TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
----
BÀI TIỂU LUẬN
MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở
VIỆT NAM VÀ SINGAPORE
Mục lục
Trang
1. Các lí luận chung
1.1 Khái niệm phát triển kinh tế
1.2 Thuật ngữ “môi trường”, “ô nhiễm môi trường”, “bảo vệ
môi trường”
2. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế
2.1 Mô hình kinh tế và môi trường
2.2 Tăng trưởng kinh tế và tài nguyên môi trường
2.3 Nghèo và môi trường
2.4 Dân số và môi trường
3. Thực trạng về môi trường tại Việt Nam và Singapore trước và
sau phát triển kinh tế
3.1 Thực trạng môi trường tại Việt Nam và Singapore sau khi
giành độc lập
3.1.1 Thực trạng môi trường tại Việt Nam sau khi giành độc lập
3.1.2 Thực trạng môi trường tại Singapore sau khi giành độc lập
3.2 Thực trạng môi trường ở Việt Nam và Singapore trong quá
trình phát triển kinh tế
3.2.1 Thực trạng môi trường ở Việt Nam trong quá trình phát
triển kinh tế
3.2.2 Thực trạng môi trường ở Singapore trong quá trình phát
triển kinh tế
4. Công tác bảo vệ môi trường trong thời kì phát triển kinh tế
4.1 Công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam trong thời kì phát
triển kinh tế
4.2 Công tác bảo vệ môi trường ở Singapore trong thời kì phát
triển kinh tế
5. Giải pháp, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường
1. Các lí luận chung
1.1 Khái niệm phát triển kinh tế
Theo Wikipedia: Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt
của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn
chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống.
Phát triển kinh tế, hiểu một cách đầy đủ, thường bao hàm những thay đổi
toàn diện hơn lien quan đến những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, thể chế.
Muốn phát triển kinh tế, đầu tiên phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng
một cách bền vững về sản lượng bình quân đầu người hay sản lượng trên
mỗi công nhân). Đi liền với đó là sự thay đổi về cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ
trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế…thay đổi theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương
đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp
tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã
hội sẽ trở nên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được
chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo.Trình độ tư duy, quan điểm sẽ
thay đổi. Để có thể thay đổi trình độ tư duy, quan điểm đòi hỏi phải mở cửa
nền kinh tế.
1.2 Thuật ngữ “môi trường”, “ô nhiễm môi trường”, “bảo vệ môi
trường”
Theo điều 3, chương I luật bảo vệ môi trường của Việt Nam năm 2014, “Môi
trường là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối
với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”
Cũng tại điều 3 chương I luật bảo vệ môi trường của Việt Nam năm 2014, ô
nhiễm môi trường được giải thích là “sự biến đổi của các thành phần môi
trường không phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi
trường gây ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật”
Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch
đẹp, cải thiện môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục
các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai
thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
2. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế
2.1 Mô hình kinh tế và môi trường
Môi trường thiên nhiên có 3 chức năng căn bản: cung cấp tài nguyên thiên
nhiên cho quá trình sản xuất và tiêu dùng; hấp thụ chất thải từ nền kinh tế; cung
cấp cảnh quan, dịch vụ vui chơi giải trí cho các hộ gia đình.Tài nguyên thiên
nhiên đóng vai trò vô cùng quan trọng như là đầu vào của quá trình sản xuất.
Mọi nền kinh tế đều cần năng lượng từ than đá, dầu mỏ hay thủy điện. Người
tiêu dùng trong nền kinh tế hàng ngày vẫn sử dụng thực phẩm trực tiếp từ môi
trường thiên nhiên như các loại hải sản, sản phẩm nông nghiệp.vv…Bên cạnh
đó, phúc lợi của con người được nâng cao rất nhiều thong qua việc sử dụng các
dịch vụ của môi trường thiên nhiên, chẳng hạn khí hậu mát mẻ và rừng thông
Đà Lạt là một dịch vụ điển hình mà môi trường thiên nhiên đem lại cho chúng
ta.
Vậy nền kinh tế và môi trường tương tác với nhau như thế nào? Trong bất kì
nền kinh tế nào, những hoạt động cơ bản là sản xuất, phân phối và tiêu dùng đều
diễn ra trong một thế giới tự nhiên bao quanh. Một trong những vai trò của thế
giới tự nhiên là cung cấp nguyên liệu thô và năng lượng đầu vào; mà nếu không
có nó thì sản xuất, tiêu dùng và bản thân cuộc sống cũng không thể tồn tại được.
Các hoạt động sản xuất, tiêu dùng tạo ra nhiều sản phẩm phế thải và những sản
phẩm này cuối cùng sẽ quay về với thế giới tự nhiên dưới dạng này hay dạng
khác. Các chất thải này có thể gây ô nhiễm và suy thoái môi trường thiên nhiên.
Biểu đồ: Hệ thống kinh tế - môi trường
Nền kinh tế
Hàng hóa và dịch vụ
Nhà sản
xuất
Hộ gia đình
Vốn và lao động
Tài nguyên
Chất thải
Môi trường thiên nhiên
2.2 Tăng trưởng kinh tế và tài nguyên môi trường
Đối với nhiều người, sơ đồ tóm tắt ở trên để lại một câu hỏi lớn: liệu tài nguyên
môi trường mà chúng ta đang có có đủ để tăng trưởng kinh tế hay không và
chính nó, đóng vai trò như là nơi hấp thụ chất thải của các quá trình kinh tế, có
cản trở quá trình tăng trưởng kinh tế hay không?
Từ những năm 1960, nhiều nhà kinh tế học tin rằng tốc độ tiêu thụ năng nguyên
nhiên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên tăng tương đương với tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Điều này đặt ra câu hỏi về giới hạn nguồn lực của tăng trưởng
kinh tế. Năm 1992, Ngân hàng Thế giới xuất bản một báo cáo về môi quan hệ
giữa môi trường và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, được biểu diễn bằng
đường cong Kuznet môi trường.
- Với những nền kinh tế đang bắt đầu quá trình tăng trưởng, nền kinh tế
không có khả năng bảo vệ các chức năng của môi trường vì đang cần duy
trì các nhu cầu thiết yếu khác. Do đó trong giai đoạn này, các vấn đề ô
nhiễm được xem như tác động phụ chấp nhận được của quá trình tăng
trưởng kinh tế. Mối quan hệ tăng trưởng – suy thoái môi trường là đồng
biến (giai đoạn 1 và 2), trong đó tốc độ suy thoái môi trường tăng nhanh
hơn tốc độc tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn 1 và tăng chậm hơn ở giai
đoạn 2.
- Khi nền kinh tế đạt được mức phát triển cao hơn, người dân bắt đầu quan
tâm đến môi trường và yêu cầu nhiều hơn các dịch vụ lien quan đến môi
trường. Nguồn lực sẽ được chia sẻ cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
Do vậy đây là giai đoạn mối quan hệ tăng trưởng kinh tế - suy thoái môi
trường có thể nghịch biến (giai đoạn 3). Tuy nhiên, vẫn có thể xảy ra
trường hợp mối quan hệ nghịch biến không được giữ vững và đảo ngược
thành giai đoạn 4.
Nếu chấp nhận cách giải thích bằng đường cong Kuznets môi trường, ta có thể
thấy rằng suy thoái môi trường chỉ là hiện tượng nhất thời gắn liền với một giai
đoạn tăng trưởng kinh tế nhất định. Và hơn nữa, không có sự đánh đổi giữa kinh
tế và ô nhiễm môi trường, chẳng hạn như khí thải gây hiệu ứng nhà kính, mà
tăng trưởng kinh tế lại là giải pháp cho việc xử lí ô nhiễm. Tuy nhiên các nghiên
cứu thực nghiệm vẫn chưa xác nhận lí thuyết đường cong Kuznets môi trường
như trên, vẫn có thể có nhiều trường hợp nền kinh tế có thu nhập càng cao càng
làm ô nhiễm môi trường nhiều hơn.
2.3 Nghèo và môi trường
Báo cáo của hội nghị Bruntland tuyên bố rằng nghèo là nguyên nhân chủ yếu
gây ra suy thoái môi trường và giảm nghèo là điều kiện cần cho bất cứ chương
trình cải thiện chất lượng môi trường nào.
Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy kết luận như Bruntland ở trên là
không thỏa đáng. Một số nghiên cứu cho rằng không nhất thiết là nghèo đói mà
quyền lực, sự giàu có, lòng tham cũng là nguyên nhiên gây suy thoái môi trường
(Duraiapph, 1998). Ở Việt Nam trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao này, có
thể thấy trên rất nhiều phương tiện truyền thông đại chúng hàng ngày những
thông tin kiểu như “làng ung thư bên cạnh nhà máy sản xuất phân bón”, “nước
thải từ các nhà máy gây ô nhiễm sông, làm chết cá bè, giảm sản lượng hoa màu
của người dân”.vv…Nguồn ô nhiễm môi trường trong các trường hợp như thế
này là từ bộ phận có quyền lực về kinh tế, không phải từ người nghèo. Hơn nữa,
suy thoái môi trường lại làm hại người nghèo, thường là những người phụ thuộc
rất nhiều vào tài nguyên môi trường lại nghèo thêm.
Do đó, từ quan điểm kinh tế, kết luận rằng nghèo là nguyên nhân gây suy thoái
môi trường là không đủ.
2.4 Dân số và môi trường
Dân số thế giới tăng thêm 2200 người cứ mỗi 15 phút. Dân số tăng nhanh sẽ
dẫn đến thiếu hụt đất canh tác, nước, chất đốt ở khu vực nông thôn, ô nhiễm
nước, tình rạng tắc nghẽn ở khu vực đô thị. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng
tình trạng suy thoái môi trường như vậy là do chúng ta tiêu dung quá mức và
tiêu dung theo cách không bền vững. Dân số tăng nhanh cũng có thể là động lực
để cải tiến công nghệ, tăng năng suất nông nghiệp.
Quan sát ở các nước đang phát triển cho thấy dân số tăng nhanh dẫn tới giảm
sản lượng nông nghiệp, ảnh hưởng đến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục
và dinh dưỡng cho người dân (Desta,1999). Cho nên giải quyết vấn đề dân số môi trường ở các quốc gia đang phát triển không những cần tập trung kiểm soát
tốc độ gia tăng dân số nhanh mà còn hướng tới việc kiểm soát tốc độ sử dụng tài
nguyên môi trường hiệu quả hơn.
3. Thực trạng về môi trường tại Việt Nam và Singapore trước và sau phát
triển
kinh
tế
3.1 Thực trạng môi trường tại Việt Nam và Singapore sau khi giành độc lập
3.1.1 Thực trạng môi trường tại Việt Nam sau khi giành độc lập
Mùa Xuân năm 1975, “cuộc chiến tranh dài ngày nhất trong lịch sử nước Mỹ”
kết thúc nhưng hậu quả chiến tranh vẫn còn hiển hiện rất rõ. Sự phá hủy cảnh
quan tự nhiên trong chiến tranh là điều không mới mẻ, nhưng phạm vi của sự
phá hủy tự nhiên trong chiến tranh Việt Nam là điều chưa từng xảy ra trong lịch
sử nhân loại. Hậu quả của chiến tranh cũng đã làm ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn này. Ở miền Bắc, hai cuộc chiến tranh phá
hoại của Mỹ đã tàn phá nặng nề, nền kinh tế bấy giờ sản xuất nhỏ còn phổ biến
và nền kinh tế còn lạc hậu. Hậu quả của 30 năm chiến tranh (1945-1975) để lại
cho miền Nam cũng hết sức nặng nề, nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá, bỏ
hoang , chất độc hóa học và bom mìn còn bị vùi lấp nhiều nơi, số người thất
nghiệp lên tới hàng triệu người, về cơ bản nền kinh tế vẫn mang tính chất của
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển mất cân
đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
Từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ tiến hành ở Việt Nam một cuộc chiến
tranh hoá học với quy mô lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Khoảng 80
triệu lít chất diệt cỏ và phát quang được rải xuống 24,67% tổng diện tích lãnh
thổ miền Nam Việt Nam, trong đó phần lớn là chất độc màu da cam. Số lượng
rất lớn chất độc hoá học với nồng độ cao, được rải đi rải lại nhiều lần, không
những đã làm chết các loài động, thực vật, mà còn gây ô nhiễm môi trường
trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam.
Mỹ sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam. -Ảnh: BBC
Môi trường ô nhiễm điôxin ở Việt Nam rất rộng, ước tính có khoảng 366 kg
điôxin được phun rải xuống miền Nam Việt Nam, chủ yếu là vùng nông thôn.
Dấu vết của điôxin vẫn được tìm thấy trong đất ở hầu hết các vùng bị nhiễm
nặng - khoảng 25 “điểm nóng”. Chất điôxin đã gây tác động nặng nề tới môi
trường và dân cư địa phương cho đến bây giờ và đến tận tương lai sau này đặc
biệt là đất canh tác bị ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc sản xuất, trồng trọt.
Chất diệt cỏ rải với nồng độ cao không chỉ phá hủy thành phần dinh dưỡng
trong đất, làm cho đất bị cằn cỗi, mà với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa,
các khu rừng rất khó có thể tự phục hồi.
Vùng đất A Lưới bị hủy diệt bởi chất độc điôxin, sau 15 năm, 30 năm vẫn chỉ là
vùng cây cỏ dại (Ảnh: Gs. Võ Quý)
Khoảng 10 đến 15 triệu hố bom, chiếm 1% diện tích rừng Nam Việt Nam, gây
nên sự bất ổn mặt đất, làm cho đất dễ bị xói mòn do mưa. Hậu quả này còn tác
động xấu tới 28 lưu vực sông ở miền Trung Việt Nam: Có 16 lưu vực, trong đó
rừng bị phá hủy chiếm tới 30% tổng diện tích tự nhiên; 10 lưu vực mất 30 –
50% diện tích rừng, và 2 lưu vực mất hơn 50%. Hầu hết các con sông này đều
ngắn và chảy theo địa hình phức tạp và có ảnh hưởng trực tiếp tới các khu vực
hạ lưu. Hàng mấy chục năm sau khi chiến tranh kết thúc, lũ lụt vẫn thường
xuyên tàn phá lưu vực các sông Hương, Thạch Hãn, Hàn, Thu Bồn, Trà Khúc,
Côn, Vệ, Cầu và Ba, dẫn tới thiệt hại lớn về người và của.
Những cách tay đói lả nhận thức ăn tại Ngã ba Tuần - Thừa Thiên Huế trong
ngày thứ 5 của trận lụt năm 1999. Ảnh: Tuổi Trẻ.
3.1.2 Thực trạng môi trường tại Singapore sau khi độc lập
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm và chiếm
đóng Singapore từ năm 1942 đến năm 1945. Khi chiến tranh kết thúc, Singapore
trở lại dưới quyền cai trị của Anh Quốc, ngày càng được cấp quyền tự trị lớn
hơn, đỉnh cao là việc Singapore hợp nhất với Liên hiệp bang Malaya để hình
thành Malaysia vào năm 1963. Tuy nhiên, bất ổn xã hội và tranh chấp
giữa Đảng Hành động Nhân dân cầm quyền tại Singapore và Đảng Liên
minh cầm quyền tại liên bang khiến Singapore tách khỏi Malaysia. Singapore
trở thành một nước cộng hòa độc lập vào ngày 9 tháng 8 năm 1965.
Sau khi độc lập, với rất ít tài nguyên thiên nhiên, Singapore là một nước không
ổn định về kinh tế và chính trị xã hội. Singapore lâm vào khủng hoảng, tình
trạng thất nghiệp tăng cao, người dân thiếu nhà ở, đất đai, giáo dục và y tế cũng
còn nhiều bất cập. Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội
Singapore còn phải đối mặt với tình trạng môi trường bị ô nhiễm nặng nề và
thiếu nguồn nước ngọt trầm trọng.
Theo Eco Business, trong những năm đầu của đất nước, do tình trạng thiếu đất
đai, nhà ở mà hai phần ba dân số của đất nước này phải sống trong các khu phố
ổ chuột bẩn thỉu, thiếu điều kiện y tế, giáo dục, việc làm. Đường phố thì ngổn
ngang rác, bụi bẩn và mùi hôi thối đã làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe người
dân nơi đây.
Không chỉ thiếu nhà ở, đất đai mà Singapore còn là nơi thiếu nước ngọt trầm
trọng. Toàn bộ người dân trên đảo sống trong cảnh thiếu nước ngọt triền miên.
Nguồn nước từ các con sông thì ô nhiễm nặng nề. Hơn 30 về trước, con kênh
Rochor – con kênh chảy qua nhiều khu vực trung tâm của Singapore ngày nay
như trung tâm thương mại Sim Lim, đường Sungei, Little India chỉ là một con
kênh bị ô nhiễm nghiêm trọng khi nước sông bốc mùi hôi thối và đầy rác rưởi
dưới lòng sông.
Hay như cảng Clarke là một trong những bến cảng có lịch sử lâu đời. Cảng
Clarke là bến đỗ bốc dỡ hàng hóa dọc sông Singapore từ những năm 1800. Bến
cảng được đặt theo tên Sir Andrew Clarke, thống đốc Straits Settlements, vùng
thuộc địa của Anh bao gồm Singapore, Penang và Malacca (Malaysia). Dọc bến
cảng là những cửa hiệu xây dựng theo kiểu Triều Châu. Ngày nay Clarke Quay
là khu vui chơi giải trí dành cho du khách trong và ngoài nước tham quan viếng
thắm thành phố Singapore. Tuy nhiên, trước năm 1977, con sông Singapore
(Bến cảng Clarke nằm trên bờ sông Singapore) bị ô nhiễm nặng nề.
Sông Singapore trước đây là nơi đổ rác của người bán hàng rong trên đường
3.2 Thực trạng môi trường ở Việt Nam và Singapore trong quá trình phát
triển kinh tế
3.2.1 Thực trạng môi trường ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế
Bên cạnh sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong thời gian qua, phát triển kinh
tế cũng đã đặt ra những thách thức trong việc bảo vệ môi trường.Một vấn đề
đang rất được quan tâm hiện nay, vì môi trường chính là yếu tố quan trọng thể
hiện trình độ phát triển của nền kinh tế.
Việt Nam là một trong những quốc gia trong tình trạng đáng báo động.
Rừng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống con người và là lá phổi
xanh của đất nước.Thế nhưng, lá phổi xanh ấy ngày càng bị suy giảm,được thể
hiện rõ nét thông qua sự giảm dần về diện tích, độ che phủ và chất lượng rừng.
Bảng 1: Sự biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943-2009 (triệu
ha)
Năm
1945 1976 1985 1995 2005 2009
Loại rừng
Tổng diện tích 14.3 11.2 9.9
9.3
12.7 13.2
Rừng tự nhiên 14.3
11.1
9.3
8.3
10.2
10.3
Rừng trồng
0
0.1
0.6
1.0
2.5
2.9
Độ che phủ
43
33.8
30.0
28.2
38
39.1
(Nguồn gso.gov)
Mặc dù tổng diện tích rừng có xu hướng tăng trong những năm gần đây, nhưng
chất lương rừng lại ngày càng suy giảm. “Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết
diện tích rừng nguyên sinh giảm trầm trọng, hiện chỉ còn rất ít, chủ yếu còn ở
những khu rừng phòng hộ, khu bảo tồn, phần lớn rừng tự nhiên hiện nay chỉ còn
lại là rừng nghèo. Diện tích rừng ngập mặn cũng đã giảm hơn một nửa trong các
thập kỷ trước và vẫn tiếp tục suy giảm trong những năm gần đây. Đây là một
thực trạng đáng báo động trong bối cảnh biến đổi khí hậu với những tác động
gia tăng và khó lường.” Chính điều này đã gây ra nhiều thiệt hại cho con người
cả về vật chất lẫn tinh thần trong thời gian qua.Bởi không còn rừng có đủ khả
năng để ngăn lũ lụt thiên tai,… “Chỉ tính trong 15 năm trở lại đây, các loại thiên
tai như bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, ngập úng, hạn hán, xâm nhập mặn ... tại Việt
Nam đã làm chết và mất tích hơn 10.700 người, thiệt hại về tài sản ước tính
chiếm khoảng 1,5% GDP mỗi năm.”
Ngoài sự biến động của rừng thì ô nhiễm nguồn nước cũng không kém phần
được quan tâm và đang là vấn đề cần được khắc phục, giải quyết cấp bách hiện
nay. Nguồn nước ngày càng một ô nhiễm hơn. Theo tin tức cho biết, “hầu hết
sông hồ ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP HCM, nơi có dân cư đông đúc
và nhiều khu công nghiệp lớn đều bị ô nhiễm. Phần lớn lượng nước thải công
nghiệp (khoảng 260.000 m3 nhưng chỉ có 10% được xử lý) không được xử lý,
mà đổ thẳng vào các ao hồ, sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng Châu Thổ
sông Hồng và sông Mê Kông. Ngoài ra, nhiều nhà máy và cơ sở sản xuất như
các lò mổ và ngay bệnh viện (khoảng 7.000 m 3 mỗi ngày, chỉ 30% là được xử
lý) cũng không được trang bị hệ thống xử lý nước thải.”
Vụ việc công ty Vedan xả trực tiếp nước thải chưa qua xử lí ra sông Thị Vải,
biến nó trở thành con sông chết vào năm 2008 là một điển hình. Theo ước tính,
Vedan có thể xả nước thải tới 5.000 m3/ngày ra sông, sau khi kiểm tra đoàn
kiểm tra kết luận: “Vedan thiết kế và lắp đặt hệ thống bơm, đường ống kỹ thuật
để bơm dịch thải lỏng của nhà máy sản xuất lysin, nhà máy bột ngọt, nhà máy
sản xuất PGA từ bể bán âm dung tích 6.000-7.000m 3 và bồn chứa 15.000m3 để
bơm và xả trực tiếp vào sông Thị Vải. Việc lắp đặt hệ thống xả dịch thải của
Vedan trái với quy trình kỹ thuật xử lý chất thải (nước thải, dịch thải lỏng),
không đúng với nội dung báo cáo môi trường đã được phê duyệt và vi phạm các
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.” Gây thiệt hại rất lớn đối với môi
trường. Đây là một công ty đầu tiên bị phạt với số tiền rất lớn từ trước tới
giờ.Tuy vây, có lẽ nó vẫn chưa đủ tính răn đe.Bởi vì cho đến nay, sông ngòi vẫn
bik ô nhiễm do nước thải từ các nhà máy.
3.2.2 Thực trạng môi trường ở Singapore trong quá trình phát triển kinh tế
Singapore là nước có trình độ phát triển nhất trong khu vực Đông Nam Á.
“Điều đáng ngạc nhiên là những vùng đất xanh tươi này vẫn còn rất nguyên sơ
bất chấp tốc độ chuyển mình nhanh chóng nhằm trở thành một thành phố tầm cỡ
thế giới của Singapore. Khi tản bộ trong khu rừng nhiệt đới, bạn sẽ bắt gặp hệ
sinh thái độc đáo, là nơi trú ngụ của hàng ngàn loài động thực vật và côn trùng
mà một số loài thậm chí bạn chưa từng nghe hoặc nhìn thấy”. “Theo Ủy ban
Công viên Quốc gia Singapore (NPB), hiện trên đảo quốc này có tới 2.000 loài
cây xanh khác nhau, với tổng cộng khoảng 2 triệu cây được trồng dọc các tuyến
phố, trong công viên, vườn nhà và các khu bảo tồn”. Do đó, đây là nơi đã được
mệnh danh là “đảo quốc rừng xanh” Đối với Singapore cây xanh đóng một vai
trò rất quan trọng.Nếu không có nó,thành phố sẽ trở nên ngột ngạt ,nóng bức
khó chịu và nó còn chống chọi giông bão.Chính điều đó làm cho Singapore có
những quy định chặt chẽ về loại cây trồng theo từng khu vực như: trên đường
phố,vườn nhà,…..Có 5 cây trồng điển hình tạo nên thành phố xanh này: cây
muồng tím, cây angsana, cây lim sét, xà cừ, cây lọng ô.Singapore hướng tới là
một nước đi đâu cũng là màu xanh thiên nhiên.”Với 300 công viên và 9.000 ha
cây xanh, diện tích cây xanh ở Singapore chiếm xấp xỉ 50% diện tích lãnh thổ,
là tỉ lệ đáng mơ ước của nhiều thành phố trên thế giới.”
Gần đây,không khí trong lành ở singapore đang bị ô nhiễm không phải nguyên
nhân trong nước mà do vụ cháy rừng ở Indonesia đã gây ảnh hưởng rất lớn. “Cơ
quan môi trường quốc gia Singapore (NEA) mới đây đưa ra cảnh báo rằng tình
trạng ô nhiễm không khí tại quốc đảo này đang có diễn biến xấu đi khi khói bụi
cháy rừng từ Indonesia vẫn tiếp tục lan sang nước này.”
Tại thời điểm thành lập của Singapore hiện đại vào năm 1819, rừng bao phủ
thực tế toàn bộ các hòn đảo chính. Diện tích rừng nguyên sinh, rừng mưa
thường xanh chiếm 82%, rừng ngập mặn 13% và rừng đầm lầy nước ngọt,
5%. Hôm nay, chỉ có khoảng 28,6 sq km vùng đất vẫn được bao phủ bởi rừng
nguyên sinh và thứ cấp (bản đồ so sánh thảm thực vật của Singapore vào
khoảng năm 1819 và năm 1990.
4. Công tác bảo vệ môi trường trong thời kì phát triển kinh tế
4.1 Công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam trong thời kì phát triển kinh
tế
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ X của Đảng, chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
- Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn
thiện một bước.
- Tổng cục Môi trường được thành lập; lực lượng cảnh sát môi trường được
hình thành; Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực các sông lớn, tổ chức quản lý
môi trường ở các Bộ, ngành và địa phương, nhất là Chi cục Bảo vệ môi trường
được thiết lập, bước đầu hoạt động có hiệu quả. Nhìn chung, các điều kiện cơ
bản, thiết yếu làm tiền đề, tạo thế và lực cho công tác bảo vệ môi trường đã
được đáp ứng.
- Ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong xã hội được nâng cao. Nhiều vụ
việc lớn, nhiều vấn đề môi trường bức xúc, kéo dài được giải quyết dứt điểm,
trường hợp VEDAN là một ví dụ. Với các hành vi gây ô nhiễm của mình, Công
ty Vedan đã bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 267.500.000 đồng, đồng
thời truy thu khoản phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trốn
nộp là: 127.268.067.520 đồng. Công ty Vedan đã nộp đủ khoản truy thu này
- Các giải pháp bảo vệ môi trường trong các dự án phát triển kinh tế - xã hội đã
được quan tâm đầu tư thực hiện
- Đã xuất hiện một số mô hình đô thị xanh, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất
xanh, mô hình kinh tế sinh thái
- Các ngành, lĩnh vực đã huy động được nhiều nguồn lực, sự hỗ trợ của quốc tế
và từng bước chủ động bảo vệ, cải thiện môi trường và ứng phó với biến đối khí
hậu.
Tóm lại, nhìn chung thì những chính sách, biện pháp, đạo luật về bảo vệ môi
trường đã từng bước được hoàn thiện nhưng còn nhiều mức hình phạt còn thấp,
đôi khi còn chậm trễ do đó chưa thể răn dạy, giáo dục được mọi người được.
Những ví dụ cho thấy vấn đề môi trường của Việt Nam đươc quan tâm, bảo
vệ, cải thiện:
- Hơn 43.000 hộ nông dân ở Việt Nam tham gia dự án Phát triển ngành Lâm
nghiệp được hỗ trợ bởi Ngân hàng Thế giới đã được nhận tín dụng lãi suất thấp
và hỗ trợ kỹ thuật để trồng 76.500 héc ta rừng.
- Dự án do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ đã mang lại hiệu quả mạnh mẽ về kinh tế,
tác động tích cực về xã hội và môi trường cho các cộng đồng địa phươngTriển
khai từ năm 2005 đến năm 2015 tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng
Nam, Thừa Thiên Huế, Nghệ An và Thanh Hóa
“Thông qua hỗ trợ trồng rừng, dự án đã giúp nhiều gia đình thoát nghèo,” ông
Phạm Quốc Chiến, Giám đốc Ban Điều phối dự án Trung ương chia sẻ. “Đến
nay, đây là dự án đầu tiên, và cũng là dự án duy nhất ở Việt Nam sử dụng
phương pháp cho vay lại trong hoạt động trồng rừng tiểu điền, là hình thức được
chứng minh bền vững hơn so với phương pháp truyền thống trợ cấp hoạt động
trồng rừng,” bà Nguyễn Thị Thu Lan, Chuyên gia Cao cấp về Môi trường của
Ngân hàng Thế giới, Chủ nhiệm dự án, cho biết.
- Khoảng 850 héc ta rừng đáp ứng những tiêu chuẩn kỹ thuật, xã hội và môi
trường quốc tế nghiêm ngặt đã được cấp Chứng nhận quản lý rừng quốc tế trong
một chương trình cấp chứng chỉ thí điểm. Giá của rừng trồng có chứng chỉ cao
hơn khoảng 30% so với rừng thường cùng loại. Hơn 400 km đường lâm sinh đã
được xây dựng và cải tạo giúp giảm thiểu chi phí vận chuyển, tăng năng suất lạo
động, góp phần nâng cao thu nhập và tạo thêm việc làm cho người dân địa
phương. Dự án cũng hỗ trợ xây dựng 86 chòi canh lửa và 102 bảng thông tin
trên khắp vùng dự án để nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ rừng,
giảm thiểu nguy cơ cháy rừng.
Sở KH&CN trình diễn mô hình sử dụng chế phẩm sinh học trong xử lý
rơm rạ thành phân hữu cơ góp phần bảo vệ môi trường.
Ngày 18/8/2013 công ty TNHH Phát triển Phú Mỹ Hưng phối hợp cùng
ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và các đơn vị
đoàn thể tổ chức chương trình “Ngày Chủ nhật xanh”.
Tuyên truyền, vận động ý thức bảo vệ môi trường, bỏ rác đúng nơi quy
định là hoạt động quan trọng của Ngày Chủ nhật xanh Phú Mỹ Hưng
4.2 Công tác bảo vệ môi trường của Singapore trong thời kì phát triển kinh
tế
Singapore một quốcđảo tại Đông Nam Á. Vốn nghèo nàn về tài nguyên (chỉ còn
lại rất ít thảm thực vật nguyên sinh, những khoáng sản khác còn rất ít thậm chí
không có), từng là một bộ phận thuộc Malaysia nhưng bị trục xuất ra khỏi
Malaysia, nhưng sau đó nhờ chính sách đổi mới mà giờ đây nền kinh tế của
Singapore đã trở thành một trong những nền kinh tế phát triển trên thế giới và
được mệnh danh là một trong 4 con rồng Châu Á. Bên cạnh những chính sách
phát triển kinh tế đó là những chính sánh bảo vệ môi trường vô cùng hiệu quả.
Vậy đó là những chính sách, biện pháp như thế nào?
Đó là do Singapore đã xây dựng một hệ pháp luật khá nghiêm khắc:
- Hệ thống thuế giờ cao điểm ERP (Electronics Road Pricing) được đưa vào
hoạt động trong khu vực trung tâm thành phố để giảm lưu lượng xe lưu thông
qua các khu vực này vào giờ cao điểm.
- Số lượng ô tô cá nhân trên đường bị hạn chế nhằm giảm ô nhiễm và tắc nghẽn.
Những người mua ô tô phải trả thuế cao gấp 1,5 lần giá thị trường của phương
tiện, và phải đấu giá cho một giấy chứng nhận quyền lợi (COE) để ô tô của họ
được phép chạy trên đường trong một thập niên.
- Luật pháp và các quy định của Singapore quy định 26 loại chất thải công
nghiệp nguy hại. Doanh nghiệp tư nhân được cấp phép bởi chính phủ Singapore
có trách nhiệm thu thập, vận chuyển, xử lý, và bỏ những chất thải công nghiệp
nguy hại. Khoảng 120 doanh nghiệp đã mua lại một số hình thức kinh doanh đối
với xử lý chất thải công nghiệp nguy hại.
Song song với việc thi hành luật pháp Singapore đã đạt được nhiều thành tựu
trong nhiều năm qua như sau:
- Bộ Môi trường thiết lập vào năm 1972, nó đã được phát triển và thực hiện các
chương trình bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng toàn diện.
- Cơ quan Môi trường Quốc gia. Ngày 1 tháng Bảy năm 2002, Cơ quan Môi
trường Quốc gia (NEA) đã được thành lập trực thuộc Bộ Môi trường (ENV) tập
trung vào việc thực hiện các chính sách môi trường.
- Việc đánh giá năm 2001 của chất lượng nước so với tiêu kiểm soát chất lượng
nước tại Singapore (ví dụ, 10 mg / lít hoặc ít hơn cho BOD) cho kết quả rất
tốt.92% số mẫu nước lấy từ các lưu vực nước và 94% những người từ các khu
vực lưu vực phi nước đáp ứng được mục tiêu BOD.
- Năm 2001 kết quả của các phép đo của các trạm này chỉ ra rằng nồng độ các
chất ô nhiễm không khí lớn như sulfur dioxide (SO2), nitrogen dioxide (NO2),
và các hạt vật chất (PM10) trong môi trường sống nói chung đều nằm dưới mức
tiêu
- Tổng khối lượng chất thải rắn phát sinh trong năm 2001 là 5.000.000 tấn,
trong đó 44,4% hay 2,2 triệu tấn được tái chế trong một số cách. Còn lại 2,8
triệu tấn được xử lý chủ yếu bằng cách đốt. 42% trong số 2,8 triệu tấn là chất
thải công nghiệp, và còn lại 58% là chất thải sinh hoạt bao gồm cả những người
từ các cơ sở thương mại. Các cơ sở xử lý chất thải và xử lý có công suất xử lý
vượt quá hàng năm 2,80 triệu tấn chất thải phát sinh.
- Trong năm 2002, 2,2 triệu tấn của 5 triệu tấn chất thải phát sinh, đã được tái
chế, (tỷ lệ tái chế tổng thể 45%). Singapore tạo ra một số 7.200 tấn chất thải rắn
một ngày.
- Các ngành công nghiệp dịch vụ môi trường, xác định là một cụm tăng trưởng,
tập trung vào các dịch vụ liên kết làm sạch (cả thương mại trong và ngoài
nước), kiểm soát dịch hại và quản lý chất thải; chiếm doanh thu hàng năm ước
tính 1,65 tỷ S $ mỗi năm.
- Một nguồn gây ô nhiễm không khí, khí thải từ xe hơi, được xử lý bằng cách
thực hiện nghiêm ngặt kiểm soát khí thải đối với xe cá nhân.
Ngoài ra Singapore đã thực hiện kế hạch xanh vì môi trường
Kế hoạch xanh nhằm bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên bằng các biện
pháp như:
- Thế hệ nước ngọt bằng cách khử muối trong nước biển và nguồn nước biển từ
nước thải với công nghệ mới nhất
- Khuyến khích giảm và tái chế chất thải
- Việc nâng cao hiệu quả năng lượng.
Chỉ tiêu kế hoạch xanh của Singapore đạt được vào năm 2012 bao gồm:
- Để nâng cao tỷ lệ tái chế từ hiện tại 44% đến 60%
- Để kéo dài năm sử dụng của các bãi chôn lấp cuối cùng tại Semakau, bây giờ
dự kiến sẽ có khoảng 30 năm, 50 năm
- Để trì hoãn việc thực hiện kế hoạch xây dựng nhà máy đốt.
Không những vậy Singapore còn có nhiều mô hình xây dựng kết hợp với việc
bảo vệ môi trường, hòa hợp với thiên nhiên.
5. Giải pháp, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường
1. Bảo tồn đa dạng sinh học; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên; phát triển năng lượng sạch và năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế,
tái sử dụng và giảm thiểu chất thải.
2. Ưu tiên xử lý vấn đề môi trường bức xúc, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
ô nhiễm môi trường nguồn nước; chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư; phát
triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường.
3. Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản chi
riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách với tỷ lệ tăng dần theo tăng trưởng
chung; các nguồn kinh phí bảo vệ môi trường được quản lý thống nhất và ưu
tiên sử dụng cho các lĩnh vực trọng điểm trong bảo vệ môi trường.
4. Ưu đãi, hỗ trợ về tài chính, đất đai cho hoạt động bảo vệ môi trường, cơ sở
sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường. Tăng cường đào tạo nguồn nhân
lực về bảo vệ môi trường.
5. Phát triển khoa học, công nghệ môi trường; ưu tiên nghiên cứu, chuyển giao
và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi
trường; áp dụng tiêu chuẩn môi trường đáp ứng yêu cầu tốt hơn về bảo vệ môi
trường.
6. Gắn kết các hoạt động bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên với ứng phó với
biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Giáo trình Kinh tế phát triển - Nguyễn Trọng Hoài, Nhà xuất bản Lao Động,
2007
- Một số trang web: worldbank.org, 24h.com.vn, vnexpress.net,
maxreading.com, khoahoc.tv, thesaigontimes.vn…
- Tin nhanh Việt Nam (VNExpress), ngày 25-8-2012.
- , Cống thông tin POPs Việt Nam (Bộ tài nguyên và Môi
trường)