Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Bài thuyết trình ngành ngân hàng cấu trúc và sự cạnh tranh chương 17,18,19

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.51 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN


Mục lục

CHƯƠNG 17: NGÂN HÀNG VÀ SỰ QUẢN LÝ CỦA CÁC TỔ CHỨC
TÀI CHÍNH
Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền gửi và định kênh những tiền gửi
đó vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối
giữa khách hàng có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn.

I.

Bảng Cân Đối Kế Toán

Để hiểu rõ hơn ngân hàng làm việc như thế nào , chúng ta bắt đầu bằng việc quan sát bảng cân đối kế toán
ngân hàng , danh sách tài sản và nợ của ngân hàng . Nó có đặc điểm
TỔNG TÀI SẢN = TỔNG NỢ + VỐN
Bảng cân đối kế toán của ngân hàng là một danh sách nguồn vốn hoạt động của ngân hàng và cách mà
nguồn vốn này được sử dụng . Ngân hàng thu được nguồn tài chính bằng cách cho vay và phát hành những
khoản nợ khác như là tiền gửi . Họ dùng những nguồn tài chính để thu được tài sản như là vật thế chấp hoặc
cho vay . Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách tính lãi suất trên tài sản thế chấp và khoản nợ mà họ nắm giữ
, nó cao hơn so với lãi suất và phí các khoản nợ của họ.
I.1
Nợ
Ngân hàng thu được nguồn tài chính bằng cách phát hành ( bán ) nợ , như là tiền gửi , cái mà là nguồn của
ngân hàng dùng . Nguồn tài chính thu được từ việc phát hành nợ dùng đề mua những tài sản mang lại thu
nhập .



Tài khoản thanh toán ngân hàng : đây là tài khoản ở một ngân hàng, người sở hữu chúng có quyền
được phát séc cho những người thuộc bên thứ ba . Các khoản tiền gửi bao gôm các tài khoản : tài
khoản không có lãi , tài khoản super - NOW có lãi và tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ được đưa
vào sử dụng năm 1982


Tiền gửi có thể phát séc có thể được thanh toán theo yêu cầu : tức là nếu người gửi tiền tới ngân hàng
gửi và đòi thanh toán bằng cách viết ra một giấy rút tiền , ngân hàng sẽ thanh toán cho người đó ngay
lập tức và ngược lại


Tiền gửi phi giao dịch : là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng . Người gửi không có quyền viết séc
,nhưng lãi suất được trả của tiền gửi thì thường cao hơn so với tài khoản thanh toán ngân hàng . Có
hai loại tiền gửi phi giao dịch cơ bản : tài khoản tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn ( còn gọi là giấy chứng
nhận của tiền gửi (CDs)
Tài khoản tiết kiệm là loại phổ biến nhất . với loại tài khoản này , vốn có thể rút ra hoặc đưa vào
bất kì lúc nào , giao dịch và tiền thanh toán lãi được ghi lại hàng tháng vào bản kê in sẵn hoặc sổ tiền
gửi ngân hàng được lập bởi chủ sở hữu tài khoản
Tài khoản có kì hạn : ấn định kì hạn thanh toán dài , tầm từ nhiều tháng đến hơn năm năm , và sẽ
bị phạt nếu rút tiền ra sớm so với thời hạn ( bị mất tiền lãi của một vài tháng ) . Tiền gửi có kì hạn loại
nhỏ ( tài khoản dưới 100,000$) là loại có tính kém lỏng hơn so với tiền gửi tiết kiệm có sổ tiết kiệm,
chúng có lãi suất cao hơn và là nguồn vốn có chi phí lớn đối với ngân hàng
Tài khoản kỳ hoạn lớn có thể loại 100,000$ hoặc lướn hơn và chủ yếu là do các cty hoặc NH khác
mua . CDs lớn có thể thương lượng , như là trái phiếu , họ có thể bán nó ở một thị trường thứ hai
trước khi nó mãn hạn . Vì lý do đó , CDs này được nắm giữ bởi casc công ty , quỹ hỗ trợ thị trường
tài chính , và các định chế tài chiính khác như là tài sản thay thế cho tín phiếu kho bạc và những tài
khoản ngắn hạn khác . Từ năm 1961, CD có thể bán được này đã trở thành một nguồn tài chính quan
trọng của NH (12%)






Việc vay tiền : ngân hàng có được nguồn tài chính từ việc vay tiền từ cục dự trữ liên bang , hệ thống
cho vay nội bộ của liên bang , ngân hàng khác hoặc các công ty . Mượn tiền từ fed gọi là tiền vay chiết
khấu được gọi là tiền ứng trước . Các ngân hàng cũng vay các khoản dữ trữ ngắn hạn của các ngân
hàng Mỹ khác và các tổ chức tài chính trong thị trường quỹ Liên Bang . các nguồn vốn vay khác mà
các ngân hàng có là : tiền vay từ những công ty mẹ của các ngân hàng những công ty nắm giữ ngân
hàng , dàn xếp vay tiền của các công ty , vay mượn đo la châu âu . tiền vay mượn đã trở thành một
nguồn vốn quan trọng hơn của ngân hàng trong thời gian qua : năm 1960 chúng chiếm 2% tài sản nợ
của ngân hàng , hiện chúng vượt quá 12%
Vốn của ngân hàng : vốn của ngân hàng là của cải thực của ngân hàng , nó bằng hiệu tổng tài sản có
với tài sản nợ (6% tổng tài sản có của ngân hàng đó ). Vốn này được tạo ra bằng cách bán cổ phần mới
hoặc từ các món lợi tức được giữ lại . Các vốn của ngân hàng là một casi để chống đỡ sự sụt giảm giá trị
của những tài sản có của ngân hàng đó , là điều có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng không trả được nợ .


I.2
Tài sản
Tài sản có của ngân hàng là kết quả của việc sử dụng vốn của ngân hàng đó . Những tài sản có đưa lại thu
nhập , tức những tài sản có đưa lại thu nhập , tức những tài sản thu được tiền lãi , giúp ngân hàng tạo ra lợi
nhuận
Tiền dữ trự : tất cả các ngân hàng giữ lại một phần trong số vốn mà họ thu được sẽ gửi vào một tài khoản ở
cơ quan FED . Tiền dữ trữ là tiền gửi vừa nói , cộng thêm với tiền mặt mà các ngân hàng cất giữ . Tuy nhiên
dự trữ hiện hành không có lãi , các ngân hàng giữ chúng có hai lí do . Trước hết , một số tiền dữ trữ gọi là
tiền dữ trữ bắt buộc , được giữ bởi vì theo luật định , FED đòi hỏi cứ một đô la tiền gửi lại ngân hàng , phải
có tỷ lệ nào đó ( vd : 10%) phải được giữ làm tiền dự trữ . Tỷ lệ này được gọi là tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc .
Các khoản tiền dự trữ phụ được gọi là tiền dự trữ vượt quá , được giữ vì chúng có tính lỏng nhất trong số
mọi tài sản của ngân hàng sử dụng để thực hiện nghĩa vụ khi tiền gửi được rút ra hoặc trực tiếp do người gửi
tiền đến rút ra hoặc gián tiếp khi có một séc được phát ra theo một tài khoản .

Tiền mặt trong quá trình thu : Giả sử một séc được phát hành theo một tài khoản ở một ngân hàng khác ,
được gửi vào ngân hàng bạn và số tiền ở séc này còn chưa đến ngân hàng của bạn. Tờ séc này được
coi như là tiền mặt trong quá trình thu , nó là một tài sản đối với ngân hàng của bạn vì nó có quyền
đòi ở ngân hàng kia và số tiền này sẽ được thanh toán sau một ít ngày
Tiền gửi ở các ngân hàng khác : nhiều ngân hàng nhỏ gửi tiền trong những ngân hàng lướn để đổi lấy
nhiều dịch vụ khác như tập hợp séc, giao dịch ngoại tệ và giúp mua chứng khoán . Đây là một phần
cảu một hệ thống được goi là “ hoạt động ngân hàng vãng lai “ Nói chung , tiền dự trữ tiền mặt trong
quá trình thu và tiền gửi trong các ngân hàng khác được coi như những khoản tiền mặt .
Chứng khoán : các chứng khoán của một ngân hàng là các tài sản có mang lại thu nhập quan trọng của
ngân hàng đó . Các chứng khoán có thể chia làm 3 loại : (1) chứng khoán của chính phủ Mỹ và của
các cơ quan chính phủ , chứng khoán của chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương , các
chứng khoán khác .
Tiền cho vay : Các ngân hàng tạo ra lợi nhuận chủ yếu bằng cách cho vay. Tiền cho vay là một món nợ đối
với cá nhân hoặc tổ chức nhận nó, nhưng là một tài sản của ngân hàng bởi vì nó cung cấp thu nhập
cho ngân hàng . tiền cho vay là một loại tài sản kém lỏng so với các tài sản khác bởi vì nó chúng
không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó mãn hạn . ví dụ ngân hàng cho vay
một năm , ngân hàng đó không thể thu lại vốn của mình trước khi khoản cho vay này đến hạn trả sau
một năm . Các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn sơ với những tài sản có khác ,. Do
thiếu tính lỏng và có rủi ro vỡ nợ cao hơn nên ngân hàng thu được lợi tức cao hơn nhờ vào các món
cho vay
Những tài sản có khác : Các vốn hiện vật như tòa nhà , máy tính , các trang thiết bị khác thuộc sở hữu của
ngân hàng cũng thuộc loại tài sản này .


II.

Ngân Hàng Trung Ương

III. Ngân Hàng Trung Ương Độc Lập Với Chính Phủ
Tức là chính phủ không có quyền can thiệp vào hoat động của ngân hàng trung ương . Mô hình này dựa trên

quan điểm nếu ngân hàng trung ương thuộc chính phủ sẽ bị chính phủ lợi dụng công cụ phát hành để bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước , từ đó gây ra lạm phát , bên cạnh đó còn làm mất tính độc lập và chủ động xây
dựng và thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW. Tiêu biểu cho mô hình này là Hệ thống Dự trữ liên bang
Hoa Kỳ và Ngân hàng dự trữ liên bang Đức
III.1 Ngân Hàng Trung Ương Trực Thuộc Chính Phủ
Chính phủ có ảnh hưởng đến NHTW thông qua việc bổ nhiệm thành viên của bộ máy quản trị và điều hành
NHTW .Chính phủ cũng can thiệp trực tiếp vào việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ . Mô hình này
dựa trên quan điiểm cho rằng chính phủ là cơ quan hành pháp , thực hiện chức năng quản lý kinh tế vĩ mô để
sử dụng và phối hợp một cách đồng bộ và hiệu quả các công cụ đó. Chính sách tiền tệ là một trong những bộ
phận chủ yếu của chính sách kinh tế vĩ mô , việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ là nhiệm vụ của
ngân hàng trung ương , nên NHTW phải thuộc chính phủ. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như là
Nhật Bản , Anh, Việt Nam…
III.2 Chức Năng Của Ngân Hàng Tw
a. Đôc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cung ứng
b. NHTW mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian
c. NHTW cấp tính dụng cho các ngân hàng trung gian
d. NHTW thực hiện việc quản lý nhà nước đối với hệ thống ngân hàng

IV. Ngân Hàng Thương Mại
Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian tiêu biểu . Hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại chủ yếu và thường xuyên là thu hút vốn thông qua những khoản tiền gửi của các chủ thể trong
nền kinh tế. Sau đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cấp tín dụng và thực hiện các hoạt động đầu tư tài
chính trên thị trường , ngoài ra còn thực hiện cung ứng các dịch vụ trung gian thanh toán
IV.1 Chức Năng Của Ngân Hàng Thương Mại
a. Chức năng trung gian tín dụng


Huy động các nguồn vốn từ các chủ thể tiết kiệm , có vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế




Cấp tín dụng đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế xã hội
b. Ch chức năng thanh toán
c. Chức năng cung cấp các dịch vụ tài chính


IV.2

Các Huy Động Chủ Yếu Của Ngân Hàng Thương Mại
Nguồn vốn của ngân hàng
Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm
Nguồn vốn chủ sở hữu

Để bắt đầu hoạt động của Ngân hàng chủ Ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.


Nguồn vốn hình thành ban đầu: tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà nguồn vốn hình thành vốn
ban đầu khác nhau: do ngân sách nhà nước cấp ,do các bên liên doanh đóng góp, hoặc vốn thuộc sở hữu tư
nhân



Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phần,góp thêm
cấp thêm.



Các quỹ
 Nguồn tiền gửi




Tiền gửi thanh toán: là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng
giữ hộ, thanh toán.



Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.



Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng.
Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tài khoản nhằm thực hiện các mục
tiêu bảo toàn và sinh lời với các tài khoản.



Tiền gửi của các Ngân hàng khác


Nguồn đi vay và các nghiệp vụ đi vay của Ngân hàng thương mại

Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại tuy nhiên, khi cần Ngân hàng thương
mại thường vay mượn thêm.


Vay Ngân hàng nhà nước (vay Ngân hàng trung ương): đây là các khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), Ngân hàng
thương mại thường vay Ngân hàng nhà nước.




Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn Ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng.



Vay trên thị trường vốn: như phát hành các giấy nợ



Các nguồn khác: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán


IV.3

Hoạt động huy động vốn

Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên
của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng
việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các
tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng.
Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền
của các Ngân hàng khác.
Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi.
Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu
tư mà vẫn có lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong muốn được

sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn
phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân
hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân hàng, coi như một
khoản đảm bảo.
Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân
hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những
khoản thu nhập lớn hơn.
Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân
Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé,
phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh
tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng
các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân
hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh
được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để
đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt
động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh
tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thì
điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân.
Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc
phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu
nợ và tài sản của Ngân hàng.
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của Ngân hàng và Ngân hàng phải có
trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ
cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn
có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân hàng .
1.

Hoạt động sử dụng vốn:

Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các Ngân hàng thương mại phải làm

như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng
nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của


Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế
vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài
sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín dụng khác,
Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu
nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ
có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng,
thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín
phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp
Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động
cho vay, Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt
động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc
hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho nguồn vốn đã huy động và đi
vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt
động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay
mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí
rủi ro đầu tư .
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài
sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao
hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân
hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tuỳ quy định
của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường
chứng khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân
hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng.

2. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian

Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn thì Ngân hàng thương mại
cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động
trung gian bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà
đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần.
. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có
tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này đến tài khoản khác
ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính,
dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu
trừ tự động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn
nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng
tiền mặt.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch vụ trung gian là các hoạt động
cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát
triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát
triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân


hàng phải làm tốt vai trò trung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của
Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại .

V.

Nguyên Tắc Chung Quản Lý Ngân Hàng

Bây giờ bạn có một số ý tưởng về cách một ngân hàng hoạt động, chúng ta hãy xem làm thế nào một ngân
hàng quản lý tài sản và nợ phải trả của nó để kiếm được lợi nhuận cao nhất có thể. Quản lý ngân hàng có bốn
mối quan tâm chính. Đầu tiên là để đảm bảo rằng các ngân hàng có đủ tiền mặt sẵn sàng để trả cho người gửi
tiền khi có luồng tiền gửi chảy ra-đó là khi tiền gửi bị mất vì người gửi tiền rút tiền và thanh toán theo yêu

cầu. Để giữ đủ tiền mặt tại quỹ, các ngân hàng phải tham gia vào quản lý thanh khoản, việc mua lại tài sản
đủ lỏng để đáp ứng các nghĩa vụ của ngân hàng để gửi tiền. Thứ hai, các giám đốc ngân hàng phải theo đuổi
một mức độ thấp nhất chấp nhận rủi ro bằng cách mua lại các tài sản đó có một tỷ lệ thấp mặc định và đa
dạng hóa nắm giữ tài sản (quản lý tài sản). Mối quan tâm thứ ba là để có được nguồn vốn với chi phí thấp
(quản lý nợ). Cuối cùng, các nhà quản lý phải quyết định số lượng vốn của ngân hàng cần duy trì và sau đó
có được vốn cần thiết (quản lý an toàn vốn).
V.1 Quản lý thanh khoản và vai trò của dự trữ
Chúng ta hãy xem làm thế nào một ngân hàng điển hình, ngân hàng First National, có thể đối phó với các
luồng tiền gửi mà xảy ra khi người gửi tiền rút tiền mặt từ việc kiểm tra hoặc tiết kiệm tài khoản hoặc viết
séc được gửi vào ngân hàng khác. Trong ví dụ sau, chúng tôi giả định rằng các ngân hàng có dự trữ dư thừa
dồi dào và rằng tất cả các khoản tiền gửi có tỷ lệ dự trữ bắt buộc cùng 10% . Giả sử rằng bảng cân đối ban
đầu của Ngân hàng First National là như sau:
Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ
$20.000.000
Tiền gửi
$100.000.000
Khoản vay
$80.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
Chứng khoán
$10.000.000
Dự trữ bắt buộc của ngân hàng là 10% của $ 100 triệu, hoặc $ 10 triệu. Cho rằng nó giữ $ 20 triệu trong dự
trữ, Ngân hàng quốc gia đầu tiên có dự trữ vượt quá $ 10 triệu. Nếu một dòng chảy tiền gửi của $
10.000.000 xảy ra, bảng cân đối của ngân hàng trở nên:
Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ

$10.000.000
Tiền gửi
$90.000.000
Khoản vay
$80.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
Chứng khoán
$10.000.000
Các ngân hàng mất $ 10 triệu tiền gửi và $ 10 triệu của dự trữ, nhưng vì dự trữ bắt buộc của nó bây giờ 10%
chỉ có 90 $ triệu (9.000.000 $) là, dự trữ của nó vẫn vượt quá số tiền này bằng $ 1 triệu. Trong ngắn hạn,
nếu một ngân hàng có dự trữ dư thừa dồi dào, một dòng chảy tiền gửi không đòi hỏi phải thay đổi ở
các bộ phận khác của bảng cân đối


Tình hình là khá khác nhau khi một ngân hàng giữ dự trữ dư thừa đủ. Giả sử rằng thay vì ban đầu cầm $ 10
triệu trong dự trữ dư thừa, ngân hàng First National làm cho các khoản vay thêm $ 10 triệu, vì vậy mà nó
nắm giữ không có dự trữ dư thừa. Bảng cân đối ban đầu của nó sau đó sẽ là:
Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ
$10.000.000
Tiền gửi
Khoản vay
$90.000.000
Nguồn vốn NH
Chứng khoán
$10.000.000
Khi $ 10.000.000 tiền gửi chảy ra, bảng cân đối của nó trở nên


$100.000.000
$10.000.000

Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ
$0
Tiền gửi
$90.000.000
Khoản vay
$90.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
Chứng khoán
$10.000.000
Sau $ 10.000.000 đã được rút khỏi các khoản tiền gửi và do đó dự trữ, các ngân hàng có một vấn đề: nó có
một dự trữ bắt buộc là 10% của 90 triệu $, hay $ 9.000.000, nhưng nó không có dự trữ! Để loại bỏ sự thiếu
hụt này, các ngân hàng có bốn tùy chọn cơ bản.
 Một là để thu dự trữ để đáp ứng một dòng chảy tiền gửi bằng cách vay mượn nó từ các ngân hàng

khác trên thị trường vốn liên bang hoặc bằng cách vay mượn từ các công ty khác. Nếu ngân hàng
First National mua lại các khoản thâm hụt $ 9.000.000 trong dự trữ bằng cách vay mượn từ ngân hàng
hoặc công ty khác, bảng cân đối của nó trở nên:
Tài sản có
Dự trữ
Khoản vay

Tài sản nợ
$9.000.000
Tiền gửi

$90.000.000
$90.000.000
Mượn của NH hoặc $9.000.000
công ty khác
Chứng khoán
$10.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
(Các chi phí của hoạt động này là lãi suất của các khoản vay, chẳng hạn như lãi suất liên bang)
 Một lựa chọn thứ hai là cho các ngân hàng bán một số chứng khoán của mình để giúp trang trải các

dòng tiền gửi chảy ra. Ví dụ, nó có thể sẽ bán 9.000.000 $ của chứng khoán và tiền gửi tiền với Fed,
kết quả trong bảng cân đối sau đây:
Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ
$9.000.000
Tiền gửi
$90.000.000
Khoản cho vay
$90.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
Chứng khoán
$1.000.000
Các ngân hàng phải gánh chịu một số môi giới và giao dịch khác có giá khi bán chứng khoán. Các chứng
khoán chính phủ Mỹ được phân loại là dự trữ thứ cấp là rất lỏng, do đó, các chi phí giao dịch bán chúng là
khá khiêm tốn. Tuy nhiên, các loại chứng khoán khác ngân hàng giữ được ít chất lỏng, và các chi phí giao
dịch có thể cao hơn đáng kể



 Cách thứ ba mà các ngân hàng có thể đáp ứng một dòng chảy tiền gửi là để có được dự trữ bằng cách

vay từ FED. Bảng cân đối của nó sau đó sẽ là:
Tài sản có
Tài sản nợ
Dự trữ
$9.000.000
Tiền gửi
$90.000.000
Khoản vay
$90.000.000
Mượn của Fed
$9.000.000
Chứng khoán
$10.000.000
Nguồn vốn NH
$10.000.000
Chi phí liên quan đến khoản vay chiết khấu là lãi suất phải được thanh toán đến cục dự trữ liên bang Fed
( gọi là lãi suất chiết khấu)
Cuối cùng, một ngân hàng có thể có được 9.000.000 $ dự trữ để đáp ứng các dòng chảy tiền gửi bằng cách
giảm các khoản vay của mình bằng số tiền này và gửi tiền 9.000.000 $ sau đó nó nhận được với Fed, do đó
làm tăng dự trữ của mình bằng $ 9.000.000. Giao dịch này làm thay đổi cân đối kế toán như sau:
Tài sản có
Dự trữ
Khoản vay
Chứng khoán

$9.000.000
$81.000.000

$10.000.000

Tài sản nợ
Tiền gửi
Nguồn vốn NH

$90.000.000
$10.000.000

Các thảo luận ở trên giải thích tại sao các ngân hàng nắm giữ dự trữ dư thừa mặc dù các khoản vay hoặc
chứng khoán thu lợi nhuận cao hơn. Khi một dòng chảy tiền xảy ra, nắm giữ dự trữ dư thừa cho phép các
ngân hàng để thoát khỏi chi phí (1) vay từ khác ngân hàng hay công ty, (2)bán chứng khoán, (3) vay từ FED,
hoặc (4) gửi vào, bán ra các khoản vay. Dự trữ dư thừa được bảo hiểm đối với các chi phí liên quan đến
luồng tiền gửi. Các chi phí cao hơn liên quan đến luồng tiền gửi, các ngân hàng dự trữ dư thừa nhiều
sẽ muốn nắm giữ.
Cũng như bạn và tôi sẽ sẵn sàng trả một công ty bảo hiểm để đảm bảo chúng ta chống lại một sự mất mát
như trộm cắp của một chiếc xe, một ngân hàng sẵn sàng trả các chi phí của việc nắm giữ dự trữ dư thừa (chi
phí cơ hội, các khoản thu nhập bị bỏ qua bởi không nắm giữ tài sản tạo thu nhập như các khoản vay hoặc
chứng khoán) để bảo đảm chống lại những tổn thất do các luồng tiền gửi. Bởi vì dự trữ dư thừa, giống như
bảo hiểm, có một chi phí, ngân hàng cũng thực hiện các bước khác để tự bảo vệ mình.
1. Quản lý tài sản

-

Để tối đa hóa lợi nhuận của mình, một ngân hàng đồng thời phải tìm kiếm lợi nhuận cao nhất có thể
cho vay và chứng khoán, giảm thiểu rủi ro, và tạo ra quy định đầy đủ cho tính thanh khoản bằng cách
giữ tài sản lưu động. Ngân hàng cố gắng thực hiện ba mục tiêu này trong bốn cách cơ bản:
Thứ nhất, các ngân hàng cố gắng để tìm thấy những người đi vay sẽ phải trả lãi suất cao và khó có
khả năng vỡ nợ của họ. Họ tìm kiếm những doanh nghiệp vay bằng quảng cáo lãi suất vay của họ và
bằng cách tiếp cận trực tiếp các tập đoàn để thu hút các khoản vay. Đó là vào nhân viên tín dụng của

ngân hàng để quyết định xem khách hàng tiềm năng là các rủi ro tín dụng tốt, những người sẽ làm cho
lãi suất và thanh toán vốn gốc đúng thời hạn (tức là tham gia sàng lọc để làm giảm vấn đề bất lợi lựa
chọn). Thông thường, các ngân hàng thận trọng trong chính sách cho vay; tỷ lệ mặc định thường là


-

-

nhỏ hơn 1%. Điều quan trọng là, tuy nhiên, các ngân hàng không nên bảo thủ mà họ bỏ lỡ cơ hội cho
vay hấp dẫn và kiếm được lãi suất cao
Thứ hai, các ngân hàng cố gắng để mua chứng khoán có lợi nhuận cao và rủi ro thấp.
Thứ ba, trong việc quản lý tài sản, ngân hàng phải cố gắng để giảm rủi ro bằng cách đa dạng hóa. Họ
thực hiện điều này bằng cách mua nhiều loại tài sản khác nhau (ngắn hạn và dài hạn……) và phê
duyệt nhiều loại cho vay đối với một số khách hàng. Các ngân hàng đã không tìm đủ những lợi ích
thích đáng của đa dạng hóa thường dẫn đến hối tiếc sau này. Ví dụ, các ngân hàng đã chuyên sâu
trong việc cho vay cho các công ty năng lượng, các nhà phát triển bất động sản, hoặc nông dân đã bị
lỗ rất lớn trong những năm 1980 với sự sụt giảm năng lượng, bất động sản, và giá cả nông sản.
Cuối cùng, các ngân hàng phải quản lý thanh khoản của các tài sản của mình để nó có thể đáp ứng
yêu cầu dự trữ của mình mà không chịu chi phí rất lớn. Điều này có nghĩa rằng nó sẽ nắm giữ chứng
khoán lỏng ngay cả khi họ kiếm được một lợi nhuận thấp hơn một chút so với các tài sản khác.

2. Quản lý nợ

Trước những năm 1960,đối với các ngân hàng,khoản nợ của họ là cố định và dành thời gian
của họ cố gắng để đạt được một sự pha trộn tối ưu với tài sản. Có hai lý do chính cho sự nhấn mạnh
về quản lý tài sản. Đầu tiên, hơn 60% của nguồn vốn ngân hàng đã thu được thông qua séc (nhu cầu)
tiền gửi theo luật không thể trả lãi suất. Như vậy, các ngân hàng có thể không tích cực cạnh tranh với
nhau cho các khoản tiền gửi bằng cách trả lãi cho họ, và như vậy số tiền của họ được một cách hiệu
quả nhất định cho một ngân hàng cá nhân. Thứ hai, vì thị trường cho vay giữa các ngân hàng đã

không phát triển tốt, các ngân hàng hiếm khi vay từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu dự trữ
của họ.
Bắt đầu từ những năm 1960, tuy nhiên, các ngân hàng lớn tại các trung tâm tài chính quan
trọng, chẳng hạn như New York, Chicago và San Francisco, bắt đầu tìm hiểu cách thức mà các nợ trên
bảng cân đối của họ có thể cung cấp cho họ với dự trữ và thanh khoản . Điều này dẫn đến việc mở
rộng thị trường cho vay, như thị trường các quỹ liên bang, và sự phát triển của các công cụ tài chính
mới.
Sự linh hoạt mới trong quản lý nợ này có nghĩa là các ngân hàng có thể có một cách tiếp cận
khác nhau để quản lý ngân hàng. Họ không còn cần thiết phải phụ thuộc vào các khoản tiền gửi như
là nguồn tài chính chủ yếu của ngân hàng. Thay vào đó, họ tích cực thiết lập mục tiêu cho mục tiêu
tăng trưởng tài sản của họ và cố gắng để có được tiền (bằng cách phát hành nợ phải trả) khi họ cần.
Các thị trường vốn liên bang cũng có thể được sử dụng để cấp tiền cho các khoản vay. Do tầm quan
trọng của quản lý tăng trách nhiệm, hầu hết các ngân hàng bây giờ quản lý cả hai bên của bảng cân
đối với nhau trong một ủy ban quản lý tài sản- công nợ
Sự nhấn mạnh nhiều hơn vào quản lý nợ giải thích một số thay đổi quan trọng trong ba thập kỷ
qua trong thành phần của bảng cân đối của các ngân hàng. Trong khi CD thương phiếu và các khoản
vay ngân hàng đã tăng lên rất nhiều về tầm quan trọng như là một nguồn quỹ ngân hàng trong những
năm gần đây (tăng từ 2% của các khoản nợ ngân hàng năm 1960 lên 24% vào cuối năm 2009), tiền
gửi checkable đã giảm tầm quan trọng (từ 61% của các khoản nợ ngân hàng năm 1960 lên 4% vào
cuối năm 2009). Linh hoạt mới phát hiện trong quản lý nợ và việc tìm kiếm lợi nhuận cao hơn cũng


đã kích thích các ngân hàng tăng tỷ lệ tài sản của họ được tổ chức cho vay, mà kiếm được thu nhập
cao hơn (từ 46% tài sản của ngân hàng trong năm 1960 lên 74% vào cuối năm 2009).
3. Quản lý an toàn vốn
Các ngân hàng phải đưa ra quyết định về số lượng vốn cần thiết để giữ cho ba lý do.
- Đầu tiên, vốn ngân hàng sẽ giúp ngăn chặn sự thất bại của ngân hàng, một tình huống trong đó các
ngân hàng không thể đáp ứng các nghĩa vụ của mình để trả cho người gửi tiền và các chủ nợ khác thì
sẽ dẫn đến sự thất bại.
- Thứ hai, lượng vốn ảnh hưởng đến lợi nhuận cho các chủ sở hữu (cổ đông) của các ngân hàng.

- Thứ ba, một số tiền tối thiểu của vốn ngân hàng (yêu cầu về vốn của ngân hàng) là yêu cầu của cơ
quan quản lý.
Làm thế nào vốn ngân hàng sẽ giúp ngăn chặn sự thất bại của ngân hàng ?
Hãy xem xét hai ngân hàng với bảng cân đối giống nhau, ngoại trừ việc các ngân hàng vốn cao có tỷ lệ vốn
đối với tài sản là 10% trong khi các ngân hàng vốn thấp có tỷ lệ 4%.
- Ngân hàng có vốn cao
Tài sản có
Dự trữ
$10.000.000
Khoản vay
$90.000.000
- Ngân hàng có vốn thấp

Tài sản nợ
Tiền gửi
Vốn ngân hàng

$90.000.000
$10.000.000

Tài sản có
Dự trữ
Khoản vay

Tài sản nợ
Tiền gửi
Vốn ngân hàng

$96.000.000
$4.000.000


$10.000.000
$90.000.000

Giả sử rằng cả hai ngân hàng bắt kịp sự phấn khích của thị trường bất động sản, chỉ để thấy rằng 5.000.000 $
của các khoản vay bất động sản của họ trở thành vô giá trị sau này. Khi các khoản nợ xấu được viết tắt (có
giá trị bằng không), tổng giá trị tài sản giảm xuống của 5.000.000 $. Như một hệ quả, vốn ngân hàng, bằng
với tổng tài sản trừ đi nợ phải trả, cũng giảm $ 5.000.000. Bảng cân đối của hai ngân hàng bây giờ như thế
này:
- Ngân hàng có vốn cao
Tài sản có
Dự trữ
$10.000.000
Khoản vay
$85.000.000
- Ngân hàng cò vốn thấp

Tài sản nợ
Tiền gửi
Vốn ngân hàng

$90.000.000
$5.000.000

Tài sản có
Dự trữ
Khoản vay

Tài sản nợ
Tiền gửi

Vốn ngân hàng

$96.000.000
-$1.000.000

-

$10.000.000
$85.000.000

Các ngân hàng vốn cao mất $ 5 triệu vì ban đầu là $ 10 triệu trong vốn có nghĩa là nó vẫn có một giá
trị tài sản ròng tíc cực (vốn ngân hàng) của 5.000.000 $ sau khi mất. Các ngân hàng đầu tư thấp gặp
rắc rối lớn. Bây giờ giá trị các tài sản của nó đã giảm xuống dưới nợ của nó, và giá trị ròng của nó bây


giờ là - $ 1 triệu. Bởi vì các ngân hàng có một giá trị ròng âm, đó chính là khả năng trả nợ: Nó không
có đủ tài sản để trả hết cho tất cả các chủ nợ của mình.
Do đó có thể thấy, lý do quan trọng cho một ngân hàng để duy trì một mức độ đủ vốn là:Ngân hàng duy
trì vốn để giảm bớt khả năng nó sẽ bị vỡ nợ.
Làm thế nào số vốn ngân hàng ảnh hưởng đến lợi nhuận của các cổ đông?
Vì chủ sở hữu của một ngân hàng phải biết ngân hàng của họ đang được quản lý tốt, họ cần các biện
pháp tốt về lợi nhuận ngân hàng. Một biện pháp cơ bản của lợi nhuận ngân hàng là lợi nhuận trên tài sản
(ROA)
Lợi nhuận trên tài sản cung cấp thông tin về làm thế nào một ngân hàng hoạt động hiệu quả vì nó cho biết có
bao nhiêu lợi nhuận được tạo ra từ mỗi đô la tài sản
- Tuy nhiên, những gì chủ sở hữu của ngân hàng (chủ sở hữu vốn cổ phần) quan tâm nhất là ngân hàng
kiếm được bao nhiêu trên số vốn đầu tư của họ. Thông tin này được cung cấp bởi lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu (ROE)
Có một mối quan hệ trực tiếp giữa lợi nhuận trên tài sản và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Mối quan hệ này
được xác định bởi số nhân vốn chủ sở hữu (EM), số lượng tài sản cho mỗi đồng đô la của vốn chủ sở hữu:

Ta có: ROE = ROA*EM
Sự đánh đổi giữa an toàn và lợi nhuận của vốn cổ phần sở hữu
- Bây giờ chúng ta thấy rằng vốn ngân hàng có cả lợi ích và chi phí. Vốn ngân hàng là lợi ích của chủ
sở hữu của một ngân hàng ở chỗ nó làm cho đầu tư của họ an toàn hơn bằng cách giảm khả năng phá
sản. Nhưng vốn ngân hàng là tốn kém vì cao hơn đó là, càng thấp thì sẽ có lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu cho một sự trở lại được tài sản. Trong việc xác định số vốn ngân hàng, các nhà quản lý phải quyết
định tăng độ an toàn bao nhiêu mà đi kèm với vốn cao hơn (lợi ích) họ sẵn sàng đánh đổi so với lợi
nhuận thấp trên vốn chủ sở hữu mà đi kèm với vốn cao hơn (chi phí)
- Trong thời kỳ bất ổn hơn, khi khả năng thua lỗ lớn các khoản cho vay tăng lên, các nhà quản lý ngân
hàng có thể muốn giữ thêm vốn để bảo vệ các cổ đông. Ngược lại, nếu họ có niềm tin rằng tổn thất
cho vay sẽ không xảy ra, họ có thể muốn làm giảm lượng vốn ngân hàng, có một số nhân vốn chủ sở
hữu cao hơn, và do đó làm tăng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
Nhu cầu vốn của ngân hàng: ngân hàng cũng giữ vốn vì họ được yêu cầu để làm như vậy bởi cơ quan quản
lý. Bởi vì chi phí cao của việc nắm giữ vốn cho những lý do vừa mô tả, các nhà quản lý ngân hàng thường
muốn giữ ít vốn của ngân hàng liên quan đến tài sản hơn là yêu cầu của cơ quan quản lý. Trong trường hợp
này, số vốn ngân hàng được xác định bởi các yêu cầu về vốn ngân hàng. Chúng tôi thảo luận về các chi tiết
của yêu cầu về vốn ngân hàng và vai trò quan trọng của họ trong ngân hàng quy định trong Chương 18.
THƯỚC ĐO HIỆU SUẤT HOẠT ĐỘNG
1. ROA((Return on total assets)- Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản

ROA= Lợi nhuận ròng/ Tài sản




ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư
(hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty cổ phần có sự khác biệt rất lớn và phụ thuộc
nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so sánh các công ty,
tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty qua các năm và so giữa các công ty tương
đồng nhau.




Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn
này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn
đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang
kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.

2. ROE( Return on equity)-Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu

ROE= Lợi nhuận ròng/ Vốn chủ sở hữu
 Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao
nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ
phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty
nào.


Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có
nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác
lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số
ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.

Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ thể như sau:
- ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng, vậy nếu công ty có khoản vay ngân hàng tương
đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ để trả lãi vay ngân hàng.
- ROE cao hơn lãi vay ngân hàng thì phải đánh giá xem công ty đã vay ngân hàng và khai thác hết
lợi thế cạnh tranh trên thị trường chưa để có thể đánh giá công ty này có thể tăng tỷ lệ ROE trong
tương lai hay không.
3. NIM(Net Interest Margin)- Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên là chỉ số được sử dụng để xác định chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi

phí lãi phải trả của ngân hàng, cho biết hiện các ngân hàng đang thực sự hưởng chênh lệch lãi suất
giữa hoạt động huy động và hoạt động đầu tư tín dụng là bao nhiêu. Sự khác biệt giữa thu nhập lãi
và lãi các chi phí theo tỷ lệ phần trăm của tổng số tài sản:
NIM=(thu nhập lãi-chi phí lãi)/tài sản


CHƯƠNG 18: ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
I.

Thông tin bất cân xứng và định chế tài chính.
9 yếu tố căn bản của các định chế tài chính.

I.1

Mạng lưới an toàn của chính phủ
Mạng lưới đảm bảo an toàn của chính phủ cho những người gửi tiền tại ngân hàng khi ngân hàng

trong tình trạng vỡ nợ hoặc hoảng loạn bằng cách đưa ra sự bảo vệ cho người gửi tiền. Một trong những
hình thức đó là “bảo hiểm tiền gửi”, được cung cấp bởi tổ chức Bảo hiểm Tiền gửi Liên bang ở Mĩ.
Nghĩa là người gửi tiền sẽ được nhận lại toàn bộ số tiền mà họ đã gửi dù cho ngân hàng có xảy ra
chuyện gì. Với việc được đảm bảo toàn bộ số tiền đã gửi, những người gửi tiền không cần phải chạy đến
ngân hàng rút tiền khi họ lo lắng về tình trạng của ngân hàng. Bởi vì họ sẽ không bị mất một xu nào dù
cho có chuyện gì xảy ra. Trước khi FDIC ra đời, số lượng ngân hàng phá sản trung bình mỗi năm 2000.
Nhưng sau khi FDIC được thành lập vào năm 1934, con số này đã giảm trung bình 15 ngân hàng mỗi
năm cho đến năm 1981.
FDIC đã sử dụng 2 phương pháp chính để xử lý 1 ngân hàng vỡ nợ: phương pháp thanh toán,
và phương pháp mua, sáp nhập.
Bảo hiểm tiền gửi không phải là phương pháp duy nhất để chính phủ tạo ra mạng lưới an toàn
cho ngư ời gửi tiền. Ở nhiều nước, chính phủ thường bảo trợ cho những ngân hàng nội địạ khi họ đối
mặt với những khoản tiền gởi không có bảo hiểm rõ ràng . Đôi khi, sự hỗ trợ này được cung cấp bằng

cách cho các định chế gặp khó khăn vay từ ngân hàng trung ươn g, và vai trò của ngân hàng trung ương
được xem như là người cho vay cuối cùng . Đôi khi, sự hỗ trợ được thực hiện bằng cách cấp vốn trực
tiếp đến những định chế gặp khó khăn hoặc chính phủ tiếp nhận chúng và thanh toán toàn bộ tiền gửi
cho người gửi tiền. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bảo hiểm tiền gửi của chính phủ phát triển
phổ biến & lan rộng ở nhiều quốc gia trên thế giới
1.1.1.1

Rủi ro đạo đức và mạng lưới an toàn của chính phủ

Mặc dù một mạng lưới an toàn của chính phủ đã thành công bảo vệ người gửi tiền và ngăn
chặn các sự hoang mang của ngân hàng . Nhưng nhược điểm nghiêm trọng cúa nó có nguyên nhân ở
rủi ro đạo đức, rủi ro xảy ra khi một bên tham dự vào cuộc giao dịch có ý muốn thực hiện những hoạt
động bất lợi cho bên kia.
Rủi ro đạo đức là mối lo hàng đầu trong các qui định của chính phủ khi cung cấp mạng lưới an


toàn. Bởi vì những người gửi tiền có bảo hiểm biết rằng họ sẽ không gánh chịu tổn thất nếu một ngân
hàng vỡ nợ, họ không áp đặt một kỷ luật thị trường cụ thể lên các ngân hàng bằng cách rút tiền gửi khi
họ nghi ngờ rằng ngân hàng của họ đang mang lấy quá nhiều rủi ro. Kết quả, các ngân hàng được
hưởng mạng lưới an toàn của chính phủ có động cơ chấp nhận rủi ro cao hơn mức bình thường.
1.1.1.2

Sự lựa chọn đối nghịch và mạng lưới an toàn của chính phủ

Một vấn đề nữa đối với bảo hiểm tiền gửi xảy ra là do lựa chọn đối nghịch, việc này dễ xảy ra
đối với những người có nhiều khả năng tạo ra kết cục tiêu cực nhất lại là người được bảo hiểm chống
lại sự sụp đổ củangân hàng. Họ là những người muốn tận dụng lợi thế của bảo hiểm nhất. Do những
người gửi tiền có bảo hiểm có ít lý do để giám sát ngân hàng của họ, còn những kẻ đầu cơ thấy công
nghiệp ngân hàng là một công nghiệp hấp dẫn đặc biệt, họ biết có thể thực hiện những hoạt động rủi
ro cao. Tệ hơn nữa, do những người gửi tiền có bảo hiểm ít giám sát các hoạt động ngân hàng của họ,

nên những kẻ lừa đảo trắng trợn thấy hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực hấp dẫn cho các hoạt động
của chúng, bởi vì chúng dễ dàng bỏ trốn với món tiền biển thủ.
1.1.1.3

Chính sách quá lớn không thể vỡ nợ

Rủi ro đạo đức do việc bảo hiểm tiền gửi gây ra và ý muốn ngăn ngừa các vụ vỡ nợ ngân hàng đã
khiến cho những người điều hành ngân hàng ở vào một tình thế khó xử. Bởi vì một vụ vỡ nợ ngân hàng
lớn có thể dẫn đến một sự đỗ vỡ tài chính quan trọng xuất hiện, những người điều hành ngân hàng
đương nhiên là không muốn cho phép một ngân hàng lớn bị vỡ nợ để gây tổn thất cho những người
gửi tiền ở đó. Do đó, cơ quan kiểm tra tiền ( người điều hành các ngân hàng quốc gia ) đã xác nhận
với quốc hội rằng chính sách của FDIC là xếp 11 ngân hàng lớn nhất vào loại “ quá lớn không thể vỡ
nợ ” , tức là FDIC sẽ bảo lãnh cho các ngân hàng này để không có người gửi tiền hoặc chủ nợ nào phải
chịu tổn thất. FDIC sẽ làm điều này bằng cách sử dụng “phương pháp mua & sáp nhập ” tức là tìm một
người chung phần sẵn lòng hợp nhất để kế tục ngân hàng không trả được nợ này ( và các món tiền gửi ở
ngân hàng này ) sau khi FDIC đã cấp cho ngân hàng này một số vốn tiếp sức lớn.
Một vấn đề với chính sách “ quá lớn không để vỡ nợ ” là ở chỗ nó sẽ làm tăng ý muốn của ngân
hàng lớn đối với rủi ro đạo đức. Nếu FDIC sẵn lòng đóng cửa một ngân hàng bằng cách dùng “ phương
pháp thanh toán ”, tức là chỉ thanh toán cho những người gửi tới giới hạn 250.000 đô la, còn những
người gửi lớn hơn 250.000 đô la sẽ phải chịu tổn thất nếu ngân hàng đó vỡ nợ. Nếu như vậy người gửi
tiền lớn sẽ để phần giám sát ngân hàng này và họ sẽ rút tiền ngay khi thấy có quá nhiều rủi ro. Điều này
lại làm cho ngân hàng có thể giảm bớt ý muốn những hoạt động rủi ro hơn. Nhưng nếu một khi những


người gửi tiền cỡ lớn biết rằng ngân hàng này là thuộc loại “ quá lớn không thể vỡ nợ ” thì họ không
còn ý muốn giám sát ngân hàng nữa, và họ cũng không rút tiền ra khi biết ngân hàng này đang gặp rủi
ro. Họ không quan tâm ngân hàng đó đang làm gì, vì những người gửi tiền cỡ lớn thấy mình không phải
chịu tổn thất nào. Kết quả của chính sách “ quá lớn không thể vỡ nợ ” là ở chỗ dù các ngân hàng lớn có
gặp rất nhiều rủi ro cũng không bị phá sản.
1.1.1.4


Sự hợp nhất tài chính & sự đảm bảo an toàn của chính phủ trong việc gửi tiền.

Sự hợp nhất tài chính đưa ra 2 thách thức về sự điều hành ngân hàng bởi vì sự tồn tai của mạng
lưới an toàn của chính phủ.
- Trước hết, việc gia tăng quy mô ngân hàng bởi vì kết quả hợp nhất tài chính làm tăng vấn đề “quá lớn

không thể vỡ nợ”. Bởi vì, bây giờ có nhiều hơn những tổ chức tài chính lớn mà sự vỡ nợ của nó bộc lộ
những rủi ro toàn hệ thống tài chính. Vì thế, nhiều tổ chức ngân hàng được xem như là “quá lớn không
thể vỡ nợ” và khuyến khích việc tăng rủi ro đạo đức để những tổ chức lớn đảm nhận rủi ro lớn hơn,
việc này làm tăng thêm sự mong manh của hệ thống tài chính.
- Thứ hai, sự hợp nhất tài chính của ngân hàng với những công ty dịch vụ tài chính khác cho thấy rằng

mạng lưới an toàn của chính phủ có thể được mở rộng ra những hoạt động mới, chẳng hạn như sự bảo
lãnh chứng khoán, bảo hiểm hoặc bất động sản. Điều này làm tăng những rủi ro. Và những hoạt động
này sẽ làm yếu đi cơ cấu hệ thống tài chính. Việc giới hạn sức thu hút của rủi ro tài chính đối với những
tổ chức tài chính phức tạp đang có những kết quả từ những thay đổi gần đây trong pháp luật. Và đây
cũng là một vấn đề quan trọng mà nhữ ng người điều hành ngân hàng phải đối mặt trong tương lai.

I.2

Những hạn chế về nắm giữ tài sản & yêu cầu về vốn điều lệ
Các biện pháp điều hành ngân hàng nhằm hạn chế việc ngân hàng nắm giữ các tài sản rủi ro như

cổ phiếu phổ thông là công cụ trực tiếp buộc ngân hàng tránh những hoạt động có quá nhiều rủi ro.
Chúng cũng khuyến khích ngân hàng đa dạng hóa và làm giảm rủi ro bằng cách giới hạn mức cho vay
đối với một cá nhận hay một nhóm người nhất định. Yêu cầu về việc ngân hàng có đủ số vốn sở hữu là
một cách khác để làm cho ngân hàng có động cơ chấp nhận mức rủi ro thấp hơn. Khi buộc phải nắm giữ
một số vốn sở hữu lớn, các ngân hàng sẽ mất nhiều hơn khi bị sụp đổ và điều này làm cho họ có động cơ
theo đuổi những hoạt động ít rủi ro hơn.

Những yêu cầu về vốn ngân hàng có 2 hình thức:
- Thứ nhất, dựa trên tỷ lệ đòn bẩy, tổng số vốn được chia cho tổng tài sản của ngân hàng. Để phân loại vốn


tốt, tỷ lệ đòn bẩy của ngân hàng phải cao hơn 5%. Tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn, đặc biệt là dưới 3%, sẽ làm
cho các nhà điều hành cảnh giác và đề ra những hạn chế đối với ngân hàng.
- Loại thứ hai là yêu cầu về vốn dựa trên rủi ro nằm trong hiệp ước Basel. Hiệp ước Basel yêu cầu ngân

hàng phải có vốn ít nhất 8% tài sản được gia quyền theo rủi ro. Yêu cầu này đã được thôn g qua hơn 100
quốc gia, trong đó có Mĩ.
Qua thời gian, các hạn chế của Hiệp ước Basel đã trở nên rõ ràng, bởi vì chỉ tiêu điều hành về
rủi ro ngân hàng do các chỉ số rủi ro tạo ra có thể khác xa mức rủi ro thực tế mà ngân hàng phải đối mặt.
Tình hình này dẫn tới cái gọi là sự đảo hối mang tính điều hành, trong đó ngân hàng đưa vào sổ sách
các tài sản có yêu cầu về vốn dựa trên cơ sở rủi ro như nhau, nhưng tương đối rủi ro. Để giải quyết các
hạn chế này, Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng đã đưa ra Hiệp định mới về vốn, thường gọi là Basel
2.
I.3

Hành động đối phó kịp thời:
Nếu số vốn của một tổ chức tài chính giảm xuống mức thấp, có hai vấn đề nghiêm trọng:

+ Thứ nhất, các ngân hàng có nhiều khả năng thất bại bởi vì nó có một lượng vốn nhỏ hơn kê lên nếu bị
lỗ vốn vay hoặc tài sản ký gửi khác.
+ Thứ hai, với ít vốn, tổ chức tài chính có nhiều khả năng đảm nhận rủi ro quá mức. Có nhiều khả năng
cho rằng tổ chức sẽ thất bại và người nộp thuế sẽ lại cầm trái túi.
=> Để ngăn chặn điều này, Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang với Đạo luật cải tiến năm
1991 đã thông qua quy định hành động khắc phục kịp thời yêu cầu FDIC phải can thiệp sớm hơn và mạnh
mẽ hơn khi một ngân hàng dính vào rắc rối
I.4


Sự Giám Sát Ngân Hàng: cấp phép & giám sát
Như chúng ta đã biết, sự giám sát việc quản lý là một phương pháp quan trọng để giảm sự lựa

chon đối nghịch và rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng.. Bởi vì ngân hàng có thể bị lợi dụng bởi kẻ
lừa đảo hay những doanh nghiệp đầy tham vọng để thực hiện những hoạt động đầu cơ. Đặc quyền của
ngân hàng là một phương pháp để ngăn chặn sự lựa chọn đối nghịch. Thông qua việc này, những đề
nghị thành lập các ngân hàng mới để ngăn chặn những kẻ gây rối quản lý chúng.
Việc giám sát tại chỗ cho phép người điều hành giám sát liệu rằng một ngân hàng có tuân theo yêu
cầu vốn và những hạn thế trong việc nắm giữ tài sản, cũng như chức năng giới hạn rủi ro đạo đức. Những
người giám sát sẽ đưa ra xếp hạng CAM ELS (được ghép từ chữ cái đầu của: tính thích hợp của vốn, chất
lượng tài sản, thu nhập, tính thanh khoản, độ nhạy cảm đối với rủi ro thị trường ). Nhờ thông tin này về


hoạt động ngân hàng, nhà điều hành có thể làm cho các biện pháp điều hành có hiệu lực bằng cách áp
dụng những biện pháp chính thức như lệnh dừng hoạt động để làm thay đổi hành vi của ngân hàng hoặc
thậm chí ra quyết định đóng cửa nếu hạng CAM ELS của nó thấp tới mức nhất định. Những hoạt động để
giảm rủi ro đạo đức bằng sự giới hạn ngân hàng nắm giữ nhiều rủi ro để giảm sự lựa chọn đối nghịch.
Bởi vì ít có hội để nhận lấy rủi ro. Những nhà đầu cơ sẽ ít bị thu hút vào ngành công nghiệp ngân hàng.
Việc cấp phép có tác dụng tương tự như sàng lọc người đi vay tiềm tàng. M ột khi ngân hàng
đã có đư ợc cấp phép, phải báo cáo định kỳ ( thường là quý), để làm rõ các tài sản và nợ phải trả, thu
nhập và cổ tức, sở hữu, các giao dịch về ngoại tệ… N gân hàng cũng phải tập trung kiểm tra bởi cơ
quan điều hành ngân hàng để xác định tình hình tài chính của nó ít nhất mỗi năm một lần. Để tránh
trùng lắp, ba cơ quan liên bang làm việc với nhau và chấp nhận kết quả kiểm tra của nhau.
Việc kiểm tra ngân hàng được thực hiện bởi những người kiểm soát viên ngân hàng, người mà
đôi lúc bất ngờ ghé thăm ngân hàng. Giám sát viên nghiên cứu sổ sách của ngân hàng để xem xét liệu
ngân hàng có tuân thủ qui định và biện pháp điều hành đối với tài sản không. Nếu ngân hàng giữ
chứng khoán hay cho vay quá rủi ro, Giám sát viên có thể bắt buộc ngân hàng xử lý chúng. Nếu giám
sát viên quyết định rằng món nợ đó không có khả năng trả, họ có thể bắt ngân hàng tuyên bố khoản cho
vay này là vô giá trị. Nếu sau khi kiểm tra ngân hàng, giám sát viên cảm thấy rằng nó không đủ vốn
hay đã tham gia các hoạt động không trung thực. Ngân hàng có thể được tuyên bố “ Ngân hàng có vấn

đề” và sẽ được kiểm tra thường xuyên hơn.
I.5

Đánh giá các hệ thống quản lý rủi ro
Thông thường, những cuộc kiểm tra trên tổng thể ngân hàng đã tập trung chủ yếu vào đánh giá

về chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng ở một điểm nhất định và liệu nó có phù hợp
với yêu cầu về vốn và những hạn chế trong việc nắm giữ tài sản. Mặc dù, sự chú ý đó là quan trọng để
giảm rủi ro vượt mức của các ngân hàng, nhưng dường như nó không được đầy đủ trên thế giới ngày
nay, trong đó việc đổi mới tài chính đã tạo ra những thị trường mới và các công cụ dễ dàng cho các
ngân hàng và cho người lao động tham gia giao dịch một cách nhanh chóng và dễ dàng. Trong môi
trường tài chính mới này, một ngân hàng khá mạnh ở một điểm cụ thể tại một thời điểm có thể bị cuốn
vào tình trạng mất khả năng thanh toán từ những khoản lỗ t rong kinh doanh, trường hợp này đã được
chứng minh một cách mạnh mẽ bởi sự thất bại của Barings vào những năm 1995. Do đó, một cuộc kiểm
tra chỉ chú ý trên vị thế của một ngân hàng tại một thời điểm có thể không hiệu quả nếu như thực tế
ngân hàng đó gặp rủi ro quá mức trong tương lai gần.



CHƯƠNG 19: NGÀNH NGÂN HÀNG: CẤU TRÚC VÀ SỰ CẠNH TRANH

ánh trong hướng dẫn gần đây được thông qua bởi các cơ quan quản lý ngân hàng
Mỹ để xử lý về rủi ro lãi suất. Những nhà quản lý Mỹ đã dự tính yêu cầu các ngân
hàng sử dụng một mô hình tiêu chuẩn để tính toán số vốn ngân hàng sẽ cần phải có để
tỷ lệ giữa lãi suất cho phép - rủi ro nó mang lại.
I.6

Những yêu cầu công bố thông tin
Để đảm bảo rằng có thể có thông tin tốt hơn cho người gửi tiền và thị trường,


các nhà điều hành có thể yêu cầu các ngân hàng tuân thủ tiêu chuẩn kế toán nhất
định và công bố một loạt các thông tin giúp thị trường đánh giá chất lượng danh
mục đầu tư của ngân hàng và mức rủi ro mà ngân hàng phải chịu. Việc ngân hàng
công bố nhiều thông tin hơn về rủi ro và chất lượng danh mục đầu tư của họ sẽ tạo
điều kiện tốt hơn cho cổ đông, chủ nợ và người gửi tiền đánh giá, cũng như các nhà
giám sát ngân hàng, qua đó ngăn ngừa được tình trạng chấp nhận mức rủi ro quá cao.
I.7

. Bảo vệ người khách hàng
Sự tồn tại của thông tin bất đối xứng cũng cho thấy rằng nhà đầu tư có thể

không có đủ thông tin để tự bảo vệ mình hoàn toàn. Quy định bảo vệ người tiêu
dùng đã thực hiện nhiều hình thức. Thứ nhất, trong Đạo luật về Bảo vệ N gười tiêu
dùng năm 1969 có câu “Thành thật trong cho vay”. Trong đó yêu cầu tất cả người
cho vay, không chỉ các ngân hàng, cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về chi phí
vay nợ bao gồm lãi suất chuẩn hóa và tổng chi phí tài chính được tính vào tiền vay.
Bản Dự luật về Tín dụng Công bằng năm 1974 yêu cầu các chủ nợ, đặc biệt là những
người phát hành thẻ tín dụng cung cấp thông tin về phương pháp đánh giá các khoản
chi phí tài chính và yêu cầu các đơn khiếu nại được xử lý một cách nhanh chóng.
Quốc hội cũng đã thôn g qua pháp luật để giảm sự phân biệt đối xử trong thị
trường tín dụng. Đạo Luật Cơ Hội Tín dụng Công bằng năm 1974 và mở rộng của
nó vào năm 1976 cấm phân biệt đối xử bằng cách cho vay dựa trên giới tính, chủng
tộc, tình trạng hôn nhân, tuổi tác, hoặc nguồn gốc quốc gia. Các hành động tái đầu
tư cộng đồng (CRA) năm 1977 được ban hành để ngăn chặn "khu vực đèn đỏ",
người cho vay từ chối cho vay trong một khu vực cụ thể (được đánh dấu bằng các
22


ThS. Nguyễn Hữu Huân


vạch đỏ trên bản đồ). Đạo luật Tái đầu tư Cộng đồng yêu cầu các ngân hàng cho
thấy rằng họ cho vay ở tất cả các khu vực, nơi mà họ nhận tiền gửi và nếu các ngân
hàng bị tìm ra các hoạt động không tuân thủ, các nhà quản lý có thể từ chối đơn xin
sáp nhập, thiết lập chi nhánh, hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh.
I.8

Những hạn chế đối với cạnh tranh
Trong quá khứ, ở Mĩ các biện pháp để bảo vệ ngân hàng chống lại sự cạnh tranh
tồn tại dưới hai dạng:
- Dạng thứ nhất là hạn chế thành lập chi nhánh, qua đó làm giảm mức độ cạnh

tranh giữa các ngân hàng.
- Dạng thứ hai liên quan đến việc ngăn ngừa các tổ chức phi ngân hàng cạnh tranh với

ngân hàng thông qua việc tham gia vào hoạt động kinh doanh ngân hàng như trong
Đạo luật Glass-Steagal (đã bãi bỏ năm 1999)

Mặc dù việc hạn chế cạnh tranh là nhằm mục đích hỗ trợ cho sự lành mạnh của ngân hàng,

các biện pháp hạn chế cạnh tranh cũng có nhiều nhược điểm nghiêm trọng. Chúng dẫn tới các k
lệ phí cao đối với người tiêu dùng & làm giảm hiệu quả của các tổ chức ngân hàng do không phải
sự cạnh tranh khốc liệt.
Một số khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình điều hành ngân hàng khi các
ngân hàng tham gia vào hoạt động ngân hàng quốc tế và do đó có thể dễ dàng mở
rộng việc kinh doanh của mình từ nước này sang nước khác. Những người điều hành
N gân hàng kiểm tra chặt chẽ những hoạt động nội địa của ngân hàng trong nước của
nó, nhưng họ thường không có kiến thức hoặc năng lực để kiểm tra chặt chẽ các
nghiệp vụ ngân hàng ở nước khác, có thể được thực hiện bởi các chi nhánh nước ngoài
của ngân hàng trong nước hoặc bởi ngân hàng nước ngoài có chi nhánh trong nước.
Ngoài ra, khi một ngân hàng hoạt động ở nhiều nước, thì không phải lúc nào người ta

cũng xác định được một cách rõ ràng rằng cơ quan của quốc gia nào có trách nhiệm
trong việc giữ cho ngân hàng không tham gia vào những hoạt động quá mạo hiểm.
23


CHƯƠNG 19: NGÀNH NGÂN HÀNG: CẤU TRÚC VÀ SỰ CẠNH TRANH

Những khó khăn tồn tại trong sự điều hành ngân hàng quốc tế đã được nhấn mạnh
bằng sự sụp đỗ của ngân hàng BCCI.
Sự hợp tác giữa những người điều hành ở những quốc gia khác nhau & tiêu
chuẩn hóa các yêu cầu điều hành sẽ tạo ra giải pháp khả thi để giải quyết những khó
khăn trong điều hành ngân hàng quốc tế. Thế giới đã theo hướng này thông qua thỏa
thuận như trong Hiệp Ước Basel, và được thông qua Ủy Ban này 7/1992. Đạo luật
này yêu cầu ngân hàng trên thế giới hoạt động trên sự kiểm tra của một nước chủ nhà
với việc nâng cao quyền để thu thập thông tin về những hoạt động của ngân hàng.
Nó cũng đưa ra qui định những người điểu hành ở những nước khác, có thể giới hạn
những hoạt động của những ngân nước ngoài nếu nó cảm thấy việc giảm sát không
có hiệu quả.

II.
II.1

Cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Mỹ năm 1980. Tại sao?
Giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng.
Sự việc bắt đầu với sự bùng nổ của công cuộc đổi mới tài chính trong những

năm 1960, 1970 & đầu những năm 1980 đã tạo ra những công cụ thị trường tài chính
mới, những việc này đã mở rộng phạm vi cho các rủi ro. Những thị trường mới về
giao dịch tài chính kỳ hạn, trái khoán bắp bênh, về trao đổi lãi suất …đã tạo dễ dàng
hơn cho các ngân hàng mang lấy rủi ro, đặc biệt làm cho các vấn đề rủi ro đạo đức

và chọn lựa đối nghịch càng thêm nghiêm trọng. Những tổ chức tiết kiệm vốn đã bị
hạn chế hầu như hoàn toàn trong các món vay thế chấp mua nhà, nay đã được phép
có 40% tài sản của họ là những món cho vay bất động sản thương mại, tới 30% là
cho vay người tiêu dung và tới 10% là các món cho thuê và cho vay thương mại. theo
luật pháp này những người điều hành các ngân hàng tiết kiệm và cho vay đã cho phép
tới 10% tài sản có là loại trái khoán bấp bênh hoặc là những món đầu tư trực tiếp ( cổ
phiếu phổ thông, bất động sản, công ty dịch vụ và hỗ trợ kinh doanh )
Ngoài ra, luật pháp năm 1980 đã nâng mức bảo hiểm tiền gửi liên bang và dần
dần bãi bỏ những mức lãi suất tiền gửi tối đa theo quy định. Các ngân hàng và công
nghiệp tiết kiệm và cho vay, các tổ chức này đã muốn thay đổi sự tăng trưởng nhanh
24


ThS. Nguyễn Hữu Huân

chóng và nắm lấy những dự án rủi ro, nay có thể thu hút lượng vốn cần thiết bằng
cách phát hành những chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn hơn, được bảo hiểm và có lãi
suất cao hơn nhiều so với đối thủ cạnh tranh. Nếu không có bảo hiểm tiền gửi, lãi
suất cao sẽ không kích thích người gửi tiền cấp vốn cho ngân hàng quay vòng nhanh,
bởi vì họ sợ rằng không thể thu hồi được vốn. Nhưng khi có bảo hiểm tiền gửi, chính
phủ đảm bảo rằng tiền gửi là an toàn, người gửi tiền cảm thấy quá sung sướng khi gửi
được tiền vào ngân hàng với lãi suất cao ngất.
Đổi mới tài chính & tự do hóa trong bầu không khí bi quan vào những năm
Rigan cầm quyền dẫn tới sức mạnh ngày càng tăng của ngành tiết kiệm & cho vay
và ngành này đến lượt nó lại tạo ra nhiều vấn đề. Thứ nhất, nhiều giám đốc của tổ
chức tiết kiệm & cho vay không có những kĩ năng cần thiết để quản lý rủi ro. Thứ
hai, sức mạnh ngày càng tăng hàm ý có sự tăng trưởng nhanh chóng của các khoản
cho vay mới, đặc biệt là trong khu vực bất động sản. Ba là, những sức mạnh mới này
của ngành tiết kiệm & cho vay, sự bùng nổ cho vay hàm ý hoạt động của họ mở rộng
về qui mô và trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải tăng thêm nguồn lực để giám sát.

N hưng thật không may, các nhà điều hành tiết kiệm & cho vay tại Công ty Bảo hiểm
Tiết kiệm & Cho vay Liên bang (FSLIC) vừa không có kỹ năng, vừa không có nguồn
lực cần thiết để giám sát các hoạt động mới này một cách đầy đủ. Nên không có gì
ngạc nhiên, khi các hiệp hội tiết kiệm & cho vay chấp nhận mức rủi ro quá cao, dẫn tới
những tổn thất to lớn về nợ xấu.
Ngoài ra, sự gia tăng rủi ro đạo đức còn được thúc đẩy do yếu tố ngẫu nhiên của
lịch sử: đó là tác động tổng hợp của sự gia tăng trong lãi suất từ cuối năm 1979 cho
tới năm 1981 và tình trạng suy thoái nghiêm trọng vào những năm 1981-1982.
II.2

Gi ai đoạn sau của cuộc khủng hoảng: kiên nhẫn trong điều hành
Ở giai đoạn này, những nhà điều hành Quỹ Bảo hiểm Tiết kiệm và Cho vay

Liên bang (FSLIC), cùng với Hội đồng N gân hàng Cho vay Nhà ở Liên bang
(FHLBB) đáng lẽ phải đóng cửa các hiệp hội S&L đã mất khả năng thanh toán nhưng
họ đã không làm như vậy. Thay vào đó, những nhà điều hành này vận dụng quan điểm
kiên nhẫn trong điều hành, tức là họ không thực hiện quyền điều hành của mình là
25


×