Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vào việc giáo dục cho thế hệ trẻ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.72 KB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN THỊ VĨNH

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA
CỦA NGUYỄN TRÃI VÀO VIỆC GIÁO DỤC
CHO THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng - Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHAN THỊ VĨNH

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA
CỦA NGUYỄN TRÃI VÀO VIỆC GIÁO DỤC
CHO THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ THỊ TUYẾT BA



Đà Nẵng - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Phan Thị Vĩnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 3
5. Kết cấu luận văn.................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................... 3

CHƯƠNG 1. NGUYỄN TRÃI VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI................................. 8
1.1. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN TRÃI ..................... 8
1.1.1. Cuộc đời .......................................................................................... 8
1.1.2. Sự nghiệp ...................................................................................... 14

1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA

NGUYỄN TRÃI ..................................................................................... 18
1.2.1. Tư tưởng Nho giáo........................................................................ 18
1.2.2. Truyền thống của dân tộc.............................................................. 23

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ......................................................................... 31
CHƯƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG
NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ....... 32
2.1. TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI .................... 32
2.1.1. Tư tưởng yêu nước, thương dân ................................................... 32
2.1.2. Tinh thần khoan dung ................................................................... 46

2.2. GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TƯ TƯỞNG
NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI ................................................. 52


2.2.1. Giá trị lý luận ................................................................................ 52
2.2.2. Giá trị thực tiễn ............................................................................. 55

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ......................................................................... 62
CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI CHO THẾ HỆ
TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY............................................................ 63
3.1. THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA THẾ HỆ TRẺ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY .......................................................................... 63
3.1.1. Vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển đất nước .................... 63
3.1.2. Những biến động trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ hiện nay.. 70

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG VIỆC GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG
NHÂN NGHĨA CHO THẾ HỆ TRẺ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY .......... 77
3.2.1. Nội dung giáo dục tư tưởng nhân nghĩa ....................................... 77

3.2.2. Các giải pháp cơ bản nhằm giáo dục tư tưởng nhân nghĩa cho thế
hệ trẻ ở nước ta hiện nay......................................................................... 83

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ......................................................................... 91
KẾT LUẬN ............................................................................................ 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (bản sao)


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân nghĩa là một trong những truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống đó được kế thừa và phát triển theo chiều dài của lịch
sử. Nó từng là cơ sở để các nhà tư tưởng theo trường phái Nho gia ở Trung
Hoa xây dựng đường lối trị nước bằng việc giáo hóa đạo đức (đức trị).
Đường lối đó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các triều đại phong kiến ở Việt
Nam. Tuy nhiên, các Nho gia Việt Nam đã tìm về với Nho giáo nguyên
thủy, Nho giáo thời Khổng Mạnh để xóa bỏ nhân nghĩa giả hiệu và chủ
trương lấy dân làm gốc.
Một trong những nhà Nho tiêu biểu cho tư tưởng nhân nghĩa - người
được ví như ngôi sao Khuê trên bầu trời Việt - đó là Nguyễn Trãi, người anh
hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, người đã có công trong việc phò tá vua
Lê xây dựng nghiệp lớn. Tư tưởng của Nguyễn Trãi đã đạt tới tầm cao của
thời đại. Bằng việc khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, ông đã đưa tư duy của dân tộc lên một trình độ mới.
Tư tưởng của ông không chỉ có ý nghĩa trong một giai đoạn cụ thể mà còn có
ý nghĩa lâu dài trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết tinh của tài năng, nhân
cách của ông với sự kế thừa truyền thống của dân tộc và sự vận dụng sáng tạo
học thuyết Nho giáo vào thực tiễn xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi đã vượt ra khỏi khuôn khổ của Nho giáo, có ý nghĩa phương
pháp luận và nhân sinh quan sâu sắc.
Cùng với thời gian, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn
nguyên giá trị. Nó trở thành một trong những nền tảng để các bậc anh hùng
hào kiệt đời sau và nhân dân Việt Nam kế thừa và phát huy, nhằm góp phần
xây dựng một dân tộc Việt Nam giàu mạnh.


2
Với mong muốn hiểu rõ hơn về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi,
góp phần đưa tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đi vào lòng người và giáo
dục cho thế hệ trẻ - những người chủ của đất nước có thể vượt qua những
chướng ngại vật của thời đại kinh tế thị trường, để họ có thể cống hiến hết
mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, em đã mạnh dạn chọn vấn
đề “Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vào việc giáo dục cho
thế hệ trẻ hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi và việc kế thừa, phát huy tư tưởng đó trong giáo dục thế hệ trẻ ở
nước ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên đề tài có các nhiệm vụ sau:
1. Trình bày các đặc điểm về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi,
các tiền đề hình thành tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
2. Trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản về tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.

3. Đề xuất một số giải pháp nhằm giáo dục tư tưởng nhân nghĩa cho thế
hệ trẻ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi.
Phạm vi nghiên cứu: luận văn đi sâu phân tích những nội dung cơ bản
trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và việc kế thừa tư tưởng đó trong
điều kiện hiện nay.


3
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh.
- Phương pháp lôgic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch
- Kết hợp lý luận và thực tiễn
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần nội dung
của đề tài gồm có 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Nguyễn Trãi và cơ sở hình thành tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi.
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi và giá trị của nó.
Chương 3: Những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục tư tưởng nhân nghĩa
của Nguyễn Trãi cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Góp phần vào việc nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi.
- Luận văn góp phần đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục tư

tưởng nhân nghĩa cho thế hệ trẻ.
- Ngoài ra, luận văn còn là đề tài tham khảo cho các cá nhân, tổ chức
quan tâm đến vấn đề này.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Nguyễn Trãi là một tác giả, một nhà tư tưởng lớn. Trong nhiều năm qua
đã có rất nhiều công trình của các nhà triết học, nhà nghiên cứu về ông, trên
cả bình diện văn thơ và tư tưởng. Chúng ta có thể kể đến một số công trình
như:


4
- “Nguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc” (1962), Tác giả: Phạm Văn
Đồng, Võ Nguyên Giáp in trên báo nhân dân số 3099, ngày 19-9-1962; Các
tác giả đã dẫn một số câu thơ của Nguyễn Trãi để phân tích tư tưởng của ông,
nhất là tư tưởng vì nước vì dân, từ đó khẳng định công lao to lớn của Nguyễn
Trãi đối với dân tộc.
- “Vài nét về tư tưởng của Nguyễn Trãi qua thơ văn ông” (1962) của tác
giả Trần Thanh Mại, được in trong tập san nghiên cứu văn học. Tác giả đã
phân tích thơ văn Nguyễn Trãi để chứng minh Nguyễn Trãi là một nhà chính
trị sáng suốt, một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà ngoại giao thiên tài, đồng thời
cũng là một nhà nghiên cứu sử địa và một nhà thơ lớn. Tác giả cũng đã điểm
qua một số nét trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, nhất là tư tưởng nhân nghĩa
của ông.
- “Văn chương Nguyễn Trãi rực ánh sao khuê” (2000), Tác giả: GS. Bùi
Văn Nguyên, Nxb Khoa học xã hội; Tác giả đã tìm hiểu văn chương Nguyễn
Trãi trong chiều sâu triết học của nó, tìm hiểu về thời đại, gia đình, cuộc đời
và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Trãi.
- “Sự phát triển của Nguyễn Trãi về khái niệm dân tộc” (2002) Tác giả:
TS. Trần Hồng Lưu, Tạp chí triết học số 3, tr.24-28; tác giả đã so sánh, đối
chiếu quan niệm về dân tộc của Nguyễn Trãi so với quan niệm về dân tộc

trước và sau Nguyễn Trãi, để thấy được đóng góp to lớn của ông đối với vấn
đề dân tộc.
- “Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước” (2003), Tác giả: Nguyễn Lương
Bích, Nxb. Quân đội Nhân dân; tác giả đã trình bày có hệ thống toàn bộ sự
nghiệp đánh giặc, cứu nước và những hoạt động của Nguyễn Trãi trong 15
năm, từ sau khi đánh thắng quân Minh tới ngày ông mất, trong đó đã làm rõ
mấy điểm:


5
Thứ nhất, Nguyễn Trãi là người yêu nước và thương dân. Nguyễn Trãi là
người vừa tận trung với nước vừa tận hiếu với dân.
Thứ hai, Nguyễn Trãi không chỉ đơn thuần là nhà tư tưởng quân sự như
các nhà binh pháp thời cổ. Ông là nhà chính trị và quân sự lỗi lạc. Tư tưởng
chính trị vĩ đại của ông đã soi đường cho sự hình thành và phát triển những tư
tưởng quân sự ưu tú của ông.
Thứ ba, Nguyễn Trãi là người yêu nước thiết tha đồng thời là nhà chính
trị dân chủ kiên cường của dân tộc ta ở đầu thế kỷ XV. Ý thức dân chủ của
ông rất mạnh. Ông biết kết hợp tinh thần dân tộc với ý thức dân chủ để tiến
hành chiến tranh chống xâm lược thắng lợi. Kết hợp dân tộc với dân chủ đã
sớm trở thành một truyền thống của dân tộc ta để đánh thắng ngoại xâm từ
các thời đại trước.
- Trong cuốn “Triết lý văn hóa Phương Đông” (2004), GS.TS Nguyễn
Hùng Hậu đã chỉ ra nguồn gốc tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi bắt
nguồn từ Nho giáo nhưng đã được Nguyễn Trãi vận dụng trên quan điểm dân
tộc, vì lợi ích đất nước (tr 213).
- Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” (2006), Nxb Thuận Hóa, của
TS. Huỳnh Công Bá, đã xem nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một chủ nghĩa
nhân đạo cao cả và toàn diện. Nguyễn Trãi vì độc lập của dân tộc, hạnh phúc
của nhân dân, hòa bình của đất nước mà suy nghĩ và hành động. Nguyễn Trãi

quan niệm hòa bình, ấm no, sống trong yên vui là tâm lý phổ biến, là nguyện
vọng thiết tha của mọi người, mọi tầng lớp, mọi dân tộc và đó là điều rất tự
nhiên, chân chính (trang 116). Và xem “tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội nhà Lê hồi thế kỷ
XV” (trang 117).
- “Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi” (2007), PGS.TS Lương
Minh Cừ và Th.S Nguyễn Thị Hương, Tạp chí Triết học số 11; đã đề cập đến


6
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi như là một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao
trùm trong suốt cuộc đời hoạt động của ông. Trong bài viết này, các tác giả đã
khẳng định sự kế thừa tư tưởng Nho giáo Khổng Mạnh trong tư tưởng của
Nguyễn Trãi. Bài viết nêu lên một số nội dung cơ bản trong tư tưởng nhân
nghĩa của Nguyễn Trãi như: nhân nghĩa là yêu nước, thương dân; là sự khoan
dung, lòng “hiếu sinh” đối với kẻ thù; là ý tưởng xây dựng một đất nước thái
bình, vua thánh tôi hiền, trên dưới thuận hòa…
- Trong “Giáo án lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam” (2010) của TS.
Trần Ngọc Ánh cũng đã phân tích rõ các nội dung về tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi, đặc biệt tác giả nhấn mạnh tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi là tư tưởng nhân nghĩa vì dân và sự khác biệt về “mức độ của tư duy, ở
chiều sâu của tư tưởng” (tr 26) của Nguyễn Trãi so với những người khác.
- “Nhân nghĩa - nội dung cốt lõi trong toàn bộ tư tưởng triết học Nguyễn
Trãi” của CN.Lê Hữu Lợi đăng trên trang web cũng
đã nghiên cứu tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi với một số nội dung cơ
bản như hai tác giả trên. Tuy nhiên, trong bài viết này, tác giả đã rút ra được
một số giá trị mang tính lý luận và thực tiễn của tư tưởng nhân nghĩa Nguyễn
Trãi.
- “Tư tưởng thân dân trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đến đầu thế kỷ
XX” (2012), Luận văn tốt nghiệp của Trần Thị Hương, Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn, Khoa Triết học; Tác giả đã phân tích tư tưởng lấy
dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn; Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư
tưởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Làm rõ sự kế thừa tư
tưởng thân dân, “lấy dân làm gốc” của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới của
đất nước.
- “Mạch nguồn thơ văn Nguyễn Trãi trong tác phẩm của Hồ Chí Minh”
(2013), Quân đội nhân dân, tác giả Nguyễn Thanh Tú đã khẳng định thơ


7
Nguyễn Trãi là một trong những mạch nguồn tư tưởng và mạch nguồn ngôn
ngữ nghệ thuật ở tác phẩm của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng
sâu đậm từ Nguyễn Trãi, trước hết là tư tưởng vì dân, trọng dân, yêu dân.
Ngoài ra còn một số công trình, bài viết khác có đề cập đến Nguyễn Trãi
như: Lịch sử tư tưởng Việt Nam (1997), tập VI của Nguyễn Đăng Thục, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh; Trong Nho giáo xưa và nay (1999) của Quang Đạm,
Nxb Văn hóa thông tin; Nguyễn Trãi thơ và đời (2012) của Nhóm trí thức
Việt, Nxb Văn học…
Các công trình nghiên cứu về giáo dục các giá trị truyền thống của dân
tộc cho thế hệ trẻ, tiêu biểu như: “Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền
thống trong nền kinh tế thị trường Việt Nam” (1999) đăng trên Tạp chí triết
học của TS. Lê Thị Tuyết Ba; “Thực trạng giáo dục giá trị truyền thống cho
học sinh THPT qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp” (2003) của Đặng
Thúy Anh, Tạp chí triết học số 3; PGS.TS Lê Hữu Ái, TS. Ngô Văn Hà, TS.
Lê Thị Tuyết Ba (2008), “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục
thanh niên hiện nay”, Nxb Đà Nẵng; TS.Trần Hồng Lưu, “Nhân nghĩa trong
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc giáo dục nhân cách cho
thanh niên, sinh viên hiện nay” (2013)…
Những công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập, phân tích, làm rõ về tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng nhân

nghĩa của Nguyễn Trãi trong giáo dục thế hệ trẻ thì chưa đề tài nào nghiên
cứu một cách có hệ thống. Đó là lý do chúng tôi chọn “Vận dụng tư tưởng
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vào việc giáo dục cho thế hệ trẻ hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp của mình.


8
CHƯƠNG 1

NGUYỄN TRÃI VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN TRÃI
1.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, quê quán làng Chi Ngại,
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương sau dời về làng Ngọc Ổi (Nhị Khê) huyện
Thường Tín tỉnh Hà Tây. Về dòng họ nội của Nguyễn Trãi, đến nay, chưa
được rõ lắm. Gia phả họ Nguyễn ở làng Nhị Khê chỉ ghi chép từ đời Nguyễn
Phi Khanh trở xuống. Có nhiều nguyên nhân ẩn giấu gốc tích của họ Nguyễn
ở làng Nhị Khê nhưng nguyên nhân trực tiếp vẫn là vụ án Lệ Chi Viên, vụ án
chính trị thảm khốc giết chết toàn gia tộc Nguyễn Trãi.
Thân sinh của Nguyễn Trãi - Nguyễn Phi Khanh tên thật là Nguyễn
Ứng Long (1345 - 1418) là người học rất giỏi, vì vậy lúc mới 19 tuổi đã
được Trần Nguyên Đán yêu mến và mời về dạy cho con gái là Trần Thị
Thái. Trong quá trình dạy học, ông và bà Thái yêu mến nhau. Sau đó
Nguyễn Ứng Long trở thành con rể của Tư đồ Trần Nguyên Đán. Được sự
động viên của cha vợ, ông đã chăm chỉ dùi mài kinh sử chờ ngày thi cử. Vì
rất thông minh, ham học, nổi tiếng hay chữ, nên ông đã thi đỗ Tiến sĩ tại
cung Trùng Quang ở Sơn Nam hạ (phía ngoài thành phố Nam Định hiện
nay) vào đời vua Trần Duệ Tông (Năm Long Khánh thứ 2, 1374). Nhưng do
hoàn cảnh xuất thân nghèo khó, lại lấy con gái của dòng dõi hoàng tộc nên

ông không được nhà Trần, lúc đó là thượng hoàng Trần Nghệ Tông trọng
dụng. Ông phải trở về Nhị Khê làm nghề dạy học.
Sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, Nguyễn Ứng Long mạnh dạn đổi tên thành
Nguyễn Phi Khanh ra phục vụ triều đình nhà Hồ, giữ chức Hàn lâm học sĩ


9
kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, ít lâu sau được thăng chức Trung thư thị lang
ở Trung thư sảnh.
Giặc Minh sang, nhà Hồ thất bại. Cả triều thần, trong đó có Nguyễn Phi
Khanh đều bị bắt về Trung Quốc. Cuối đời, ông chết ở Yên Kinh (Trung Quốc).
Ông ngoại của Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Ðán. Ông là người thuộc
dòng dõi hoàng tộc, là cháu bốn đời của Chiêu Minh Vương Trần Quang
Khải, tính tình điềm đạm, khẳng khái, có thành tích xuất sắc chống giặc
Chiêm Thành dưới thời Trần Nghệ Tông nên được vua nhà Trần giao cho
chức vụ Tư đồ, quyền ngang Tể tướng. Tuy nhiên, khi ông lên nắm quyền, cơ
nghiệp nhà Trần đã suy vi. Chán nản thời thế, ông xin về ở ẩn tại Côn Sơn
năm 1385 (Xương Phù thứ 9) và mất năm 1390.
Ông ngoại và cha là những người trực tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng yêu
nước thương dân của Nguyễn Trãi sau này. Nguyễn Trãi được thừa hưởng từ
ông ngoại và cha tính tình điềm đạm, học vấn uyên thâm và lòng ưu ái. Ông
ngoại Nguyễn Trãi - Trần Nguyên Đán, tuy làm tới chức Tể tướng, được ở
trong cung điện nguy nga, nhưng ông vẫn luôn nghĩ đến đời sống lầm than
của dân đen, con đỏ.
“Hạn rồi qua lụt đã bao phen
Đau nỗi đồng điền lúa chẳng lên
Ba vạn sách hóa thành giấy vụn
Bạc đầu luống những phụ dân đen!” [38, tr. 63].
Nguyễn Phi Khanh trong một bài thơ tặng nhạc phụ Trần Nguyên Đán
cũng có viết:

“Mênh mông đồng lúa đỏ như thiêu
Khắp chốn kêu than xiết nỗi sầu!...
…Lưới tham quan lại vơ hầu kiệt
Mỡ béo dân lành hút đã hao…” [38, tr. 64].


10
Nguyễn Trãi là con thứ của Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái,
cháu ngoại của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Khi ông vừa tròn 6 tuổi thì mẹ
qua đời, ông phải về Côn Sơn ở với ông ngoại. Năm 1390, quan Tư đồ cũng
mất, ông theo cha trở về sống ở làng Nhị Khê. Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một
thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn rất ham học và quyết chí gắng công học tập,
điều đó được cha ông nói đến trong bài thơ Gia viên lạc:
“Cố viên loạn hậu hữu tiên lư
Lục tuế nhi đồng phả ái thư”
Nghĩa là:
“Vườn xưa sau loạn còn nhà cũ
Sáu tuổi con thơ rất thích sách” [60]
Nguyễn Trãi nổi tiếng là một người học rộng, có kiến thức sâu về nhiều
lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.
Tháng 8 Canh Thìn, năm Thánh Nguyên thứ 1 (1400) khi triều Hồ mở
khoa thi đầu tiên, lúc này Nguyễn Trãi vừa tròn 20 tuổi cũng vào kinh ứng thí
và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) cùng nhiều tài danh khác như Lưu Thúc Kiệm,
Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Nguyễn Mộng Tuân…Mặc dù còn rất trẻ
nhưng ông đã được Hồ Quý Ly cử giữ chức Ngự sử đài Chánh chưởng, một
trong những chức quan đầu triều trong giai đoạn này. Đến tháng chạp năm
Tân Tỵ (1401) thân phụ ông đổi tên là Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan,
được cử giữ chức Học sĩ Viện hàn lâm kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, một
chức quan chuyên về giáo dục nhưng cũng là đại thần, thường do Thượng thư
bộ Lễ đảm nhận.

Thời gian làm quan dưới triều Hồ không lâu, vì năm 1407 quân Minh
sang xâm lược đã bắt được các quan quân triều Hồ giải về nước, trong đó có
Nguyễn Phi Khanh. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi
Hùng khóc theo cha lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới


11
hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù để vẹn tròn chữ hiếu. Tuy nhiên, trên đường
đi nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi: “Con là người có
học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại
hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?” [59].
Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở về tìm kế sách đánh đuổi quân xâm lược,
còn Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc để chăm lo phụng dưỡng khi
già yếu và khi cha mất thì đem hài cốt về quê hương bản quán.
Vâng lời cha, Nguyễn Trãi quay trở về Thăng Long để mưu đồ việc lớn.
Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng
Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên
quyết không theo giặc.
Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), năm
1416 Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa tìm minh chủ
Lê Lợi. Ông gặp Lê Lợi - vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang và
dâng bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình
Ngô sách. Sau khi dâng Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi được chủ soái Lê Lợi
giao cho chức Tuyên phụng đại phu, Học sĩ Hàn lâm viện thừa chỉ. Tuy
không gọi là quân sư nhưng chức quan này lại bao hàm công việc của quân
sư, ngày đêm dự bàn việc quân. Nguyễn Trãi là người thay mặt Lê Lợi viết
các loại văn kiện chỉ đạo nghĩa quân Lam Sơn và giao thiệp với bên ngoài,
đồng thời lại là người tuyên đọc các văn kiện đó. Kế sách bình Ngô từng bước
được thực hiện trong thực tế chỉ đạo cuộc khởi nghĩa.
Năm 1428, khi cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh

đạo giành thắng lợi hoàn toàn, Nguyễn Trãi thay Lê Lợi soạn bài cáo Bình
Ngô nổi tiếng, nhằm bá cáo cho toàn thể nhân dân trong thiên hạ biết về việc
đất nước đã thái bình.


12
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành được thắng lợi, bên cạnh vị chúa công
giỏi điều binh, khiển tướng, sự đoàn kết trên dưới một lòng của các tướng sĩ,
sự đoàn kết, ủng hộ của nhân dân thì công lao của Nguyễn Trãi cũng rất to
lớn, như nhận xét của tác giả Nguyễn Năng Tĩnh: “Nước Việt ta từ Đinh, Lê,
Lý, Trần, đời nào sáng lập cơ nghiệp đế vương, tất cũng đều phải có tướng tá
giúp sức, nhưng tìm được người toàn tài toàn đức như Ức Trai tiên sinh, thật
là ít lắm” [42, tr.176].
Sau khi đánh đuổi giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Trãi trở
thành đầu tàu gương mẫu trong công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, tài
năng và đức độ của ông cũng bắt đầu bị bọn quyền thần ganh ghét. Như trong
Biểu tạ của gián nghị đại phu kiêm tri tam quán sự, Nguyễn Trãi có viết:
“Mua ghen ghét, chuốc gièm pha, chợt nhặng xanh dơ vết/ Mới biết quả hợp
(thẳng thắn) thì người khó thích” [42, tr.172]. Ðặc biệt, sau vụ việc Trần
Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn Trãi bị bắt giam một thời
gian ngắn. Sau đó, ông được tha nhưng không còn được nhà vua tin dùng.
Năm 1433, khi Lê Thái Tổ băng hà. Nguyễn Trãi chán nản xin về ở ẩn
tại Côn Sơn, sống cuộc đời nhàn dật, ngày đêm làm bạn với thiên nhiên:
“Côn Sơn có suối nước trong
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm
Côn Sơn có đá tần vần
Mưa trơn rêu sạch ta nằm ta chơi
Côn Sơn thông tốt ngất trời
Ngả nghiêng dưới bóng ta thời tự do
Côn Sơn trúc mọc đầy gò

Lá xanh bóng rợp tha hồ tiêu dao.”
(Côn Sơn ca)


13
“Núi láng giềng, chim bầu bạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam.”
(Thuật hứng, 19)
Khi Lê Thái Tông lớn lên, hiểu rõ Nguyễn Trãi là người tài giỏi và có
tấm lòng trung hiếu nên đã cho vời ông trở lại làm quan, giữ chức Gián nghị
đại phu. Rất mừng rỡ, ông viết bài Biểu tạ của gián nghị đại phu kiêm tri tam
quán sự (Biểu tạ ơn) hết sức xúc động và lại hăng hái ra giúp nước, chỉnh đốn
kỷ cương, đào tạo nhân tài. Biểu tạ ơn có đoạn viết:
“Cúi nghĩ: Sáu chục tuổi thân tàn, chức vụ đã yên phận mọn;
Chín trùng trời chiếu xuống, móc mưa lại đội ân trên.
Xét mình biết thế là vinh;
Nghĩ bụng lại càng thêm thẹn.
Thần, tấn thân dòng cũ, chương cú nho hèn.
Chuyên đọc Điền Phần chí những muốn việc cổ nhân đã muốn.
Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo.

Thần xin giữ bền tiết cũ, mong kịp người xưa.
Biển rộng non cao, chưa báo được quyên ai chút đỉnh;
Trời che đất chở, dám đâu quên ân đức lớn lao!” [42, tr.171-173]
Tuy nhiên, hạ tuần tháng bảy năm 1442, vụ án Lệ Chi Viên xảy ra. Lúc
đó, vua Lê Thái Tông đi tuần, trên đường đi nhà vua có ghé ngự ở Côn Sơn,
cùng đi với Người có người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, chẳng
may sau khi rời Côn Sơn, trên đường về kinh thì nhà vua băng hà. Quan quân
đã đưa thi hài vua về kinh. Do bị bọn quyền thần ghen ghét nên Nguyễn Trãi
bị can tội âm mưu cùng người thiếp giết vua, dòng họ Nguyễn Trãi nhận án

tru di tam tộc. Phải 22 năm sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, nỗi oan khuất


14
của Nguyễn Trãi mới được giải, nhà vua bấy giờ mới phục hồi chức tước và
sai Trần Khắc Kiệm tìm lại gia tộc và toàn bộ trước tác của Nguyễn Trãi.
Có thể nói cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời chiến đấu không ngừng
nghỉ, chiến đấu chống quân xâm lược cướp nước và chống bọn xu nịnh gian
tà. Cuộc đời của một nhân cách cao đẹp, chí khí thanh cao, có tâm hồn trong
sáng, có cốt cách như “hoa mai nở sớm”, “tùng bách rụng sau”. Cuộc đời
Nguyễn Trãi cho chúng ta bài học quý báu về lòng yêu nước thương dân cao
đẹp, tinh thần nhân đạo, nhiệt tình chiến đấu, quan điểm mạnh dạn đổi mới,
sáng tạo.
1.1.2. Sự nghiệp
a. Sự nghiệp chính trị
Nguyễn Trãi là người học rộng, biết nhiều. Ngay từ nhỏ ông đã tỏ ra là
người ham học hỏi và được tiếp thu sự dạy dỗ chu đáo từ gia đình. Năm 1400,
khi Thái sư Hồ Quý Ly phế bỏ vua Trần Thiếu Đế, tự lập nên nhà Hồ và ngay
năm đó Hồ Quý Ly cũng cho mở khoa thi Nho học. Nguyễn Trãi tham gia thi
và đỗ Thái học sinh, đứng thứ tư và được trao chức Ngự sử đài Chánh
chưởng.
Sau khi nhà Hồ sụp đổ, Nguyễn Trãi chờ thời cơ tìm về Lam Sơn phò Lê
Lợi. Ông dâng Bình Ngô sách và được Lê Lợi phong cho chức Tuyên phụng
đại phu, Học sĩ Hàn lâm viện thừa chỉ, ngày đêm dự bàn việc quân.
Đất nước thái bình ông trở thành bậc khai quốc công thần. Nguyễn Trãi
được Lê lợi tin tưởng giao cho làm nhiều việc quan trọng. Trước tiên là viết
Bình Ngô đại cáo, thông báo cho toàn dân cuộc khởi nghĩa chống quân Minh
đã thắng lợi.
Nguyễn Trãi cũng từng được tiến cử làm thầy dạy cho con vua, được
giao sửa định nhã nhạc và quy chế lễ nghi trong triều đình.



15
Đến đời vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi đã giữ chức Gián nghị đại phu
ở Môn hạ sảnh, một chức quan tương tự như chức vụ ở Ngự sử đài thời Hồ
Quý Ly, tức có quyền khuyên bảo, can gián vua và các quan.
Nguyễn Trãi có cuộc đời đầy thăng trầm, có lúc đường công danh ông
lên đến đỉnh cao của sự nghiệp, giữ nhiều trọng trách cao trong triều đình,
được vua yêu mến và trọng dụng, nhưng cũng có lúc ông bị bọn gian tà hãm
hại, phải lui về ở ẩn làm bạn với muông thú cỏ cây. Dầu vậy, ông vẫn là
người trung hiếu vẹn toàn, được người đời kính nể. Có lẽ vì vậy mà Nguyễn
Trãi luôn được nhiều tác giả khi nghiên cứu về ông đánh giá cao, cả về con
người, tư tưởng và sự nghiệp. Nguyễn Mộng Tuân, một người bạn của
Nguyễn Trãi đã viết rằng: “Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (nghĩa là: giúp
đời, làm rạng rỡ cho nước, từ xưa chưa ai được như thế) [35, tr. 7]. Đỗ
Nghi, một nhân sĩ sống ở cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, cho rằng:
“Nếu Nguyễn Trãi ở ngôi Tể tướng, thì nắng hạn không cần tụng kinh, sét
đánh không cần lập đàn mà tai biến tự nó dập tắt. Tiếc thay học vấn của ông
chưa được phát huy triệt để. Nhưng cũng may, lời nói của ông còn được ghi
trong sử sách cho đến nay, đều có thể làm phép tắc cho các thế hệ nước
nhà” [35, tr. 8].
b. Sự nghiệp thơ văn
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự, nhà chính trị đại tài, một anh
hùng dân tộc giàu lòng yêu nước thương dân mà ông còn là một nhà văn, nhà
thơ lớn của dân tộc. Ông là một cây bút đa dạng, sáng tác bằng cả chữ Hán và
chữ Nôm. Cũng như nhiều bậc hiền nhân đi trước, Nguyễn Trãi làm thơ, viết
văn chắc hẳn không chỉ là văn chương thuần túy, mà có lẽ Nguyễn Trãi muốn
dùng văn thơ để đánh giặc, để biểu lộ lòng yêu nước thương dân sâu sắc của
mình. Văn chương của ông vì thế mà “có đủ sức để sửa sang việc đời” (Ngô
Thế Vinh). Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, thấm đượm truyền thống



16
của dân tộc. Ngoài những tác phẩm bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên, chúng
ta có thể kể đến một số tác phẩm để đời và được lưu truyền cho hậu thế như:
Bình Ngô đại cáo ghi trong Lam Sơn thực lục và Ðại Việt sử ký toàn
thư. Đây là tác phẩm nổi tiếng, lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc
Minh xâm lược, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về
quá trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại
hòa bình cho đất nước.
Quân trung từ mệnh tập: Ðây là một tập văn chính luận thư từ địch vận,
có hơn 70 bức thư, trong đó đa số các bức thư gửi cho tướng tá nhà Minh, một
số giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh nhằm thực hiện kế hoạch đánh
vào lòng người, phần còn lại là những thư từ viết gửi cho quân ta.
Băng Hồ di sự lục là thiên tản văn bằng chữ Hán do Nguyễn Trãi viết
vào năm 1428, kể về cuộc đời ông ngoại mình là Trần Nguyên Đán. Ngoài
tấm lòng tưởng nhớ về ông ngoại ra, bài văn còn chứa đựng nỗi niềm tâm sự
của tác giả. Lúc này, Nguyễn Trãi đã lui về ở ẩn tại Côn Sơn, nhưng cũng
như ông ngoại mình ngày xưa “Tuy mình gửi lâm tuyền mà chí vẫn để vào
tông xã. Mảnh lòng ưu ái, chưa từng một lúc nào tạm khuây”. Đây cũng là
một trong những tài liệu được xem là súc tích và sớm nhất viết về Trần
Nguyên Đán.
Văn bia Vĩnh Lăng được Nguyễn Trãi soạn thảo vào năm Thuận Thiên
thứ 6 (1433) ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà và được táng ở Vĩnh Lăng.
Nội dung bia ngắn gọn, súc tích, thuật lại thân thế sự nghiệp của vua Lê Thái
Tổ, quá trình khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đánh tan quân Minh, xây dựng
lại quốc gia Đại Việt.
Dư địa chí soạn năm 1435, là cuốn sách giáo khoa dùng để dạy cho thái
tử những hiểu biết về đất nước, con người và đặc sản của các vùng miền để từ
đó thái tử có hiểu biết rõ hơn về đất nước và khi lên làm vua có thể xây dựng



17
một quốc gia độc lập toàn diện. Sách này sau khi Nguyễn Trãi soạn xong,
dâng lên thì vua Lê Thái Tông rất tâm đắc và liền sai thợ khắc ván in để phổ
biến rộng rãi.
Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán. Về nội dung, có thể chia ra 3
chủ đề lớn: thơ tả thiên nhiên, danh lam thắng cảnh; thơ sáng tác sau khi
quân Minh xâm lược nước ta (trong đó có bài "Đề Hoàng ngự sử Mai tuyết
hiên" làm khi ở Đông Quan) và thơ sáng tác sau khi chiến thắng quân Minh,
giống thơ "ngôn chí" trong Quốc âm thi tập.
Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ Nôm (ước đoán, đây là quyển thơ Nôm
duy nhất còn sót lại sau thảm án Lệ Chi Viên). Như tác giả Đỗ Thị Thu Hà
trong bài viết “Hiện tượng tiếp biến văn chương qua "Quốc âm thi tập" của
Nguyễn Trãi” đã nhận định:
Quốc âm thi tập là thơ của người ẩn, cảnh sắc là cảnh sắc ở
ẩn. Nguyễn Trãi như một lão nông tri điền say trong thiên nhiên
thôn dã với tình yêu sâu sắc. Cùng với tình yêu thiên nhiên, tập thơ
còn bộc lộ tình yêu con người, cuộc sống và nỗi đau buồn trước thế
sự, lòng người hiểm hóc. Bên cạnh đó, cuộn chảy suốt Quốc âm thi
tập là nỗi lòng ưu dân ái quốc, là dâng dậy tấm lòng của một con
người luôn canh cánh nỗi tiên ưu với niềm khắc khoải chưa thấu
thỏa, là vằng vặc vầng sáng của ý chí, của khát vọng hiến dâng mình
cho đại sự nước nhà: Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn/ Dường
như ta đà phỉ sở nguyền [62].
Thơ văn Nguyễn Trãi thấm đượm lòng yêu nước, thương dân, tình yêu
đối với thiên nhiên tươi đẹp. Thơ văn của ông để lại có nhiều giá trị to lớn
như đánh giá của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: văn chương của ông “đạt
đến đỉnh cao nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường” [42, tr. 9].



18
1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN
TRÃI
1.2.1. Tư tưởng Nho giáo
Tư tưởng nhân nghĩa xuất hiện từ rất sớm trong triết học Trung Hoa và
có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước ở Phương Đông trong đó có Việt
Nam.
a. Quan niệm về nhân của Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 TrCN) là người sáng lập trường phái Nho gia, là
nhà triết học lớn nhất Trung Quốc thời cổ đại. Trong thời kỳ phong kiến, tư
tưởng, đường lối chính trị của ông trở thành học thuyết chính thống ở nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong suốt cuộc đời, mình Khổng Tử bàn
nhiều đến “nhân”, đặc biệt trong tác phẩm “Luận ngữ”. Nhân trở thành phạm
trù trung tâm và mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong tư tưởng của ông. “Đó
là hạt nhân nòng cốt, là con đường đưa ông trở về với nhân bản, với tinh thần
nhân văn sâu sắc của văn hoá Trung Hoa, một đặc điểm xuyên suốt trong hệ
thống tư tưởng và đó cũng là một yếu tố khẳng định sự trường cửu của tư
tưởng Khổng Tử qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển” [63]. Trong “Luận
ngữ” có tới 105 chỗ nói tới chữ nhân, nhưng mỗi nơi một khác. Nhìn chung
“nhân” là người, tình người, lòng thương người, đạo làm người, nhân gắn liền
với “Lễ”.
Khi Phàn Trì - một người học trò của Khổng Tử hỏi về nhân, Khổng Tử
nói: “yêu người” [25, tr. 207]. Nhân là lòng yêu thương con người và nó biểu
hiện rõ nét trong tất cả các mối quan hệ xã hội, mà điểm xuất phát của lòng
nhân là “hiếu” - sự kính trọng của con cái đối với mẹ cha, là “từ” - lòng yêu
thương của cha mẹ với con cái, là “đễ” - hòa thuận với anh chị em trong gia
đình, là bề tôi “trung” với vua và vua thương yêu bề tôi…Trong đó hiếu đễ là
gốc của lòng nhân. “Người quân tử chuyên chú vào cái gốc; cái gốc mà được



19
vững thì đạo lý sẽ được sinh ra. Hiếu đễ vì thế được coi là cái gốc của đức
nhân”. [23, tr.18].
Lòng yêu thương phải xuất phát từ yêu thương gia đình, sau đó mở rộng
ra là lòng yêu thương mọi người. Làm người quân tử thì việc trước tiên là
phải hết lòng vì cha mẹ. Hiếu theo Khổng Tử là “Cha mẹ lúc còn sống thì
phụng sự cho hợp lễ, mất rồi thì tống tang cho hợp lễ, cúng tế cho hợp lễ” [25,
tr. 40]. Khi trả lời câu hỏi của Tử Du về đạo hiếu, Khổng Tử nói: “Ngày nay
người ta cho hiếu là có thể nuôi cha mẹ. Nhưng đến chó, ngựa kia, người ta
cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác gì?” [25, tr. 42]. Câu này có
nghĩa là nuôi dưỡng cha mẹ không chỉ có việc đáp ứng về vật chất mà quan
trọng hơn phải có lòng kính trọng. Dân hiếu ít sinh loạn, con hiếu ít sinh tệ,
hiếu đễ làm cho con người được phân biệt với cầm thú, xã hội an định, gia
đạo hài hòa, thúc đẩy con người vươn đến điều nhân. Xét về mặt xã hội thì
quan điểm về “hiếu” đã vượt ra khỏi bản thân nó, làm cho con người biết tiết
dục, kính thiên, tôn quân, thủ lễ, sự phụ mẫu.
Trong quan niệm về nhân, Khổng Tử chú trọng đến đức nhân của người
quân tử. Ông cho rằng quân tử không có đức nhân thì không còn là quân tử
nữa và chỉ có người quân tử mới có nhân còn kẻ tiểu nhân thì không có
nhân. “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi” tức là quân tử chỉ quan tâm
đến điều nghĩa, tiểu nhân chỉ quan tâm đến điều lợi [25, tr. 79]. Những việc
mà người quân tử làm đều xuất phát từ lòng nhân nghĩa, chứ không xuất
phát từ ý thích hay lợi ích cá nhân. Đó chính là điều phân biệt người quân tử
với kẻ tiểu nhân.
Theo ông, đức nhân của người quân tử có hai mặt là “trung” và “thứ”.
Trung tức là ngay thẳng, thành thật, giúp đỡ người khác thực hiện điều mà
mình muốn thực hiện. Thứ là lòng vị tha, đừng làm điều mà mình không
muốn cho người khác. Trung thứ là nguyên lý quán xuyến, đạt đạo của Khổng



20
Tử và là điều mà suốt đời ông tuân theo. Trung thứ phải được phân biệt giữa
kẻ khác và ta, đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và được quy
định bởi Lễ. Lễ là con đường đưa xã hội đi đến đại đồng. Vì vậy, Khổng Tử
khuyên: điều gì không hợp lễ thì không nghe, không hợp lễ thì không nói và
không hợp lễ thì không làm. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân” [25, tr.195]. Như vậy
đối với Khổng Tử, nhân trở thành nội dung của lễ, lễ là hình thức biểu hiện
của nhân. Sự tác động qua lại giữa nhân và lễ được tác giả Võ Minh Hải đánh
giá: “Sự tương hỗ ấy đã đẩy quá trình tìm hiểu khẳng định bản chất con
người, khám phá về con người đạt đến những điểm mới mà các triết gia trước
thời Khổng Tử chưa có được” [63].
Đối với Khổng Tử, yêu điều nhân cũng có nghĩa là ghét điều bất nhân.
Khổng Tử nói: “người thật ham điều nhân thì không cho điều gì hơn điều
nhân, người thật ghét điều bất nhân thì khi làm điều nhân không để cho điều
bất nhân vướng vào mình” [25, tr. 75 - 76], hay “chỉ người có đức nhân mới
biết yêu người, ghét người (một cách công tâm, chính đáng)” [25, tr. 74].
Như vậy, trong quan điểm về nhân của Khổng Tử ta thấy có rất nhiều
điểm tích cực. Trên lập trường của nhân, Khổng Tử đã nêu cao tư tưởng nhân
trị, đề cao lễ, đưa xã hội từ loạn đến trị (dẫu rằng ở thời đại ông nó chỉ tồn tại
về mặt lý thuyết), nhưng công lao của đức Khổng được khẳng định bởi từ
trong nội tại của quan điểm xã hội, chính trị ông đã làm cho con người với
những thuộc tính vốn có của nó được khẳng định hơn và trở thành đối tượng
của triết học theo đúng nghĩa của nó. Từ đó, đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt
của triết học Nho gia thời kỳ đầu trên con đường từ thần bản đến nhân bản
của triết học Trung Hoa cổ đại. Đồng thời, khẳng định bản chất xã hội sâu
rộng và tính chất đạo đức cao quý của tư tưởng Khổng Tử trong tiến trình
phát triển của lịch sử triết học Trung Hoa.



×