước nhà trong bối cảnh kinh tế tri thức.
Tiếp đó vào năm 2002, Phạm Minh Hạc và nhóm tác giả đã xuất bản
cuốn sách “Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI”. Trong công trình này, các
tác giả đã tổng kết kinh nghiệm cải cách giáo dục của thế giới, trong đó có
kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục, quản lý giáo dục… Tuy chỉ tập trung vào
những vấn đề giáo dục chung nhưng vẫn có giá trị để phát triển mở rộng


7

hướng nghiên cứu cho phát triển giáo dục mầm non ngoài công lập ở Việt
Nam nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu thành tựu đổi mới giáo dục từ các nước trên thế
giới, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã xuất bản một số công trình quan

trọng. Tiêu biểu như cuốn “Phát triển và cải cách giáo dục của Trung Quốc
cho thế kỷ XXI” năm 1997 và “Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ
XXI, kinh nghiệm của các quốc gia” năm 2002. Qua các công trình này,
chúng ta nhận thấy các nước trên thế giới đã xác định đúng tầm quan trọng
của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là sau hàng loạt các lí
thuyết tăng trưởng kinh tế theo mô hình nội sinh được vận dụng. Các nghiên
cứu cũng chỉ ra những cải cách giáo dục đi liền với cải cách kinh tế và được
thừa hưởng thành quả của phát triển. Nhưng điều đáng quan tâm ở đây chính
là nghiên cứu đã chỉ ra những biện pháp mang tính cải cách được áp dụng như
cùng với đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non thì nhà nước cũng quan tâm
và hỗ trợ đáng kể cho các trường ngoài công lập. Sự hỗ trợ của chính phủ
cũng có sự khác biệt đối với những vùng khó khăn. Điều này đã rút ngắn
khoảng cách giữa các vùng trong nước.
Ở một số bài viết như “Từ tình hình phát triển trường ngoài công lập của
Liên Bang Nga, Trung Quốc và Việt Nam: Thử tìm giải pháp có tính đột phá
về lĩnh vực này” trên Tạp chí Giáo dục và Thời đại của Nguyễn Như Ất năm
2001, “Tăng cường đổi mới ở Canada” của Valdemar Larsen & Dan Rowe
năm 2002 do Viện nghiên cứu phát triển giáo dục dịch... đã tổng kết tình hình
phát triển giáo dục ngoài công lập ở các quốc gia trên thế giới, trong đó có
giáo dục mầm non. Những vấn đề có ảnh hưởng rất lớn cho sự phát triển của
khu vực này là cơ chế quản lý của nhà nước thiếu nhất quán và chưa phát huy
vai trò của giáo dục mầm non ngoài công lập. Các nhà quản lý còn rất lúng
túng trước một đối tượng quản lý đang có chuyển biến nhanh và đi trước


8

những quy định hiện thời. Tác giả đã kiến nghị phải đẩy nhanh quá trình cải
cách hành chính, hoàn thiện thể chế giáo dục để tháo gỡ khó khăn cho sự phát
triển của khu vực này.

Tác giả Bùi Quang Bình trong “Giáo trình Kinh tế phát triển” năm 2010
đã khẳng định những lợi ích to lớn mà xã hội nhận được khi phát triển các bậc
giáo dục dưới trung học. Tác giả cũng chỉ ra những vấn đề trong phát triển
giáo dục ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đó là thiếu công
bằng và hiệu năng. Thiếu công bằng khi phân bố không hợp lí, thiếu hiệu
năng do giáo viên giỏi có trình độ thường tập trung ở đồng bằng và thành thị.
Ở nông thôn và vùng sâu vùng xa vừa thiếu giáo viên, nhất là giáo viên giỏi,
cuộc sống và sự đãi ngộ rất thấp. Trong nghiên cứu đã khẳng định cần thiết
phải có sự can thiệp của chính phủ mạnh mẽ chứ không theo cơ chế bàn tay
vô hình của thị trường thì mới giải quyết được vấn đề này.
Về phía thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở các quyết định, nghị định của
Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục mầm non ngoài công lập,
UBND thành phố cũng đã ban hành một số chính sách mang tính chiến lược
trong việc phát triển kinh tế, xã hội, dịch vụ đặc biệt là quy hoạch tổng thể
ngành GD đến năm 2020 gắn với việc xã hội hóa giáo dục ở các cấp học, bậc
học nhằm phát triển giáo dục trên địa bàn thành phố.


9

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
DỊCH VỤ GIÁO DỤC MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA DỊCH VỤ GIÁO DỤC
1.1.1 Khái niệm
Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người
cung cấp dịch vụ và khách hàng để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người
tiêu dùng. Một dịch vụ chỉ tồn tại khi tạo ra được niềm tin và uy tín đối với
khách hàng. Dịch vụ ngày càng phát triển và đóng một vai trò ngày càng
quan trọng trong mỗi quốc gia.

Dịch vụ giáo dục là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa
người cung cấp dịch vụ - trường học và khách hàng - người học nhằm đáp
ứng nhu cầu về các kiến thức, kỹ năng để sống và làm việc có cuộc sống và
thu nhập như họ mong muốn.
Theo Luật Giáo dục Việt Nam, hệ thống giáo dục quốc dân được phân
cấp thành các bậc học, cấp học như: giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông
(từ tiểu học tới trung học phổ thông); giáo dục nghề nghiệp; giáo dục đại học.
Dịch vụ giáo dục mầm non: bao gồm dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục trẻ em ở độ tuổi 3 tháng đến dưới 6 tuổi.
Căn cứ vào độ tuổi đối tượng sử dụng dịch vụ giáo dục có thể chia giáo
dục mầm non ra các loại hình; Nhà trẻ, mẫu giáo, mầm non (bao gồm cả mẫu
giáo và nhà trẻ). Tùy vào nguồn cung ứng dịch vụ GDMN sẽ có hình thức
giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập (dân lập, tư thục).
Như vậy, dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập được hiểu là: kết
quả từ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp dịch vụ giáo dục mầm
non ngoài công lập (nhà trẻ và mẫu giáo) và khách hàng (trẻ em từ ba tháng


10

tuổi tới dưới sáu tuổi) để đáp ứng nhu cầu về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục.
Theo quan điểm phát triển là sự lớn lên về quy mô, tăng trưởng về số
lượng, hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế và chất lượng. Phát triển dịch vụ
giáo dục mầm non ngoài công lập là sự tăng lên về loại hình, chủng loại các
dịch vụ GDMN, tăng lên số lượng, tỉ lệ học sinh các cơ sở GDMNNCL đảm
trách. Sự bao phủ của mạng lưới, đa dạng hóa các dịch vụ hỗ trợ, nâng cao
chất lượng dịch vụ. Hoàn thiện về cơ cấu, chính sách, quy định pháp luật đáp
ứng việc phát triển giáo dục MNNCL nói riêng và giáo dục nói chung.
1.1.2. Đặc điểm

a. Dịch vụ giáo dục có những đặc điểm chung của dịch vụ sau đây:
Tính phi vật thể
Đặc tính này là giá trị riêng có của một dịch vụ, thực tế phản ánh rằng
khách hàng nhận được sản phẩm thực tế từ kết quả hoạt động dịch vụ là rất ít,
kết quả thường là sự trải qua hơn là sự sở hữu. Tính phi vật thể - đây là đặc
điểm quan trọng nhất của dịch vụ giáo dục. Học sinh - người sử dụng dịch vụ
không thể tiêu dùng trực tiếp dịch vụ đó trước khi mua nó. Nói cách khác, quá
trình sản xuất ra dịch vụ cũng gắn liền với quá trình tiêu thụ nó. Dịch vụ đồng
hành với sản phẩm vật chất nhưng nó lại tồn tại dưới dạng phi vật chất nên
người sử dụng – học sinh chỉ có thể đánh giá được chất lượng của dịch vụ khi
trực tiếp sử dụng nó. Tính phi vật thể của dịch vụ làm cho khách hàng khó
khăn trong việc đánh giá các dịch vụ cạnh tranh. Khi tiêu dùng dịch vụ khách
hàng thường gặp rủi ro, họ thường dựa vào các nguồn thông tin cá nhân, đôi
khi giá cả cũng không thể quyết định cho chất lượng dịch vụ. Chính vì đặc
điểm quan trọng này buộc các nhà cung cấp phải có trách nhiệm trong việc
tạo dựng thương hiệu thông qua cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác, chân


11

thực và khách quan về những tiện ích và ưu việt của dịch vụ đối với du khách
để họ thực sự yên tâm và hài lòng về quyết định mua sản phẩm dịch vụ.
Tính tương tác
Dịch vụ giáo dục được sản xuất và tiêu thụ đồng thời nên cung cầu dịch
vụ không thể tách rời, tiến hành đồng thời, không có thời gian giữa sản xuất
và tiêu dùng để kiểm tra sản phẩm hỏng.
Tính không đồng nhất và khó định lượng
Người học là một bộ phận của cả quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm. Tính đặc thù này được quy định bởi sản xuất và tiêu thụ dịch vụ giáo
dục diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định nên không tạo ra

khoảng cách giữa người học và người sản xuất dịch vụ - nhà trường. Nói cách
khác, người tiêu dùng không chỉ hưởng thụ một cách thụ động sản phẩm dịch
vụ được cung ứng, mà họ còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thông
qua việc phản hồi của họ với nhà cung cấp về chất lượng và mức độ hoàn
thiện của sản phẩm. Vì vậy, không có sự đồng nhất trong việc thụ hưởng sản
phẩm, mỗi khách hàng có sự cảm thụ riêng của mình dẫn đến khó định lượng
đối với cùng một sản phẩm.
Tính không lưu trữ, cất giữ
Quyền sở hữu không được chuyển giao khi mua và bán. Đây là một đặc
thù riêng có của loại hình sản phẩm dịch vụ khi đem trao đổi trên thị trường.
Vì là sản phẩm không thể di chuyển trong không gian, không thể lưu trữ, cất
giữ, là sản phẩm phi vật thể có tính đồng nhất trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, nên khách hàng chỉ đang mua quyền sử dụng sản phẩm chứ không hề
mua được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ đó. Khi quyền sử dụng của du
khách không còn thì cũng là lúc nhà cung cấp toàn quyền sở hữu đối với sản
phẩm dịch vụ đó.


12

b. Đặc điểm của dịch vụ giáo dục mầm non
Dịch vụ giáo dục mầm non theo Luật Giáo dục bao gồm dịch vụ nhà trẻ
và mẫu giáo. Do đó ngoài những đặc điểm chung trên thì dịch vụ giáo dục
mầm non còn có những đặc điểm riêng:
Khách hàng của dịch vụ giáo dục mầm non là trẻ em từ 3 tháng tuổi đến
dưới 6 tuổi nên khả năng cảm nhận chất lượng dịch vụ chủ yếu dựa trên cảm
tính như thích đến trường, mến cô giáo... Tuy nhiên, người quyết định lựa
chọn dịch vụ không phải là trẻ mà chính là phụ huynh của trẻ. Do vậy, dịch
vụ giáo dục mầm non dễ bị tổn thương.
Cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục mầm non, nhất là dịch vụ giáo mầm

non ngoài công lập không chỉ là một ngôi trường thuần túy mà nó còn được
hiểu như ngôi nhà thứ hai của trẻ. Giáo viên, nhân viên giáo dục, chăm sóc trẻ
tại các cơ sở giáo dục này không chỉ nắm vững chuyên môn nghiệp vụ của
một người làm dịch vụ, mà còn phải có những phẩm chất, đạo đức của một
nhà giáo, đặc biệt là phải có “tấm lòng của một người mẹ”.
Quá trình cung cấp dịch vụ giáo dục mầm non nói chung và giáo dục
mầm non ngoài công lập nói riêng còn phải tuân thủ nghiêm túc những quy
định của nhà nước về y tế và bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Dịch vụ giáo dục phải phân bố theo quy mô dân số và tỷ lệ trẻ em trong
nhóm tuổi mầm non, cũng như nhu chất lượng, sự đa dạng của dịch vụ hỗ trợ
người học.
c. Dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập
Là những dịch vụ giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng cho các cháu mầm
non độ tuổi từ 3 tháng đến dưới 6 tuổi, do các các cơ sở giáo dục mầm non
ngoài công lập trong và ngoài nước cung cấp, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
phong phú của người học.


13

1.1.3. Ý nghĩa
Trong nhiều năm, định đề cho rằng sự mở rộng giáo dục đã thúc đẩy,
thậm chí quyết định tốc độ tăng trưởng (GNP) được coi là hiển nhiên. Các
nước đang phát triển đã rất thiếu những nguồn nhân lực có kỹ năng bậc trung
bình và bậc cao. Khi thiếu nguồn nhân lực này thì sẽ thiếu sự lãnh đạo để phát
triển trong cả hai khu vực nhà nước và tư nhân. Khi không có những sự lãnh
đạo, việc lập kế hoạch, quản lý và điều hành nền kinh tế, sự tăng trưởng có
thể bị chậm lại.
Những con số thống kê và những công trình nghiên cứu về “nguồn tăng
trưởng kinh tế” ở các nước phương Tây đã chỉ ra rằng, không phải sự tăng

trưởng của vốn hiện vật mà sự tăng trưởng của vốn con người đã là nguồn
chính của sự tiến bộ ở các quốc gia phát triển.
- Giáo dục mầm non nói chung và GDMNNCL nói riêng có vai trò hết
sức quan trọng trong mỗi đời người, đặt nền móng cho việc phát triển thể
chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ em, chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp
1.
- Sự mở rộng và phát triển của dịch vụ giáo dục ở mọi cấp đã góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế tổng thể thông qua việc: (1) Tạo ra một lực lượng
lao động có năng suất cao hơn, có những hiểu biết và kỹ năng cao hơn; (2)
Tạo ra nhiều việc làm và những cơ hội kiếm được thu nhập cho các giáo viên,
những người làm việc trong các trường học, những người xây dựng, những
nhà in sách giáo khoa, những nhà sản xuất quần áo đồng phục học sinh…; (3)
Tạo ra một tầng lớp những người lãnh đạo có học vấn để điền vào chỗ trống
trong các công sở của nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân và trong những
nghề khác; (4)Tạo cơ hội đầu tư cho các tổ chức cá nhân.
- Phát triển GDMNNCL là cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa của chính
phủ việc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát huy tiềm năng trí


14

tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo cho sự nghiệp
giáo dục. Tăng cơ hội tiếp cận thành quả giáo dục cho trẻ em ở mọi tầng lớp
do việc tăng mức đầu tư với ngân sách chính phủ, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Cho dù sự so sánh về chi phí - lợi ích xã hội của những phương án đầu
tư khác nhau vào kinh tế có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế còn lớn hơn nữa,
nếu có thể tính toán được như vậy thì cũng không nên làm giảm giá trị những
đóng góp quan trọng, cả về mặt kinh tế lẫn phi kinh tế mà giáo dục có thể tạo
ra và đã tạo ra cho sự tăng trưởng kinh tế tổng thể, vì rằng một lực lượng lao
động có học vấn và có kỹ năng là điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng kinh

tế là điều không thể phủ nhận.
1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC
MẦM NON NGOÀI CÔNG LẬP
1.2.1. Nội dung phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập
Phát triển dịch vụ GDMNNCL được hiểu là quá trình mở rộng các loại
hình, chủng loại dịch vụ, hoàn thiện điều kiện để các các cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập trong và ngoài nước không phải do chính phủ cung cấp,
nhiều hơn, tốt hơn và đa dạng hơn dịch vụ giáo dục mầm non công lập như
hình thành, mở rộng và phân bố mạng lưới cung cấp, cơ sở vật chất trường
lớp với một đội ngũ giáo viên có trình độ phù hợp nâng cao chất lượng giáo
dục, đáp ứng ngày càng nhiều, đa dạng các nhu cầu chăm sóc nuôi dưỡng hỗ
trợ người học ngoài các hoạt động giáo dục như chăm sóc ngoài giờ, đưa đón,
nha học đường, tư vấn tâm lý, dinh dưỡng cho học sinh và phụ huynh…
Quá trình này được thực hiện bởi chính phủ hay các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước không thuộc chính phủ. Nhưng dù là ai thì đều phải tuân
thủ các quy định về tiêu chuẩn của chính phủ. Các nội dung bao gồm:
a. Phát triển loại hình và chủng loại dịch vụ GDMNNCL
Loại hình nhà trẻ:


15

Tùy vào độ tuổi của đối tượng sử dụng, dịch vụ giáo dục ở độ tuổi nhà
trẻ được phân vào các nhóm lớp tương ứng với chủng loại dịch vụ đặc thù
phù hợp với yêu cầu chăm sóc và giáo dục của tâm lý lứa tuổi như:
- Nhóm từ 3 tháng đến 6 tháng: tập trung cho việc chăm sóc và nuôi
dưỡng ở yêu cầu đòi hỏi sự cẩn trọng và mức phối hợp của các bà mẹ.
- Nhóm 6 đến 12 tháng: chủ yếu là dịch vụ chăm sóc nuôi dưỡng.
- Nhóm 12 đến 18 tháng : bao gồm các dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục

- Nhóm 18 đến 24 tháng: bao gồm các dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục
- Nhóm 24 đến 36 tháng: bao gồm các dịch vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và
giáo dục
Loại hình mẫu giáo: Tương tự như vậy ở nhóm trẻ mẫu giáo tùy vào
đối tượng sử dụng mà dịch vụ GDMN có những chủng loại riêng phù hợp với
từng lớp học, nhưng đều phải đòi hỏi cả 3 chủng loại dịch vụ chính đó là
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục để giúp các cháu phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ, tình cảm và thẩm mỹ. loại hình mẫu giáo gồm có các cấp:
-

Mẫu giáo bé (từ 3 đến 4 tuổi)

-

Mẫu giáo nhỡ (Từ 4 đến 5 tuổi)

-

Mẫu giáo lớn (từ 5 đến dưới 6 tuổi)
Ngoài các dịch vụ cơ bản của GDMN nói trên, GDMNNCL cũng có lợi
thế từ sự linh hoạt trong cơ chế và năng lực quản lý GDMNNCL có thể đáp
ứng nhiều các phân khúc hẹp, nhiều nhu cầu đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ
người học.
b. Phát triển mạng lưới dịch vụ
Phát triển dịch vụ giáo dục mầm non ngoài công lập là việc tăng thêm,
mở rộng, đa dạng dịch vụ hỗ trợ và nâng cao chất lượng các dịch vụ của các


16


cơ sở giáo dục ngoài công lập. Quá trình này đòi hỏi phải mở rộng và phân bố
mạng lưới dịch vụ giáo dục là quá trình hình thành, phân bổ các hệ thống các
cơ sở cung cấp dịch vụ, chẳng hạn với giáo dục mầm non là các nhà trẻ và
trường mẫu giáo trên mỗi vùng lãnh thổ hay địa phương. Quá trình này cũng
là quá trình bao phủ dịch vụ xã hội cung cấp cho dân cư ở đó. Đây cũng là
quá trình gia tăng các dịch vụ giáo dục cho xã hội. Đồng thời thông qua quá
trình này mỗi cơ sở cũng sẽ tăng thêm các dịch vụ ngoài những dịch vụ cơ
bản của mình như: dạy học, cung cấp kiến thức, chăm sóc cho trẻ thì có thêm
các trò chơi khuyến khích trẻ phát huy khả năng và năng lực giao tiếp, thể
lực…, khám sức khỏe định kỳ, bữa ăn tại trường ngoài bữa chính, giữ thêm
ngoài giờ, đưa đón trẻ…
Dịch vụ giáo dục mầm non nhằm cung cấp cho khách hàng là học sinh.
Phân bố dân số trên lãnh thổ của mỗi địa phương theo quá trình phân bố sản
xuất của nền kinh tế. Dịch vụ giáo dục nói chung và dịch vụ giáo dục mầm
non nói riêng thuộc dịch vụ hạ tầng xã hội phục vụ dân cư ở mỗi vùng. Ở đâu
có dân cư sinh sống thì sẽ có các dịch vụ hạ tầng xã hội này. Mật độ các cơ sở
cung cấp dịch vụ này phụ thuộc vào dân số mỗi địa phương hay khu vực nào
đó. Thông thường mạng lưới dịch vụ giáo dục này được quy hoạch phát triển
cùng với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của mỗi địa phương.
Dịch vụ giáo dục này càng có nhu cầu tăng cao và do đó mạng lưới
trường lớn có nhu cầu ngày càng mở rộng. Đó là do (1) đặc điểm dân số của
các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng tăng nhanh, dân số
trẻ chiếm tỷ trọng lớn; (2) nhu cầu về dịch vụ giáo dục nói chung và mầm non
nói riêng tăng nhanh theo, ngoài ra kinh tế ngày càng phát triển, đời sống
được cải thiện cũng khiến nhu cầu về dịch vụ này tăng cao. (3) Sự phát triển
của xã hội nói chung và sự tham gia ngày càng nhiều của phụ nữ trong các


17


hoạt động kinh tế xã hội, cần ngày càng nhiều các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc ,
nuôi dưỡng trẻ là yêu cầu tất yếu cho sự đa dạng các dịch vụ hỗ trợ.
c. Phát triển đội ngũ giáo viên, nhân viên, cán bộ quản lý
Phát triển đội ngũ giáo viên là quá tŕnh tăng thêm số lượng giáo viên đi
cùng với nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên. Do đặc điểm của dịch vụ
giáo dục khó có thể thay thế bằng máy móc để tự động hóa và chất lượng của
dịch vụ này phụ thuộc vào chất lượng của giáo viên. Nên quá trình phát triển
phải bảo đảm được phát triển cả về lượng và chất.
Phát triển về số lượng được bảo đảm bằng việc tuyển dụng giáo viên
hàng năm của các cơ sở giáo dục từ các trường sư phạm theo các tiêu chuẩn
của ngành sư phạm và đặc thù của mỗi vùng mỗi cơ sở.
Phát triển về chất lượng giáo viên là quá trình nâng cao kiến thức, kỹ
năng, nhận thức và động lực của giáo viên để họ có thể đảm đương được công
việc. Phát triển kiến thức của giáo viên là nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho họ. Trong thời đại hiện nay, sự phát triển như vũ bão của khoa
học và công nghệ yêu cầu người giáo viên phải có kiến thức học vấn cơ bản,
kiến thức chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng lao động tốt để có khả năng tiếp
thu và ứng dụng công nghệ mới. Người lao động phải làm việc một cách chủ
động, linh hoạt và sáng tạo, sử dụng được các công cụ, phương tiện lao động
tiên tiến, hiện đại. Trong những năm gần đây, người ta đề cập nhiều tới việc
phát triển nền kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó khoa học và
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là yếu tố quyết định hàng đầu
việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Trong nền
kinh tế tri thức, việc nâng cao không ngừng kiến thức cho người lao động là
yếu tố vô cùng cần thiết. Phát triển kiến thức có ý nghĩa trong việc nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả trong lao động.


18


Đội ngũ cán bộ quản lý, nhân viên nhà trường: Ngoài đội ngũ giáo viên
trực tiếp giảng dạy, việc phát triển đội ngũ nhân viên có ý nghĩa trong việc
phát triển các dịch vụ giáo dục, đặc biệt các dịch vụ hỗ trợ cho học sinh ở độ
tuổi mầm non trong nhu cầu phát triển ngày càng đa dạng dịch vụ và yêu cầu
chất lượng ngày càng cao của người học. Bên cạnh đấy là đội ngũ những nhà
quản lý tham gia công tác tổ chức quản lý các dịch vụ và chất lượng dịch vụ.
Để dịch vụ mầm non ngoài công lập phát triển cần có một đội ngũ các nhà
quản lý được đào tạo không chỉ nghiệp vụ chuyên môn quản lý như hệ thống
công lập mà cần có ở họ một sự năng động, hiểu biết các vấn đề kinh tế, đảm
trách công tác quản lý ngày càng chuyên nghiệp để đáp ứng sự phát triển của
các dịch vụ, điều mà hệ thống công lập còn chậm trong công tác đáp ứng.
Cách thức để phát triển kiến thức của nguồn nhân lực, (1) nâng cao
kiến thức là yếu tố cốt lõi của phát triển nhân lực bằng nhiều hình thức,
trong đó chủ yếu là thông qua đào tạo; (2) trong đào tạo, bao gồm cả đào
tạo dài hạn, ngắn hạn; đào tạo theo trường lớp, đào tạo trong môi trường
làm việc thực tiễn.
Phát triển kỹ năng của người giáo viên là làm gia tăng sự khéo léo, sự
thuần thục, thành thạo trong công việc dạy dỗ học trò. Phải gia tăng kỹ năng
của họ vì kỹ năng chính là yêu cầu của quá trình dạy học trong các trường và
nhu cầu xã hội. Để nâng cao kỹ năng của nhân lực cần phải huấn luyện, đào
tạo; phải thường xuyên tiếp xúc với công việc để tích lũy kinh nghiệm.
Nâng cao nhận thức cho giáo viên có thể hiểu là một quá trình đi từ trình
độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận
thức thông tin đến trình độ nhận thức khoa học. Vì vậy, việc nâng cao trình độ
nhận thức cho người lao động là nhiệm vụ quan trọng mà công tác phát triển
nguồn nhân lực phải quan tâm, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến công việc của tổ
chức. Tiêu chí để đánh giá trình độ nhận thức của người lao động đối với tổ



19

chức gồm có, (1) ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần tự giác và hợp tác; (2) có
trách nhiệm và niềm say mê nghề nghiệp, yêu nghề, năng động trong công
việc; (3) thể hiện trong các mối quan hệ xã hội, thái độ trong giao tiếp, ứng xử
trong công việc và cuộc sống.
Động lực là trạng thái tâm lý nội sinh gây ra, duy trì hoạt động của cá
nhân và khiến cho hoạt động ấy diễn ra theo mục tiêu, phương hướng nhất
định. Động cơ là những gì thôi thúc con người có những ứng xử nhất định
một cách vô thức hay hữu ý và thường gắn với nhu cầu.
d. Phát triển về cơ sở vật chất giáo dục, công nghệ quản lý nâng cao
chất lượng giáo dục (chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường mầm non
thông tư 07/2011/TT-BGDĐT)
Phát triển cơ sở vật chất giáo dục là quá trình tạo ra mở rộng, nâng cấp
hệ thống trường lớp và các cơ sở vật chất đi cùng.
Dịch vụ giáo dục gắn liền với cơ sở vật chất trường lớp là một bộ phận
cấu thành chất lượng giáo dục. Cơ sở vật chất của giáo dục bao gồm nhà cửa
kiến trúc, trang thiết bị phục vụ chăm sóc trẻ, dạy dỗ trẻ và bảo đảm môi
trường vui chơi cho trẻ…. Cơ sở vật chất giáo dục gắn liền với đất đai dành
cho giáo dục và được tính toán phân bố trong quy hoạch. Tuy nhiên, công tác
quy hoạch của nhiều địa phương ở nước ta còn nhiều hạn chế nên đất dành
cho trường học nhiều nơi không bảo đảm diện tích phù hợp và phân bố bất
hợp lý không bảo đảm phù hợp với môi trường giáo dục.
Thông thường tùy theo cấp học và điều kiện cụ thể mà có tiêu chuẩn cơ
sở vật chất cho mỗi cấp học. Chẳng hạn diện tích lớp học và vui chơi giải trí
bình quân trên mỗi học sinh, ánh sáng, nhiệt độ, bàn ghế, bảng…
Cơ sở vật chất cho giáo dục mầm non ngoài công lập phụ thuộc vào
nguồn đầu tư từ các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước. Ở nước ta
nguồn đầu tư từ nhà nước và các địa phương có hạn nên nguồn đầu tư ngoài



20

nhà nước đang được coi trọng thu hút. Nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân đang
tạo ra những cơ sở giáo dục có chất lượng khá cao bổ sung nguồn cung dịch
vụ giáo dục cho xã hội, trong đó đáng kể nhất là dịch vụ giáo dục mầm non,
ngoài ra còn có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ.
Công nghệ quản lý đi cùng với việc sử dụng hiệu quả trang thiết bị, cơ sở
vật chất. Phát triển cơ sở vật chất giáo dục phải gắn liền, đồng bộ với việc
phân bổ mạng lưới và phát triển đội ngũ giáo viên, nhân viên, đặc biệt là công
nghệ quản lý. Cơ sở vật chất, công cụ, trang thiết bị dạy học có tính chất hỗ
trợ giúp cho đội ngũ thực hiện các công việc, một khi chất lượng yêu cầu cao
đồng nghĩa với việc ứng dụng dụng cụ và công nghệ giảng dạy ngày càng
nhiều. Trong tiêu chí xây dựng trường chuẩn bộ đã quy định hết sức cụ thể
các điều kiện hạ tầng từ diện tích lớp học, sân chơi, phòng chức năng…đến
công tác tổ chức quản lý quyết định chất lượng.
Bộ giáo dục đã có những quy định chặt chẽ các yếu tố này nhằm đảm
bảo và nâng cao chất lượng giáo dục. Quyết định số: 36/ 2008/QĐ- BGD&ĐT
ngày 16 tháng 07 năm 2008 đã ban hành quy chế công nhận trường mầm non
đạt chuẩn quốc gia, đây là cơ sở để các đơn vị chuẩn bị điều kiện hạ tầng đảm
bảo cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục mầm non.
1.2.2. Tiêu chí (chuẩn mầm non 5 tuổi, quy chế công nhận trương chuẩn
quốc gia, điều lệ trường mầm non… )
Các tiêu chí phản ánh sự phát triển dịch vụ giáo dục gồm các nhóm sau:
(1) Nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng chủng loại, loại hình GDMN
Để đánh giá chất lượng từng chủng loại dịch vụ tương ứng với loại hình
mẫu giáo Bộ GDĐT đã có những quy định chuẩn đánh giá, tùy vào nhóm lớp
có mức đánh giá khác nhau dựa trên 4 lĩnh vực phát triển của trẻ:
- Phát triển thể chất: 6 chuẩn gồm: chuẩn về khả năng kiểm soát và phối
hợp vận động ở các nhóm cơ lớn, kiểm soát và phối hợp vận động ở các nhóm



×