Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

giá trị của chữ đức trong tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (788.44 KB, 29 trang )

LỜI CẢM ƠN
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức
cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh
tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài
và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề
quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Nhóm xin chân thành
cảm ơn Thầy đã giới thiệu đề tài cho nhóm, tạo điều kiện cho nhóm được nêu lên
những vấn đề đã tìm hiểu được với lớp. Trong quá trình tìm hiểu, chúng em nhận thấy
có rất nhiều kiến thức khoa học bổ ích; là yếu tố không thể thiếu trong quá trình hình
thành, hoàn thiện nhân cách; bồi dưỡng thêm nhiều kĩ năng của bản thân.

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................


...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................

2


...........................................................................................................................................
............................

3


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………………………….26

4



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng,và vấn đề
đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảngviên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần,kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phảixứng đáng là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân". Cả cuộc đời củamình, Người đã tự thực hiện một cách hoàn chỉnh, trọn
vẹn những tư tưởngvà khát vọng đạo đức cách mạng; Người vừa là nhà lý luận đạo đức
cáchmạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần gũi và độc đáo nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là đạođức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng củacá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và theocách diễn đạt bình dị của Người:
Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn củasông suối, sức mạnh của con người, sức có
mạnh mới gánh được nặng, và điđược xa. Ngay trong những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Đảng tatiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và thống nhất đất nước,
Người đã kháiquát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm
qualà vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫnđược mọi
người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa,nếu sa vào chủ nghĩa
cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh:"Đảng phải là đạo đức, là văn minh",
cán bộ, đảng viên có đạo đức cáchmạng phải vừa hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài,
đức là gốc; phải có sựtrung với nước, và hiếu với dân.
2. Giả thuyết nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Đức nắm vai trò quan trọng,được phát huy và kế thừa
trong thực tiễn xã hội ngày nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng ưu tiên của nghiên cứu khoa học này là tư tưởng Hồ Chí Minh về chữ Đức
trong thực tiễn xã hội Việt Nam.

5



4. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu này hoàn toàn được xây dựng bằng phương pháp mô tả.
5. Mục đích và ý nghĩa của nghiên cứu:
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh
thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cánbộ, công chức đối với Bác kính
yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vócvĩ đại đã vượt qua mọi không gian và thời
gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại: Anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
I. KHÁI NIỆM CHỮ ĐỨC
Đức là một khái niệm triết học, đạo đức quan trọng và phổ quát trong các truyền thống
đạo học phương Đông. Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo quan niệm về chữ đức có
phần khác biệt nhau nhưng đại thể thì tương đồng trên bình diện đạo đức. Theo Tự điển
Hán-Việt (Thiều Chữu), chữ đức có nhiều nghĩa như đạo đức, đức hạnh, điều thiện, ân
đức. Từ điển Tiếng Việt (Viện Văn học-Hoàng Phê chủ biên), đức là cái biêu hiện tốt
đẹp của đạo lý trong tính nết, tư cách, hành động của con người; tính tốt, hợp với đạo
lý; điều tốt lành do ăn ở có đạo đức; ân huệ.
II. TƯ TƯỞNG CHỮ ĐỨC TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG
TÂY
1. TƯ TƯỞNG CHỮ ĐỨC TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
1.1 Tư tưởng chữ Đức trong Phật giáo
Trong cuộc sống, Tâm và Đức làm nên vẻ đẹp của con người. Vẻ đẹp ấy tạo nên sự
khác biệt căn bản giữa con người và các loài vật. Nói đến chữ Đức chính là nói về đạo
đức con người, là luôn đồng nghĩa với những điều tốt đẹp.
Chữ Đức được kết hợp từ ba bộ chữ là chữ sách, chữ trực và chữ tâm. Trong đó, chữ
sách có nghĩa là bước đi, hành động; chữ trực nghĩa là ngay thẳng, chính trực; chữ tâm
mang ý nghĩa về sự suy tư, về ý nghĩ, tư duy. Như vậy có thể hiểu một cách khái quát:
Chữ Đức nghĩa là sống thực với chính mình, làm đúng với lương tâm mình.

6


Nói thì như vậy, nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Bởi không phải ai cũng chịu
hiểu chính xác chính con người mình và sống với con người thật của mình một cách
thẳng thắn, đầy đủ. Sống làm sao để có được nội tâm hài hòa, bao dung, tha thứ, quan
hệ tốt với mọi người xung quanh..., đó cũng là những biểu hiện của chữ Đức.
Người xưa có câu: “Tiên tích đức, hậu tầm long” nghĩa là trước phải có đức, phải tu
nhân tích đức, sau mới nghĩ đến chuyện tìm sự giàu sang phú quý (tầm long nghĩa là
tìm long mạch tốt để tạo sự phát đạt, giàu sang). Lại có câu: “Có đức mặc sức mà ăn”
cũng với ý nghĩa tương tự. Chữ Đức, hay nói đúng hơn, ăn ở có Đức là điều rất quan
trọng. Cho nên trong Tử vi, mặc dù đặc biệt coi trọng “số phận” con người, nhưng vẫn
có câu: “Đức năng thắng số’’, cũng là nhằm nhắc nhở người đời hãy biết lấy Đức làm
trọng, vừa giúp ích cho xã hội, vừa tạo nên “số phận” tốt hơn cho chính mình.
Nói về chữ Đức, thiết nghĩ cũng nên nói về quan niệm của Đạo Phật về Đức. Phật giáo
coi Đức chính là hành động thiện, lời nói thiện, suy nghĩ thiện... để từ đó có được sự từ
bi, hỷ xả, mang điều tốt đẹp đến cho mọi người. Hơn nữa, Đạo Phật còn có quan niệm
về sự luân hồi, nghĩa là có sự nối tiếp nhân quả của Đức từ tiền kiếp trong quá khứ. Vì
vậy mới có lời khuyên rằng: Ăn ở hiền lành để phúc cho con; hoặc có lời răn: Đời cha
ăn mặn, đời con khát nước... Mỗi khi ta đến chùa tụng kinh niệm Phật là đến với cõi
tâm linh mà cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ là điều ta hướng tới. Bởi Đức Phật Thích Ca
có ba đức là Bi đức, Trí đức và Tịnh đức. Trong đó, Bi đức là tình thương bao la, là
lòng trắc ẩn; Trí đức là trí tuệ cao khó có gì sánh bằng; Tịnh đức là dù ở trước mặt hay
sau lưng thì tâm Phật đều vậy, không đổi thay. Như thế, tình thương, trí tuệ và sự chân
thật ở con người là cốt lõi của Đức.
Trong Phật giáo, Hòa thượng là những vị mà phúc đức thật vô cùng...chữ đức mang ý
nghĩa vô cùng rộng lớn, bao hàm các phương diện thể, tướng và dụng của đức với Nhị
đức, Tam đức, Tứ đức, Ngũ đức… Theo Từ điển Phật học Huệ Quang (Thích Minh
Cảnh-chủ biên), đức là điều đạt được do sự tu hành chánh đạo; công đức của quả vị
Phật. Nhị đức gồm Trí đức tức là Bồ đề-trí huệ viên mãn và Đoạn đức tức Niết bàn-dứt

hết phiền não. Ngoài ra, Tính đức là bản tính chân thật vốn có và Tu đức đạt được do tu
hành cũng gọi là Nhị đức.
7


Tam đức là ba đức tướng của Niết bàn gồm:Pháp thân đức là Chân như sẵn đủ xưa nay
của tất cả các pháp.Giải thoát đức là thoát ly sự trói buộc của phiền não và Bát nhã đức
là trí tuệ giác ngộ.Tam đức về phương diện ba tương của quả vị Phật gồm: Trí đức là trí
tuệ quán sát tất cả pháp,Đoạn đức là diệt hết tất cả phiền não,Ân đức là nguyện lực cứu
độ chúng sanh. Mặt khác, Tam đức về phương diện ba đức tướng viên mãn của Như
Lai gồm Nhân viên đức,Quả viên đức và Ân viên đức. Nhân viên đức là nhân hạnh của
Như Lai hoàn toàn đầy đủ nhờ:Tu tập phước và trí không bỏ sót;trải qua ba a tăng kỳ
kiếp vẫn không mệt mỏi; tinh tấn mạnh mẽ không hề phế bỏ một sát na; cung kính cầu
học, không hề hối tiếc, khinh mạn. Quả viên đức là quả đức của Như Lai viên mãn
gồm: đầy đủ trí tuệ Vô sư trí,Nhất thiết trí,Nhất thiết chủng trí và Vô công dụng trí;
đoạn trừ tất cả phiền não; hóa độ được kẻ khó hóa độ, quyết nghi được những điều khó
quyết nghi; có sắc tướng đẹp đẽ, có sức mạnh, tỏa hào quang. Ân viên đức là đức từ bi
thương xót chúng sanh của Như Lai hoàn toàn viên mãn để cứu thoát chúng sanh ra
khỏi ba đường ác.
Tứ đức, bốn đức Pháp thân của Như Lai gồm: Thường, thể tính của Pháp thân Như Lai
là thường trụ, không bao giờ dời đổi; Lạc, Pháp thân Như Lai lìa hẳn các khổ, trụ trong
an vui hoàn toàn của Niết bàn tịch tịnh; Ngã, Pháp thân Như Lai tự tại vô ngại, siêu
việt hữu ngã và vô ngã; Tịnh, Pháp thân Như Lai lìa cấu nhiễm, thanh tịnh và vắng
lặng.
Và tất nhiên, trong đạo Phật, chữ đức luôn mang ý nghĩa quan trọng là đạo đức, đức
hạnh. Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn) định nghĩa: Điều lành (thiện), sự ăn ở theo
giới hạnh, những việc có lợi ích cho chúng sanh, ấy là đức. Khái niệm Ngũ đức thiên
về phương diện đạo đức này. Đơn cử như năm đức của giới sư gồm: giữ giới; mười hạ
trở lên; thông hiểu tạng Luật; thông hiểu thiền định; có trí tuệ. Năm đức một vị Sa di
phải biết là: một là phát tâm xuất gia, vì cảm bội Phật pháp; hai là hủy bỏ hình đẹp, vì

thích ứng pháp y; ba là cát ai từ thân, vì không còn thân sơ; bốn là không kể thân
mạng, vì tôn sùng Phật pháp; năm là chí cầu Đại thừa, vì hóa độ mọi người (kinh
Phước Điền) v.v…

8


Mặc dù chữ đức trong Phật giáo có vô lượng nghĩa nhưng đều được thiết lập trên nền
tảng cơ bản là hoàn thiện nhân cách đạo đức nơi mỗi con người. Vì thế, để tu nhân tích
đức (cho mình trong hiện tại và mai sau hay cho con cháu về sau) theo Phật giáo thì có
nhiều phương thức nhưng khái quát nhất và dê thực hành nhất là tuân thủ năm nguyên
tắc đạo đức của người Phật tử (không giết hại, không trộm cướp, không tà hạnh, không
nói dối và không dùng những chất gây nghiện, say sưa) đồng thời học tập và ứng dụng
triệt để bài kệ: “Không làm các điều ác/Chuyên làm các việc lành/Giữ tâm ý thanh
tịnh/Đó chính là lời Phật” trong đời sống hàng ngày.
1.2. Tư tưởng chữ đức của Khổng Tử
Một Nhà tư tưởng, Nhà triết học xã hội nổi tiếng ở nước Trung Hoa xưa, cũng đặc biệt
đề cao cái Đức ở con người. Trong đó, ông đề cao đức “hiếu”, bởi ông cho rằng làm
người trước tiên phải có lòng kính yêu cha mẹ và người thân trong gia đình mình thì
rồi mới biết yêu thương người ngoài, yêu thương đồng loại, mới làm nhiều việc tốt
được. Và, làm người theo Khổng Tử trước hết phải biết tu dưỡng “đức” rồi mới học
“văn”. Hiếu đức ở đây không phải chỉ là nuôi dưỡng cha mẹ một cách đơn thuần mà là
chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ với sự thành kính, sự yêu thương thật sự.
Như vậy, chữ Đức xem ra cũng thật sâu xa và cũng thật mênh mông, rộng lớn; bao hàm
rất nhiều điều mà con người nên có, cần có. Và, Đức không đơn thuần chỉ là một cách
sống, hay một điều có để cho...đẹp; mà Đức làm nên sức mạnh thực sự đối với người
có Đức.
Trong sách “Thuyết văn giải tự” có giải thích và khẳng định về “Đức” rằng: “Đức giả
đắc dã, nội đắc vu kỷ, ngoại đắc vu nhân”, nghĩa là: Người có đức thì bên trong làm
chủ được bản thân, bên ngoài đắc được nhân tâm. Đặc biệt, càng những người ở

“quyền cao chức trọng”, càng cần có đức. Bởi vai trò và việc làm của họ ảnh hưởng
lớn đến xã hội, đến đất nước. Muốn “Tề gia trị quốc, bình thiên hạ” thành công thì đầu
tiên phải biết “Tu nhân” và “Tích đức”; nghĩa là phải không ngừng tu dưỡng đạo đức
bản thân. Không phải vô cớ mà người xưa quan niệm rằng: Vua, quan, phú, quý đều từ
Đức mà ra. Vô đức, vô đắc; mất đức là mất tất cả. Vì chỉ có đức, người lãnh đạo mới có
thể thu lấy Đức của quần chúng; rồi lại đem đến cho quần chúng nhân dân những thành
9


quả mà xã hội, đất nước có được... Hiểu được như thế thì cả người dân và các quan
chức mới tích cực “tu nhân tích đức”, mới có thể mang phú quý thái bình, ấm no sung
sướng về cho dân và sự phồn vinh cho đất nước.
1.3. Tư tưởng chữ Đức trong Nho giáo.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ
bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã
hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách
sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của
cộng đồng xã hội.
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt động sản xuất
và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với người khác và
đối với cộng đồng.Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn tại với thời gian,
tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều đáng chú ý là việc thực
hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do chính bản thân đã nhận
thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con người luôn có cảm giác
hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự trọng và phẩm giá của con
người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý.
Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người đều có chung mục đích là nhằm
điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với quy tắc, chuẩn mực chung của xã
hội.
Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc

con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và
tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình
trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp
đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội.
Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân
làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của

10


lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu
chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo
đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo đời sống đạo
đức của con người.
Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng
ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến
bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội,
đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: "Việc thiện thì dù nhỏ
đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh" [1;tr.55]. Là cái thiện là
phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn
và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội.
Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc sống con người. Quan điểm về
thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng
ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của
con người.
Nho giáo không những chi phối đời sống chính trị xã hôi, đạo đức, văn hóa, giáo dục
Trung Quốc mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Việt Nam trong lịch sử và hiện

nay. Tuy Việt Nam chịu ảnh hưởng của nho giáo một cách sâu đậm nhưng nho giáo vào
Việt Nam lại được khúc xạ bởi nét riêng của văn hóa Việt Nam. Trong mỗi thời kì đều
được dân tộc việt nam ta vận dụng và phát huy mang bản chất dân tộc.Nho giáo là một
thuyết ảnh hưởng sâu rộng và kéo dài nhất xâm nhập vào Việt Nam vào mọi mặt chính
trị đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Việt kế thừa đạo đức Nho giáo không phải giữ nguyên, không cãi biến, kế thừa đây là
cái cốt lõi tinh hoa, những nội dung được khẳng định qua chiều dài của thời gian và
chiều rộng của không gian.

11


2. TƯ TƯỞNG CHỮ ĐỨC TRONG VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY.
2.1. Tư tưởng chữ Đức trong Thiên Chúa Giáo.
Đối với Kitô hữu, đức có hai nghĩa khác biệt: lòng đạo đức và ơn Chúa.
Lòng đạo đức: Sống đời Kitô hữu tốt đẹp theo gương Chúa, tuân giữ những điều
Chúa và Hội Thánh truyền dạy, tham dự các buổi cầu nguyện và phụng vụ, kính mến
Thiên Chúa và yêu thương mọi người, như Thánh Giacôbê đã nói: “Lòng đạo đức tinh
tuyền trước mặt Thiên Chúa là thăm viếng cô nhi, quả phụ gặp bước gian truân và giữ
lòng cho khỏi mọi vết nhơ của trần gian”.Đức theo nghĩa này là cách sống đạo thánh
thiện như đòi hỏi của Chúa: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trới là
Đấng hoàn thiện”.
Ơn Chúa: Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhờ những nhân đức đối thần là đức tin,
đức cậy và đức mến, những nhân đức này đều là do ơn Chúa ban cho.
Đức tin vừa là ơn ban của Thiên Chúa, vừa là hành động siêu nhiên. Một mặt con
người tìm kiếm Thiên Chúa, “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa
thì sẽ mở ra cho”; một mặt Thiên Chúa soi sáng cho con người qua Thánh Kinh và
Thánh Truyền, để nhận biết về Ngài. Từ đó mà xác tín vào sự hiện hữu của Thiên Chúa
và ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Cho nên đức tin có được, không phải do tài giỏi
nhưng là do ơn Chúa. Như Chúa Giêsu đã cầu nguyện: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất,

con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết
những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”.
Đức cậy cũng là ơn ban của Thiên Chúa, để con người có thể hoàn toàn trông cậy vào
Chúa, nhờ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, luôn ban ơn
cho con người, con người không còn phải lo lắng về phần rỗi nữa. “Anh chị em hãy
trút bỏ mọi thứ lo âu cho Chúa, vì Chúa luôn săn sóc anh chị em”. Chính đức cậy biểu
lộ ân sủng, con người không thể tự mình có được, mà hoàn toàn là do ơn ban.
Đức mến : “Là nhân đức giúp tôi kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và vì Chúa tôi
cũng sẽ yêu thương mọi người như chính mình “. Chính Thiên Chúa là Tình Yêu, chỉ
có Chúa mới có Tình Yêu vẹn toàn, con người có khả năng yêu thương hoàn toàn phải
nhờ ơn Chúa. Nên đức mến cũng là ơn Chúa, và là nhân đức quan trọng nhất. “Căn cứ
12


vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai
không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em
mình, thì cũng vậy”. Đức mến giúp con người kính mến Thiên Chúa và vì kính mến
Thiên Chúa mà yêu hết mọi người, kể cả kẻ thù. “Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và
cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”. Khi mọi thứ qua đi, đức mến sẽ tồn tại
mãi “Đức mến không bao giờ mất được”.
2.2. Tư tưởng chữ Đức trong Mác- Lê Nin
Để hiểu một cách rõ ràng về vấn đề đạo đức, trước tiên ta phải hiểu thế nào là ý thức
xã hội bởi đạo đức chính là một hình thái của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống, của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Tuỳ theo góc độ xem xét mà chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận, nhưng quan trọng hơn cả là tâm lý xã hội và hệ tư
tưởng xã hội.
Ph.ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nghiên cứu trạng thái tâm lý

xã hội của nhân dân để hiểu nhân dân, giáo dục nhân dân, đưa nhân dân tham gia tích
cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau của ý thức xã hội, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, chúng có
cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo
điều kiện thuận lợi cho các thành viên giai cấp tiếp thu hệ tư tưởng của giai cấp. Trái
lại, hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội.
Khi nghiên cứu về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, về vai trò tích cực của ý
thức xã hội trong việc phát triển đời sống kinh tế - xã hội có thể nhận thấy huynh
hướng lạc hậu của ý thức xã hội có thể được hiểu rõ trong điều kiện chủ nghĩa xã hội.
Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu sa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội
mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng, Vì vậy trong sự nghiệp xây
dựng xã hội Đảng ta đã xác định phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu
13


tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về
mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát huy những
truyền thống tư tưởng tốt đẹp.
III. TƯ TƯỞNG CHỮ ĐỨC THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH.
1. Tư tương chữ đức Theo quan điểm của HCM trong văn hóa kinh tế- chính trị
1.1. Tư tưởng chữ đức theo quan điểm Hồ Chí Minh trong kinh tế:
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm. Thực chất của đổi mới kinh tế là
chuyển từ mô hình kinh tế tập trung quan liêu hành chính bao cấp sang phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang
tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó vừa có tính tích cực, vừa
có tính tiêu cực đối với đạo đức.
Ảnh hưởng của cơ chế thị trường đối với đạo đức là một hiện tượng hết sức phức

tạp, vừa có ảnh hưởng tích cực, vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với đạo đức:
* Về mặt tích cực:
-

Cơ chế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, nâng cao tổng công lợi xã hội,

tạo điều kiện cho sự phát triển con người về mọi mặt, trong đó có đạo đức. Con người
tham gia vào hoạt động kinh tế thị trường về nhân cách được độc lập, tự do có quyền
bình đẳng trong cạnh tranh, giữ chữ tín trong trao đổi và tăng cường quan tâm phát
triển lợi ích chung của toàn xã hội.
-

Tham gia vào kinh tế thị trường, con người có điều kiện phát triển nhân cách cá

nhân: Tính quyết đoán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính năng động sáng tạo trong lập
thân, lập nghiệp được khẳng định.
* Về mặt tiêu cực:
-

Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, cơ chế thị trường cũng gây ra hàng loạt

những hiện tượng tiêu cực đối với đạo đức và tiến bộ xã hội.

14


-

Đó là, sự phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc, từ đó làm sâu sắc thêm những


mâu thuẫn xã hội.
-

Kinh tế thị trường dễ nảy sinh những tệ nạn xã hội: tham nhũng, tội phạm, bạo

lực. Đó là sự kích thích lòng tham lợi, dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên
thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động. Kinh tế thị trường còn kích thích chủ
nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp
đạo lý. Đặc biệt, đối với những nước mới bước vào kinh tế thị trường, sự đụng độ giữa
kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng trở thành một
vấn đề nan giải.
Là một lĩnh vực đặc trưng cho nhân tính, đạo đức rất nhạy cảm trước tác động của kinh
tế thị trường, nó trở thành vấn đề cấp bách gây ra mối quan tâm không chỉ trên bình
diện lý luận mà cả trên bình diện thực tiễn. Vì thế, việc lựa chọn nội dung và hình thức
giáo dục thích hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng phát triển đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Các tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm giá trị biểu hiện hình thái ý thức cấu thành tiền
đề nhân văn trong hoạt động của chủ thể kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, động lực của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, ngoài những nhân tố kinh tế, còn có cả nhân tố phi kinh tế, kể cả nhân tố tinh
thần đạo đức: như tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đó chính là những tình cảm và giá trị đạo
đức cao đẹp của người Việt Nam.
Đạo đức góp phần điều tiết các quan hệ lợi ích trong kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.Quan hệ đạo đức gắn liền “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Các chuẩn
mực đạo đức duy trì trật tự chung trong các lĩnh vực sản xuất, phân phối, trao đổi và
tiêu dùng, điều hòa quan hệ lợi ích giữa con người với con người. Trong các xí nghiệp
thuộc kinh tế nhà nước, vấn đề đặt ra là làm sao cho công nhân yêu mến xí nghiệp
mình, làm sao để họ coi trọng lợi ích xí nghiệp và thành quả lao động của công nhân
gắn bó chặt chẽ với vinh dự xã hội và lợi ích vật chất của họ. Ở đây không chỉ là tác

động của kinh tế, chính trị mà còn là yếu tố đạo đức nữa.
15


Như vậy đạo đức có vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố bên trong của chính
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2. Tư tưởng chữ đức theo quan điểm Hồ Chí Minh trong chính trị
Nâng cao đạo đức cách mạng, thực hiện cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh, cần có nghĩa là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong học tập, trong
lao động, trong chiến đấu và trong sản xuất; cần còn có nghĩa là làm việc có phương
pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì đó cũng chỉ là bán thân bất
toại.
Kiệm là tiết kiệm thời gian, tiền bạc của cải vật chất và tinh thần cho nhân dân, không
lãng phí, tiêu dùng hợp lý nhằm mục đích mở rộng sản xuất và không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị, không
tham sung sướng; không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích người khác tâng bốc
mình.
Chính là luôn đấu tranh để bảo vệ lẽ phải, lên án những cái xấu, cái sai trái.
Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư
đối với người. Chí công vô tư là mình vì mọi người; luôn luôn đặt lợi ích của Đảng,
của Tổ quốc, của nhân dân lên hàng đầu; khi khó khăn thì đi trước, hưởng thụ sau;
không tham tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ có một mục đích cao nhất là làm sao để
cuộc sống của nhân dân no đủ, hạnh phúc, đất nước phồn vinh
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước,
vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính.
Xây dựng tinh thần tự phê bình và phê bình
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng
chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và

phê bình phải đi đôi với nhau[2; tr. 267 ] . Người khẳng định: tự phê bình và phê bình
có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải xem tự phê
bình và phê bình như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể; mỗi cán
16


bộ, đảng viên “Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc
mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng
thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[2; tr. 644]. Theo Người, tự phê bình
và phê bình là công cụ quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý
tưởng đến hành động cách mạng hàng ngày.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định: “Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị
bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng
Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng
thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê
bình và tự phê bình”[2; tr.289-290]. Nên, trong Di chúc, Người căn dặn: “Trong Đảng
thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là
cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình
đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Đối với Đảng ta hiện nay, tự phê bình và phê bình cũng là một trong bốn giải pháp
quan trọng về xây dựng Đảng được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đề ra và yêu cầu toàn thể cán bộ, Đảng
viên thực hiện nghiêm túc, trong đó đặc biệt chú trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý.
Quán triệt và nghiêm chỉnh thực hiện những quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách
về xây dựng Đảng hiện nay
Tóm lại, để thực hiện việc xây dựng chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, “là đạo
đức, là văn minh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta cần thường xuyên, kiên nhẫn

tiến hành những công việc như: Học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cách mạng Việt Nam, thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân, tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đảng … trong đó việc xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để

17


Đảng xứng đáng “là đạo đức là văn minh” là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, có tính quyết định đối với những nội dung khác
2. Tư tưởng chữ đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong giáo dục.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục vừa là thành qủa của sự chắt lọc tinh tế tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại,
vừa mang đậm hơi thở của cuộc sống. Theo Người, nhân cách con người bao gồm cả
đức và tài, trong đó đức là gốc, tài là quan trọng.
Chữ đức trong giáo dục bao gồm những phẩm chất cơ bản: hết lòng phục vụ Tổ quốc,
phục vụ nhân dân; thương yêu học trò và yêu nghề; yêu lao động và quý trọng người
lao động chân tay; có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh là
hiện thân của một nhà giáo cách mạng, suốt đời vì nước, vì dân, vì nền giáo dục nước
nhà, đời tư trong sáng giản dị, nói đi đôi với làm và là một tấm gương sáng ngời về tinh
thần tự học. Người đã từng đứng trên bục giảng với tư cách là một nhà giáo, tự thiết kế
nội dung chương trình, tổ chức lớp học, truyền đạt bằng phương pháp hiện đại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về chữ đức trong giáo dục rất sâu sắc, có thể khái quát thành
những luận điểm sau:
Phẩm chất đầu tiên cũng là phẩm chất quan trọng nhất, đó là phục vụ Tổ quốc gắn liền
với phục vụ nhân dân. Phẩm chất này được đề cập trong nhiều bài viết, bài nói của Hồ
Chí Minh. Trong buổi nói chuyện với thầy giáo, cô giáo lớp nghiên cứu chính trị khóa
1, Trường Đại học Nhân dân, Người căn dặn: "Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho
nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý.

Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân- tức là phục tùng chân lý" [3;tr 216]
Kính trọng nhân dân, tin vào sức mạnh của nhân dân. Nếu như quan niệm của đạo đức
cũ coi con người dân phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền, thì tới Hồ Chí Minh người dân
được đặt ở vị trí cao nhất, trân trọng nhất, "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân" [3;
tr.276]

18


Người cách mạng và nhà giáo phải có phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư. Đó là những phẩm chất không thể thiếu được. Biểu hiện rõ nhất những phẩm chất
này của người thầy giáo là dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt. Sự
nghiệp trồng người không hề bằng phẳng dễ dàng mà đầy khó khăn, gian khổ. Vì vậy,
không chỉ có quyết tâm, sự hy sinh mà phải có kế hoạch, biết tổ chức, có phương pháp
làm việc khoa học mới hoàn thành được nhiệm vụ. Người thầy giáo phải là tấm gương
sang về rèn luyện đạo đức và tự học, đánh giá kết quả của người học phải khách quan,
công bằng, không thiên tư, thiên vị.
Người nói: " Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách
mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài
cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một
dạ phục vụ nhân dân " [4; tr.331]. Người thầy có ý thức về sự gương mẫu của mình tức
là đang tự hoàn thiện mình. Người thầy dạy học trò về phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, thương yêu lẫn nhau; đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Theo Hồ Chí Minh chữ đức phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như
đối với công việc, quan hệ đồng nghiệp, học trò, cha mẹ học trò, các tổ chức đoàn thể...
Người căn dặn: Phải xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết chặt chẽ, giữa thầy với thầy,
giữa thầy và trò… giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường với nhân dân.
3. Tư tưởng chữ đức theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong văn hóa- nghệ thuật.
Văn học nghệ thuật không đồng nhất với đạo đức; nhưng thống nhất rất cao trong

mục tiêu kiến tạo đạo đức làm cho con người trở nên người hơn. Vì vậy quan niệm
truyền thống đạo đức là hồn cốt của văn chương, nghệ thuật vẫn còn nguyên giá trị.
Trong các hoạt động tinh thần, văn học nghệ thuật có sức mạnh chinh phục, cảm hóa
con người, nâng đỡ và nuôi dưỡng con người không gì thay thế được. Cuộc sống
không ngừng chứng minh rằng, bảo tồn và phát huy nhân cách, hoàn thiện con người,
hoàn thiện xã hội là một cuộc đấu tranh gay gắt và dai dẳng chống lại các áp lực phi
nhân tính.
Đó là cuộc đấu tranh không phân tuyến, hằng ngày hằng giờ diễn ra ngay trong từng
con người, từng gia đình, từng cộng đồng mà nội dung cơ bản không bao giờ cũ là sự
19


xung đột giữa cái thật và cái giả, cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái cao thượng
và cái thấp hèn. Văn học nghệ thuật tham gia vào cuộc đấu tranh đó trên cả hai phương
diện, vừa khẳng định vừa phản biện, vừa nâng đỡ vừa thanh lọc, vừa khoan dung vừa
nghiêm khắc. Nó giúp người ta nhận ra rằng, hoàn thiện là biết mình chưa hoàn thiện.
Nó buộc con người thường xuyên phải đối diện với chính mình, lặng lẽ tự soi chiếu, tự
đối thoại, tự điều chỉnh. Nó thiết lập tòa án lương tâm trong mỗi một con người, buộc
anh phải tự suy xét, tự kiểm nghiệm, tự phán xử; nó truy đuổi đến từng ngõ ngách, làm
cho không ai chạy trốn khỏi chính mình. Bằng những hình tượng sống động, bằng
xương bằng thịt, văn học nghệ thuật chuyển tải khát vọng thẩm mỹ và tình yêu con
người, mang theo lẽ phải và tình thương, mang theo sức sống và hơi ấm đến công
chúng. Nó là dòng suối bền bỉ mát lành, là tiếng nói thầm tin cậy làm tăng thêm tố chất
tự đề kháng, tự chế ngự, tự vượt, tự thắng cho mỗi một con người. Và như vậy, văn
nghệ sĩ chính là người tiếp năng lượng cho đời sống. Những tác phẩm đầy trách nhiệm
với xã hội như vậy, mang ánh sáng của chữ Tâm và tài năng nghệ sĩ như vậy sẽ trở
thành ký ức, sống lâu bền trong mỗi con người, mặt khác nó tạo thành dư luận xã hội,
một thứ luật lệ không thành văn nhưng có khả năng cảnh báo, lên án, cô lập, kiểm soát
mọi hành vi vô đạo đức.
Văn học nghệ thuật không phải là một mớ thuyết giảng đạo đức mà là cả một thế giới

thấm đẫm tình người, có khả năng đánh thức, lay động nhân tính, gây nên những xúc
động thẩm mỹ, đeo bám, ám ảnh, thôi thúc con người tự hoàn thiện không ngừng. Như
vậy, đạo đức, nói rộng ra là văn hóa đã trở thành một sức mạnh mềm, thành một thứ
đức trị bổ sung cho pháp trị.
Hiện nay trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, đặc biệt là các loại hình nghệ thuật như
sân khấu, điện ảnh, âm nhạc… chức năng giải trí đang có xu hướng lấn át chức năng
giáo dục. Đây là vấn đề rất đáng báo động. Hiện có rất ít những tác phẩm có giá trị cao,
nhiều tác phẩm chỉ tập trung chạy theo thị hiếu tầm thường. Trong đời sống, văn học
nghệ thuật hiện xuất hiện một số “cây bút” thiếu trải nghiệm thực tế, sống chủ yếu ở
thành phố, quá lệ thuộc vào các phương tiện truyền thông… cho ra đời những tác phẩm
thiếu tính chân thực hoặc chạy theo những sự kiện giật gân câu khách. Ngoài ra, vấn đề
20


“loạn chuẩn đạo đức xã hội trong văn học nghệ thuật” không phải là chủ đề mới. Trong
bối cảnh xã hội đương thời, sự xuất hiện của chủ nghĩa “thực dụng kinh tế” có vẻ đã
lấn át nhu cầu về tinh thần - đạo đức của con người. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
việc môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh. Bên cạnh đó, sự du
nhập nhập của nhiều hình thức văn hóa ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục đã và
đang khiến một bộ phận giới trẻ lạc bước; sự vô cảm ngày càng xuất hiện tràn lan trên
hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội… cũng là những yếu tố làm ảnh hưởng đến
các chuẩn mực đạo đức vốn có của nền văn học nghệ thuật chân chính.
IV. GIÁ TRỊ CỦA CHỮ ĐỨC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Trong cuộc sống. Tâm và Đức làm nên vẻ đẹp của cuộc sống. Vẻ đẹp ấy tạo nên sự
khác biệt giữa con người với các loài vật khác. Nói đến chữ Đức chính là nói về đạo
đức con người, là luôn đồng nghĩa với những điều tốt đẹp.
Chữ Đức được kết hợp từ ba bộ chữ là chữ Sách, chữ Trực và chữ Tâm. Trong đó, chữ
Sách có nghĩa là bước đi, hành động; chữ Trực nghĩa là ngay thẳng, chính trực; chữ
Tâm mang ý nghĩa về sự suy tư, về ý nghĩ, tư duy. Như vậy có thể hiểu một cách khái
quát: Chữ Đức nghĩa là sống thực với chính mình, làm đúng với lương tâm mình.

Nói thì như vậy, nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Bởi không phải ai cũng chịu
hiểu chính xác chính con người mình và sống với con người thật của mình một cách
thẳng thắn, đầy đủ. Sống làm sao để có được nội tâm hài hòa, bao dung, tha thứ, quan
hệ tốt với mọi người xung quanh..., đó cũng là những biểu hiện của chữ Đức.
Người xưa có câu: “Tiên tích đức, hậu tầm long” nghĩa là trước phải có đức, phải tu
nhân tích đức, sau mới nghĩ đến chuyện tìm sự giàu sang phú quý (tầm long nghĩa là
tìm long mạch tốt để tạo sự phát đạt, giàu sang). Lại có câu: “Có đức mặc sức mà ăn”
cũng với ý nghĩa tương tự. Chữ Đức, hay nói đúng hơn, ăn ở có Đức là điều rất quan
trọng. Cho nên trong Tử vi, mặc dù đặc biệt coi trọng “số phận” con người, nhưng vẫn
có câu: “Đức năng thắng số’’, cũng là nhằm nhắc nhở người đời hãy biết lấy Đức làm
trọng, vừa giúp ích cho xã hội, vừa tạo nên “số phận” tốt hơn cho chính mình.

21


Hồ Chí Minh không để lại những trước tác đạo đức lớn nhưng những tư tưởng lớn của
Người về đạo đức lại hiển hiện rất rõ trong những bài nói, bài viết ngắn gọn, cô đọng,
hàm súc, theo phong cách lý luận phương Đông và rất quen thuộc với con người Việt
Nam. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc
Việt Nam, đồng thời kế thừa những tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa
đạo đức của nhân loại và đặc biệt quan trọng là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh có sử dụng một số khái niệm và mệnh đề
tư tưởng đạo đức của Nho giáo, nhưng trên cơ sở mới, chuyển tải những nội dung mới,
và vì vậy, về thực chất, đó là đạo đức mới – đạo đức cách mạng.
1. Gía trị chữ Đức đối với người cách mạng.
Chữ Đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng. Giống như cây phải có gốc,
sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng
thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ gian khổ khó khăn. Không phải
ngẫu nhiên mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã viết những dòng đầy xúc động trước
tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực của người thầy vĩ đại : “Không phải chỉ thiên

tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư
trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã
ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về
người, không gì ngăn cản nổi”[5; tr 295]. Còn trong “Đường kách mệnh” tác phẩm
“gối đầu giường” của những người cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giành
chương đầu tiên để bàn về tư cách người cách mệnh, sau đó mới nói về lý luận và
đường lối cách mạng. Với Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không chỉ giúp cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng không ngừng cầu tiến bộ và
hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ,
thất bại tạm thời... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng
thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “đức là gốc” cho
nên đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi
22


người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ,
nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
2. Giá trị chữ Đức trong mối quan hệ giữa chữ Đức và chữ Tài.
Đức và Tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Bởi
người nào có đức mà không có tài thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không
làm hại ai, nhưng cũng chẳng ích gì, còn nếu có tài mà không có đức thì chỉ có hại cho
dân cho nước còn sự nghiệp bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Hồ Chí Minh yêu cầu:
tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi đã có cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho
người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa
chọn tin theo. Chính vì thế, Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài

người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự
mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”[6; tr 252-253.]. “Đức là gốc” vì trong
đức đã có tài, có cái đức sẽ đi đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố
gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao. Và khi đã thấy sức không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học tập và
ủng hộ người tài đức hơn mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như vậy, đức ở đây
phải là “đức lớn” – đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy sinh vì cách mạng, vì nước vì dân,
nó không đồng nhất với những phẩm chất đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành,
ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời sống hàng ngày.
3. Chữ Đức trong xây dựng Đảng.
Chữ Đức trong xây dựng Đảng là Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
Phát triển tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin về Đảng của giai cấp công nhân, trong
bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Hồ Chí Minh đã đưa ra
một hình tượng về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản:
"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
23


Đảng ta là đạo đức, là văn minh"[7; tr.5]...
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong đó chữ đức
vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết. Bởi Đảng cộng sản muốn
đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một đảng tiêu biểu cho đạo đức cách
mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân. Có lẽ trong lịch sử phong trào
cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh tụ cách mạng nào coi trọng vấn đề đạo đức đến
tầm mức như Hồ Chí Minh, đã đặt đạo đức lên vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng
Đảng. Bởi thế, một Đảng nếu xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, nếu thoái hóa về đạo
đức thì tức là đã hỏng từ "gốc" và cuộc cách mạng nếu được tiếp tục, tất yếu sẽ bị biến
chất và không còn ý nghĩa. Tất nhiên, một Đảng tiên phong cách mạng nếu chỉ có đạo
đức cách mạng thì chưa đủ mà Đảng còn phải "là văn minh", phải tiêu biểu cho trí tuệ

của cả dân tộc. Ngoài đạo đức cách mạng là yêu cầu tiên quyết, Đảng còn phải có trí
tuệ, có năng lực nhận thức quy luật và hành động cách mạng đúng đắn, biết phân tích
chính xác tình hình, đề ra đường lối, chủ trương sát đúng, đưa cách mạng tiến lên từng
bước.
Có thể nhận thấy, quan niệm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", chữ Đức trong xây
dựng Đảng là một tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh cho rằng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo và không được nhân dân tín nhiệm nữa
nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, suy thoái về đạo đức. Người cảnh báo: "Một dân
tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"[8; tr 557-558]. Do đó, thường
xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng là một yêu cầu khách quan của chính sự nghiệp
cách mạng trong tất cả các thời kỳ. Trong di chúc của mình, phần nói về những công
việc phải làm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ
rõ: "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi
đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm
toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn
mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi"[9; tr 503]. Và, không chỉ trong Di chúc, mà
24


chính trong bài viết cuối cùng mà Hồ Chí Minh để lại cũng là bài viết về đạo đức. Phải
chăng, Người muốn dành bài viết cuối cùng cho điều mà Người tâm huyết nhất và
cũng là điều mà Người trăn trở nhất trong sự nghiệp cách mạng - Đó là vấn đề "nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", là "thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân".
KẾT LUẬN.
"Đức là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với những nội dung sâu sắc, chứa đựng chiều sâu tư tưởng lớn, quan điểm "đức là gốc"
của Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối và nâng cao quan niệm đạo đức truyền thống của

phương Đông và Việt Nam mà còn là một cống hiến quan trọng của Người đối với kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối với dân tộc ta, di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong đó có tư tưởng về đạo đức cách mạng là tài sản tinh thần vô giá, là ngọn cờ
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mà không chỉ là tư tưởng, cuộc đời cách mạng
không một gợn một chút riêng tư của chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta
những bài học lớn về đạo làm người. Xét đến cùng, triết lý lớn về con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là triết lý về đạo làm người được tóm gọn trong sáu chữ: Thành
người, làm người và ở đời. Và phải chăng, "tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ
giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng... ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc
hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật
đang phải sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó
làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền
triết đó"
Thực trạng chữ Đức trong Việt Nam hiện nay:
Xã hội ngày nay, do nhiều nguyên nhân và từ mặt trái của cơ chế thị trường tác động,
đã và đang làm xói mòn đạo đức, làm suy giảm những giá trị nhân bản truyền thống tốt
đẹp của con người. Thực tế đó đang kéo theo những hệ lụy và hậu quả khôn lường, cả
nhãn tiền và lâu dài, thật đáng lo ngại vô cùng. Trong hoàn cảnh đó, lòng tốt của con
người, đạo đức của mỗi người càng cần thiết và đáng quý biết bao ! Quan niệm của
25


×