Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Trình bày định hướng, các mục tiêu, nội dung, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền nông nghiệp việt nam hãy cho biết thực trạng ngành sản xuất lúa gạo nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.6 KB, 33 trang )

Trình bày định hướng, các mục tiêu, nội dung, giải
pháp cơ bản nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền nông
nghiệp Việt Nam. Hãy cho biết thực trạng ngành
sản xuất lúa gạo nước ta hiện nay; những thành
tựu, hạn chế và định hướng, giải pháp chủ yếu
nhằm thúc đẩy tái cơ cấu ngành sản xuất lúa gạo
theo hướng nâng cao hiệu quả và bền vững ở nước
ta trong thời gian tới?


Mục lục
I. Đặt vấn đề
1. Sự cần thiết
2. Mục tiêu tìm hiểu nghiên cứu
3. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung
A.Khái quát đặc điểm địa bàn, bối cảnh lịch sử,
cơ sở lý luận thực tiễn
B.Nội dung nghiên cứu
1. Tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam
1.1 Mục tiêu
1.2 Nội dung
1.3 Giải pháp
2. Tình hình sản suất lúa gạo trong nước
2.1 Thực trạng
2.2 Thành tựu
2.3 Hạn chế
2.4 Giải pháp tái cơ cấu
III. Kết luận



I.

Đặt vấn đề

1 Sự cần thiết
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn về phát triển kinh tế xã hội. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân hơn 7%, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, vươn lên
trở thành nước có thu nhập trung bình. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch phù
hợp với mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa, các ngành công nghiệp và
dịch vụ đã chiếm gần 80% tỷ trọng GDP vào năm 2010. Các lĩnh vực kinh tế
đối ngoại như xuất khẩu, thu hút FDI, xuất khẩu lao động, du lịch… được chú
trọng phát triển và có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP.
Trong lĩnh vực xã hội, Việt Nam là một trong những quốc gia triển khai hiệu
quả các chương trình phát triển kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ đói
nghèo của Việt Nam đã giảm từ mức hơn 50% vào đầu thập niên 90 xuống
còn gần 12% năm 2011. Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục
tiêu Phát triển Thiên Niên kỷ (MDGs) và được cộng đồng quốc tế đánh giá là
một trong những điển hình sử dụng thành công các nguồn hỗ trợ phát triển
chính thức cho các mục tiêu phát triển xã hội.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng đứng trước nhiều
thách thức to lớn trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa
2011-2020. Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn những
hạn chế nhất định, hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng từ 6,6 giai đoạn 20012005 lên 8 trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, Việt Nam phải đối phó với một
số vấn đề về ổn định kinh tế vĩ mô, đáng chú ý là lạm phát có xu hướng tăng
cao trong một số thời điểm nhất định như các năm 2008 và 2011. Thứ ba, tỷ lệ
đói nghèo tại một số vùng, miền còn cao và chênh lệch khoảng cách phát triển
giữa đô thị và nông thôn còn lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng gặp phải
những thách thức từ những biến động phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới

từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.
Trên thế giới, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đã góp phần đẩy
nhanh quá trình tái cấu trúc kinh tế thế giới với những đặc trưng chủ yếu, đó
là: (1)Chuyển đổi tư duy phát triển từ chú trọng tốc độ tăng trưởng kinh tế
sang tăng trưởng kinh tế bền vững và toàn diện; (2) Chuyển đổi mô hình kinh
tế ở cấp độ quốc gia, trong đó ưu tiên các mô hình kinh tế mang tính bền vững
và thân thiện với môi trường, ví dụ như kinh tế xanh, các chính sách kinh tế
gắn với an sinh xã hội và tạo việc làm; (3) Chuyển dịch các mạng lưới sản
xuất và chuỗi giá trị với sự nổi lên của khu vực Châu Á-Thái Bình Dường; (4)
Tăng cường các hình thức liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, chú trọng yếu
tố kết nối giữa các nền kinh tế. Xu hướng tái cấu trúc kinh tế thế giới một mặt
tạo ra cơ hội to lớn để các nền kinh tế điều chỉnh các chính sách phát triển


theo hướng bền vững và tham gia sâu, hiệu quả hơn vào phân công lao động
quốc tế. Mặt khác, các nền kinh tế không có khả năng thích nghi với những
điều chỉnh sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậu.
Từ những đòi hỏi cấp thiết của nền kinh tế và phù hợp với xu hướng tái cấu
trúc kinh tế thế giới, Việt Nam đã xác định tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển
đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững là một trong những trọng tâm
phát triển kinh tế-xã hội.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tái cơ cấu nông nghiệp , phân tích thực
trạng ngành sản xuất lúa gạo nước ta hiện nay; những thành tựu, hạn chế và
định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tái cơ cấu ngành sản xuất lúa
gạo theo hướng nâng cao hiệu quả và bền vững ở nước ta
3 Phạm vi đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : những vấn đề lý luận liên quan đến tái cơ cấu nông
nghiệp
- Phạm vi nghiên cứu :

• Về nội dung :đề tài tập trung vào nghiên cứu một số nội dung cơ bản
tái cơ cấu nông nghiệp
• Về không gian : tái cơ cấu của nền nông nghiệp Việt Nam
• Về thời gian : 2000-2020
4 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin :thu thập thông tin thứ cấp qua các phương
tiện thông tin internet ,sách, báo,tivi ...
- Phương pháp sử lý thông tin :sử dụng các phương pháp thu thập số liệu,
tổng hợp, thống kê mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá .
II. Nội dung
A. Khái quát đặc điểm địa bàn, bối cảnh lịch sử
A. Khái quát đặc điểm địa bàn
Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp nhiệt đới với khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa phân hóa theo chiều vĩ tuyến và theo chiều cao của địa hình rất rõ
rệt , điều này ảnh hưởng đến cơ cấu mùa vụ ,ảnh hưởng cơ cấu sản phẩm, nó
cho phép nước ta có điều kiện để sản xuất nông nghiệp với nhiều mùa vụ và
đa dạng về sản phẩm.
Đất nước được chia thành nhiều địa hình khác nhau với những vùng đất thấp,
đồi núi, nhiều cao nguyên với những cánh rừng rậm và các vùng đồng bằng .
Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp chiếm chưa tới 20%.Có nhiều loại đất


khác nhau , đất feralit, đất phù sa , đất đỏ bazan.. điều đó nó cho phép nước
ta có điều kiện để phát triển các loại cây trồng khác nhau và đòi hỏi sự canh
tác giữa các vùng có sự khác nhau tạo nên sự đa dạng trong nền nông nghiệp
nước ta. Việt Nam có địa hình rất đa dạng: Đồi núi, đồng bằng, bớ biên và
thềm lục địa. Đồi núi chiếm % diện tích lãnh thô chủ yếu là đồi núi thấp. Tuy
nhiên ở hai đầu đất nước có hai đồng bàng tương đối rộng lớn, phì nhiêu là
đồng bàng Bắc Bộ ( lưu vực sông Hồng, rộng 16.700 km2 ) và đồng bàng
Nam bộ ( lưu vực sông Mêkông, rộng 40.000 km2). Nằm giữa hai châu thổ

lớn đố là một chuỗi đồng bàng nhỏ hẹp, phân bố dọc theo duyên hải Miền
Trung, từ động bằng thuộc lưu vực sông Mã ( Thanh Hóa) đến Phan Thiết với
tổng diện tích 15.0 km2.
Việt Nam có bờ biền dài 3.260 km, từ Móng Cái ở phía Bắc tới Hà Tiên ở
phía Tây Nam. Biển Đông ảnh hưởng sâu sắc đến tính chất nhiệt đới gió mùa
ẩm của đất liền. Việt Nam nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có
nhiệt độ cao và độ âm lớn, phía Bắc chịu ảnh hưởng của lục địa Trung Hoa
nên ít nhiều mang tính chât khí hậu lục địa. Do ảnh hưởng của biên Đông nên
khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm không thuần nhất trên toàn lãnh thô Việt Nam,
hình thành nên các miền và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt. Khí hậu Việt Nam
thay đổi theo mùa theo vùng từ thấp lên cao, từ Bắc vào Nam và từ Đông
sang Tây. Do chịu tác động mạnh của gió mùa đông bắc nên nhiệt độ trung
bình ở Việt Nam thấp hơn nhiệt độ trung bình nhiều nước khác cùng vĩ độ ở
Châu Á.
Việt Nam có thể được chia ra làm hai đới khí hậu lớn: (1) Miền Bắc (từ đèo
Hải Vân trở ra) là khí hậu nhiệt đới gió mùa, với 4 mùa rõ rệt ( xuân-hạ-thuđông ), chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc ( từ lục địa châu Á tới) và gió
mùa Đông Nam ( thối qua Thái Lan- Lào và biến Đông), có độ am cao. (2)
Miền Nam ( từ đèo Hải Vân trở vào ) do ít chịu ảnh hướng của gió mùa nên
khí hậu nhiệt đới khá điều hòa, nóng quanh năm và chia thành hai mùa rõ rệt (
mùa khô và mùa mưa ).Nhiệt độ trung bình tại Việt Nam dao động từ 21°c
đến 27°c và tăng dần từ bắc vào nam. Mùa hè, nhiệt độ trung bình trên cả
nước là 25 °c .Việt Nam có lượng bức xạ mặt trời rất lớn với số giờ nắng từ
1.400 - 3.000 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 đến 2.000
mm
Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển Nông,
Lâm nghiệp. Việt Nam có hệ thực vật phong phú, đa dạng ( khoảng 14.600
loài thực vật). Thảm thực vật chủ yếu là rừng rậm nhiệt đới, gồm các loại cây
ưu sáng, nhiệt độ lớn và độ âm cao.
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc ( 2.360 con sông dài trên 10
km), chảy theo hai hướng chính là Tây Bắc - Đông Nam và vòng Cling. Hai

con sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mêkông tạo nên hai vùng đồng bàng
rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống canh tác sông suối hàng năm được bổ sung
tới 310 tỷ mét khối nước.


Việt Nam có hai đồng bàng lớn phù họp với điều kiện phát triển lúa gạo:
Đồng bằng sông hồng ( đồng bằng Bắc Bộ ):Rộng khoảng 16.700 km2 được
bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn đó là sông Hồng và sông Thái Bình.
Đồng bằng sông Cửu Long ( đồng bằng Nam Bộ)
Rộng 40.000 km2 là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi và đây là vựa lúa
lớn nhất của Việt Nam. Đồng bàng sông Cửu Long có khí hậu hai mùa rõ rệt.
Đồng bằng sông cửu long do phù sa thượng nguồn của sông Đồng Nai, Cửu
Long và nước biến bồi đắp cho nên đất đai thấp,bằng phang, nhiều sông rạch
và rất phì nhiêu. Diện tích đất tự nhiên của ĐBSCL chiến 12% diện tích đất cả
nước, trong đó 3 triệu ha đất canh tác, chiếm 33% của tổng diện tích đất,
trong đó 48,8% đất trồng lúa và 51% diện tích nước dành cho thủy sản. Đây
là vùng có điều kiện thuận lợi đe chuyên môn hóa sản xuất lúa để tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu trên thị trường thế giới.
2 Bối cảnh lịch sử .
Trước khi giành độc lập nền kinh tế Việt Nam còn nghèo nàn về cơ sở vật
chất, lạc hậu về kỹ thuật và hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc
vào thiên nhiên . Năng suất lúa bình quân năm 1930 – 1944 là 12 tạ . trong
khi đó Thái Lan là 18 tạ. Ruộng đất tập trung hết vào tay địa chủ phong kiến,
nông dân chiếm 97% số hộ nhưng chỉ có 36% có ruộng. Số hộ dân còn lại
phải đi cày thuê , cuốc mướn. Hằng năm Việt Nam vẫn xuất ra nước ngoài
trên 1 triệu tấn gạo, nhưng người đan Việt Nam vẫn đói ăn. Điển hình là nạn
đói năm 1945 với hơn 2 triệu người chết đói. Sản xuất công nghiệp nhỏ lẻ và
què quặt. Cả nước không có nhà máy công nghiệp nào, đầu tư cho công
nghiệp ít ỏi , chủ yếu tập trung vào khai thác mỏ.
Trong điều kiện nền kinh tế, tài chính kiệt quệ , nạn đói vẫn tiếp diễn. Đảng

và nhà nước ta đã có những công cuộc đổi mới cho nền kinh tế nước nhà. Đặt
ra khẩu hiệu “ tấc đất tấc vàng” đối với lĩnh vực nông nghiệp. Hàng loạt các
chủ trương, chính sách , biện pháp thúc đẩy sản xuất, tiết kiệm, khắc phục khó
khăn về tài chính , ổn định đời sống. Tăng gia sản xuất và nỗ lực làm tốt công
tác thủy lợi cũng góp phần quan trọng giải quyết lâu dài vấn đề an ninh lương
thực. Năm 1946 , chỉ riêng mình Bắc Bộ đạt sản lượng là 1.925.000 tấn. Trải
qua nhiều thời kỳ , thời kỳ phong kiến, thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ… nền
nông nghiệp Việt Nam đang từng bước đi lên và phát nhanh chóng.
Những năm gần đây , nền nông nghiệp nước ta đang từng bước phát triển ,
bước đầu được công nghiệp hóa, phát huy được vai trò trụ đỡ cho nền kinh tế
trong bối cảnh khó khăn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp đang
giảm dần và bộc lộ những yếu kém của một nền nông nghiệp dựa trên kinh tế
hộ nhỏ lẻ, thiếu liên kết, năng suất và chất lượng thấp trong khi cạnh tranh
giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp &
Phát triển Nông thôn, tăng trưởng GDP nông nghiệp có xu hướng giảm dần,
tốc độ tăng GDP nông nghiệp giai đoạn 2001 - 2005 đạt 3,83%/năm, giảm
xuống 3,3%/năm trong giai đoạn 2006 - 2010, năm 2013, tốc độ này tiếp tục
giảm còn 2,8%.


Trong khi rất cần vốn để phát triển thì đầu tư phát triển của toàn xã hội vào
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn rất thấp, giảm từ 8,5% năm 2000 xuống còn
6,2% năm 2010. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào khu vực này hiện
chỉ chiếm 1 - 2% tổng vốn FDI. Cùng với đó, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn chuyển dịch chậm; quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn
chậm đổi mới; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được bảo đảm; ô nhiễm môi
trường tăng…
3

Thực tiễn phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam


Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính sách
đúng đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước phát
triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu. Liên tục trong nhiều năm nông
nghiệp đạt mức tăng trưởng khá cả về giá trị, sản lượng. Vì vậy, từ chỗ là một
nước thường xuyên thiếu lương thực, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn
lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua Việt Nam đã trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn (hiện đứng thứ 2 trên thế giới, năm 2011 có thể xuất khẩu
tới 7 triệu tấn), đồng thời bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngoài gạo,
Việt Nam còn chiếm vị thế cao trong số các nước xuất khẩu về cà phê, cao su,
hạt điều. Giá trị xuất khẩu những mặt hàng nông sản khác như thủy sản, chế
biến gỗ cũng ngày càng cao và trở thành các sản phẩm chủ lực trong cơ cấu
xuất khẩu của đất nước. Cơ cấu nông nghiệp cũng chuyển dịch theo hướng
tích cực, gia tăng sản phẩm có giá trị kinh tế, có lợi thế cạnh tranh. Trong
nông nghiệp đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung quy mô lớn.
Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn được tăng
cường. Chẳng hạn, công tác thủy lợi hóa đã được thực hiện hết sức mạnh mẽ,
đến nay 94% diện tích lúa, 41% diện tích hoa màu trong cả nước được tưới
tiêu. Việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp triển khai khá rộng
rãi (70% diện tích lúa được sử dụng máy móc). Công nghệ tiên tiến, nhất là
công nghệ sinh học được ứng dụng góp phần tăng chất lượng, hiệu quả sản
xuất nông nghiệp. Nông nghiệp nước ta hiện nay tuy có tỷ trọng giảm đi trong
cơ cấu kinh tế của đất nước, song giá trị tuyệt đối ngày càng tăng và đóng góp
được 20% GDP cho đất nước... Sự phát triển trong nông nghiệp thực sự là cơ
sở quan trọng tạo tiền đề vật chất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho đại bộ phận nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo (Việt Nam được thế
giới công nhận là điểm sáng trong thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo) và
làm thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại hơn.
Như vậy tư duy lý luận của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn thời gian qua đã cởi trói cho lực lượng sản xuất trong lĩnh vực này

phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên để phát triển nông - lâm- ngư nghiệp toàn diện
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với giải quyết tốt vấn đề nông
dân, nông thôn từ tinh thần của văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần


thứ XI thì vấn để nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay còn đang đặt ra
nhiều khó khăn, có thể kể ra một số thách thức cơ bản sau:
Thách thức lớn nhất của nông nghiệp hiện nay là khả năng cạnh tranh,
năng suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn thấp. Sở dĩ
như vậy do sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn chủ yếu là nhỏ lẻ, manh
mún, việc ứng dụng khoa học công nghệ, cũng như phát triển công nghiệp chế
biến nông sản chưa cao như những nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù thời gian qua nhiều người đã hài lòng và tự hào rằng chúng ta tuy sản
xuất nhỏ lẻ nhưng vẫn đạt được những thành tích lớn trong việc bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia, lại có nhiều sản phẩm có số lượng xuất khẩu khá,
chiếm vị thế cao trên thị trường quốc tế, song thực sự nếu muốn tiến lên sản
xuất hàng hóa lớn, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp
theo chủ trương của Đảng và Nhà nước thì kiểu sản xuất manh mún này chắc
chắn không thể phù hợp. Bởi, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cạnh
tranh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt, yêu cầu của người tiêu dùng đối
với hàng nông sản ngày càng cao (như chất lượng tốt, giá rẻ, bảo đảm an toàn
vệ sinh thực phẩm, bảo vệ được môi trường sinh thái...).
Sự gắn kết giữa sản xuất và thị trường trong nông nghiệp còn rất yếu.
Nhà nước đã có những chủ trương khuyến khích việc liên kết "4 nhà" trong
nông nghiệp nhằm giúp đỡ người nông dân yên tâm sản xuất. Nhưng, trong
thực tế việc liên kết này còn rất lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong
muốn và các "nhà” chưa thực sự giúp ích cho nông dân. "Nhà doanh nghiệp"
được người nông dân trông đợi nhất trong việc tiêu thụ sản phẩm chẳng
những chưa làm tốt vai trò của mình, mà lại là "nhà” bị coi hưởng lợi nhiều
nhất trong quá trình liên kết, không bảo đảm sự công bằng lợi ích cho nông

dân. Do đó có thực tế trong nông nghiệp Việt Nam là khi được mùa nông dân
không bán được hàng, lúc mất mùa, thiên tai, dịch bệnh thì không được gì. Ở
hoàn cảnh nào nông dân cùng là người bị thua thiệt và vì vậy, luôn có tình
trạng nông dân thường xuyên thay đổi cây trồng, vật nuôi, không yên tâm tích
lũy kinh nghiệm, sản xuất ổn định lâu dài.
Theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI, nền nông
nghiệp của đất nước sẽ phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
hiệu quả, bền vững, tuy vậy, để làm được điều này, thách thức lớn đặt ra là
người nông dân sẽ được gì, đâu là động lực để duy trì sự phát triển bền vững.
Bởi, nông dân là đối tượng, đồng thời cũng là chủ thể của nông nghiệp. Một
khi thu nhập của người nông dân quá thấp so với thu nhập chung trong xã hội,
khoảng cách đời sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng doãng rộng thì
sẽ đưa đến kết quả không ai muốn làm nông dân. Thực tế này đã được các
nước trên thế giới giải quyết rất tốt và đến nay tuy nhiều nước có số người
làm lao động nông nghiệp thấp nhưng vẫn tạo ra được năng suất cao, sản
lượng lớn, bảo đảm cung cấp ổn định cho nhu cầu trong nước mà vẫn xuất
khẩu. Người nông dân ở những nước này có thu nhập không kém gì những
người làm các nghề khác nên họ yên tâm, yêu nghề và có vị thế chính trị


trong đất nước. Ở Việt Nam, thu nhập, đời sống, vị thế chính trị của người
nông dân đều không bằng những nhóm người khác nên đây sẽ là thách thức
lớn trong thời gian tới.
B. Nội dung
1. Tái cơ cấu nông nghiệp
1.1 Mục tiêu tái cơ cấu nền nông nghiệp
a)- Mục tiêu chung:
-Đưa nghành nông nghiệp phát triển toàn diện ,hiện đại với cơ cấu các chuyên
nghành ,tiểu nghành và các nghành sản phẩm có năng lực cạnh tranh ,có quy
mô hàng hóa lớn .

-Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển
nông nghiệp bền vững dựa trên đổi mới quan hệ sản xuất; đẩy mạnh liên kết
giữa sản xuất và thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ; chuyên môn hóa
nông dân, tạo việc làm ổn định, chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông
nghiệp; nâng cao thu nhập, đời sống của dân cư nông thôn; bảo vệ môi trường
sinh thái và xây dựng nông thôn mới.
-Khai thác tốt tiềm năng, nâng cao giá trị, hiệu quả và khả năng cạnh tranh
của các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa chủ lực, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người nông dân, giảm nghèo bền vững, gắn với thực hiện
thành công chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới trong
năm 2020.
b)- Mục tiêu cụ thể
-Phục hồi và ổn định tăng trưởng nông nghiệp bằng hoặc hơn mức tăng
trưởng nông nghiệp chung của cả nước .
-Phấn đấu đạt tốc độ tăng GDP nghành từ 3,5-4% / năm ,tốc độ tăng giá trị
sản xuất toàn nghành bình quân 4-4.5% / năm Trong đó thủy sản 5 5,5%/năm, lâm nghiệp 6 – 6,5%/năm. Phấn đấu đạt kim ngạch XK nông, lâm,
thủy sản 39 – 40 tỷ USD vào năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020 có 50% số
xã đạt tiêu chí NTM.
-2020 khoa học và công nghệ đóng góp 50% vào GDP ngành nông nghiệp,
sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao và sản phẩm nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao chiếm tỷ trong 50% trong giá trị sản xuất của các sản phẩm
chủ yếu
-Chuyển một số bộ phận ra khỏi nông nghiệp nhằm giarmtir trọng lao đông
nông nghiệp xuống còn 30% lao động xã hội vào năm 2020
-Mục tiêu xây dựng Đảng: Giữ vững thành tích Đảng bộ Bộ NN-PTNT
nhiệm kỳ 2015 – 2020 trong sạch vững mạnh; Chính quyền, Công đoàn, Đoàn
Thanh niên Bộ vững mạnh góp phần xây dựng ngành nông nghiệp, nông thôn
phát triển bền vững. Cụ thể: 100% đảng viên tham gia học tập các nghị quyết,
chỉ thị, quy định của Đảng; 100% chi bộ xây dựng chuẩn mực đạo đức theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tổ chức sinh hoạt chuyên đề, đồng thời tổ

chức cho cán bộ đảng viên đăng ký và tự giác học tập và làm theo tấm gương


đạo đức Hồ Chí Minh. Phấn đấu trong 5 năm tới, bồi dưỡng 1.500 quần chúng
ưu tú tạo nguồn cho phát triển Đảng và bồi dưỡng lý luận chính trị cho 1.000
đảng viên dự bị, kết nạp từ 950 đến 1.000 đảng viên mới. Phấn đấu 100% các
đảng bộ, chi bộ trực thuộc xây dựng chương trình kiểm tra, giám sát hàng
năm, đơn thư khiếu nại được giải quyết kịp thời, dứt điểm.
1.2 Nội dung tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam
A. Quy hoạch lại nền nông nghiệp
Thời gian qua, nước ta đã cơ cấu lại và xây dựng nền nông nghiệp phát triển
theo hướng hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tổ chức
lại sản xuất, thúc đẩy ứng dụng sâu rộng khoa học kỹ thuật – công nghệ, nhất
là công nghệ sinh học… Sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng khá toàn
diện, bước đầu đã hình thành một nền sản xuất hàng hóa, nhiều vùng chuyên
canh đã được xác lập, một số hàng nông sản của Việt Nam đã được thị trường
thế giới biết đến.
Tuy nhiên nhìn tổng thể, nền nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi
tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, thiếu tính quy hoạch, liên kết. Ngay
trong thời điểm hiện nay, ngành nông nghiệp vẫn bế tắc: Nông sản đồng loạt
rớt giá, sản xuất khó tiêu thụ, xuất khẩu gặp không ít khó khăn. Điều này cũng
đã được thể hiện khá rõ nét trong Dự thảo Báo cáo đánh giá về thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011-2015. Do vậy, giải pháp được
đặt ra là tiếp tục cơ cấu lại nền nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới.
Đặc biệt là trong thời gian tới, khi nền kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng thì
ngành nông nghiệp Việt Nam ngày càng đứng trước nhiều thách thức. Chính
vì vậy, nông nghiệp, nông thôn, nông dân đang rất cần những động lực mới để
tăng trưởng. Để ngành nông nghiệp thật sự bứt phá, cần đẩy nhanh tái cơ cấu
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững. Đồng
thời, phải tạo sự đột phá về tổ chức và quản lý quy hoạch cùng với hoàn thiện

cơ sở pháp lý, cơ chế chính sách để thực hiện quy hoạch phát triển nông
nghiệp theo hướng kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Việc ứng
dụng khoa học công nghệ và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, phát triển nông
nghiệp theo hướng nông nghiệp sạch nhằm bảo đảm vệ sinh an toàn thực
phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái cũng là một vấn đề cần được quan tâm.
Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư và trợ giúp kỹ thuật, công nghệ cho các tiểu
ngành có giá trị gia tăng cao trong nông nghiệp để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển
dịch cơ cấu lao động đáp ứng tốt yêu cầu của một nền nông nghiệp hiện đại
và hiệu quả.
Trên cơ sở đó, các địa phương quy hoạch, phát triển kết cấu hạ tầng và tổ
chức sản xuất cho phù hợp. Đối với các ngành hàng nông sản có khối lượng
hàng hóa lớn như lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều, tôm, cá tra, lợn, gà, bò
sữa... nhất thiết phải được tổ chức sản xuất theo hợp đồng và quản lý theo
chuỗi giá trị sản phẩm từ trang trại đến bàn ăn. Cùng với đó, đẩy mạnh liên


kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, DN và nông dân. Trước hết, tập trung ở
những vùng đã phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn; khuyến khích
hợp tác, liên kết từ sản xuất, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm, giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả và bảo đảm hài hòa lợi ích các bên. Đặc biệt, thực
hiện tái cơ cấu đầu tư, rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, khuyến khích
mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn,
trong đó khuyến khích đầu tư theo hình thức đối tác công tư...
- Quy hoạch sử dụng đất.
Trong 4 năm từ 2006 - 2010 diện tích đất nông nghiệp không ngừng được mở
rộng: tăng 1,649 triệu ha từ 24,584 triệu ha năm 2006 lên 26,233 triệu ha năm
2010, tăng 6,7% (bình quân mỗi năm đất nông nghiệp tăng thêm 400 ngàn
ha), trong đó đất sản xuất nông nghiệp tăng 718,9 ngàn ha.
Đất sản xuất nông nghiệp tăng từ 9,412 triệu ha năm 2006 lên 10,131 triệu ha
năm 2010 (bình quân mỗi năm tăng thêm 180 ngàn ha) do khai hoang mở

rộng diện tích chủ yếu là ở các vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long để trồng lúa,
ở Đông Nam Bộ (ĐNB), ở Tây Nguyên (TN) để trồng các loại cây công
nghiệp như cà phê, cao su, hoa màu lương thực, ở các tỉnh Trung Du Miền
Núi Bắc Bộ để trồng chè, cây ăn quả...
Đất lúa trong giai đoạn 2006 - 2010 có xu hướng giảm do chuyển đổi sang
nuôi trồng thuỷ sản và trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn. Hiện nay
đất lúa cả nước là 4,131 triệu ha, đủ đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước
và xuất khẩu gạo hàng năm từ 3 - 5 triệu tấn.
Đất trồng cây lâu năm năm 2010 tăng 646,9 ngàn ha so với năm 2006 (từ
3,054 triệu ha lên 3,700 triệu ha năm 2010). Chủ yếu do tăng diện tích trồng
cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su và điều.
Đất lâm nghiệp do khoanh nuôi, bảo vệ rừng tốt hơn nên diện tích tăng từ
14,437 triệu ha năm 2006 lên 15,368 triệu ha năm 2010 (tăng 931,7 ngàn ha).
Diện tích rừng trồng tăng rất nhanh, chất lượng rừng trồng đã thay đổi căn
bản, tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 37,6% năm 2003 lên 39,4% năm 2009, ước đạt
gần 40% năm 2010. Đây là một thành tích lớn về khai thác sử dụng đất hợp lý
của ngành nông nghiệp nước ta. Đất nuôi trồng thủy sản: Năm 2010 đạt 690,3
ngàn ha (giảm so với năm 2006 là 11,7 ngàn ha).
- Quy hoạch sử dụng đất lúa.
Quỹ đất chưa sử dụng có khả năng mở rộng diện tích cho trồng lúa nước
không nhiều. Vì vậy, cần khai thác triệt để phần diện tích này nhằm bù vào
diện tích đất lúa bị mất do chuyển mục đích sử dụng hàng năm. Có thể điều
động nhiều hộ nông dân từ nơi khác tới để sản xuất, góp phần phân bố lại dân
cư ở cấp tỉnh và toàn quốc.


Khi mở rộng diện tích đất CSD cho trồng lúa nước, cần coi trọng cả việc khai
hoang mở rộng diện tích và thâm canh, tăng vụ để nâng cao hệ số sử dụng
ruộng đất, tăng năng suất. Có thể từ nay đến năm 2020 diện tích đất lúa khai
hoang thêm không đủ bù vào diện tích đất lúa mất đi, nhưng diện tích tăng do

nâng cao hệ số sử dụng ruộng đất và năng suất tăng sẽ đảm bảo tăng sản
lượng lương thực góp phần giữ vững an ninh lương thực quốc gia.
Diện tích đất có khả năng mở rộng trồng lúa nước toàn quốc là 47,6 nghìn ha,
chỉ còn rất ít khu vực phân bố tập trung là những nơi chưa được đầu tư khai
thác. Phần lớn diện tích phân bố rải rác, xen kẽ với đất 1 vụ. Các tỉnh còn đất
mở rộng diện tích lúa nước phân bố tương đối tập trung:
Vùng Đồng Tháp Mười: mở rộng diện tích lúa nước trên đất phèn khoảng 3,1
nghìn ha (Long An 1,6 nghìn ha, Đồng Tháp 1,5 nghìn ha). Vùng Tứ Giác
Long Xuyên: mở rộng diện tích đất lúa trên đất phèn ở Kiên Giang 3,3 nghìn
ha, tập trung nhiều nhất tại huyện Hòn Đất và Kiên Lương.
Tỉnh Đăk Lăk: 4,9 nghìn ha, chủ yếu trên đất xám bạc màu ở huyện Ea Soup,
YaH’leo.
Tỉnh Gia Lai: 4,4 nghìn ha, chủ yếu trên đất xám, tập trung ở 2 vùng: Ia Lâu,
Yamơ huyện Chư Prông và huyện Krông Pa. – Những vùng đất phèn và đất
xám phân bố tập trung, có thể bố trí khai thác theo hai hình thức sau:
Vùng đất phèn bị ngập lũ hàng năm, nhất thiết phải có quy hoạch thuỷ lợi,
đào kênh tạo nguồn nước ngọt, vượt nền nhà cho dân ở. Ngoài trồng lúa nước,
phục hồi và trồng mới, khoanh nuôi bảo vệ rừng tràm, nuôi trồng thuỷ sản là
các phương thức canh tác kết hợp với lúa.
Vùng đất xám do khô hạn nên phải đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, kiến
thiết đồng ruộng. Đầu tư cho thuỷ lợi và xây dựng các cơ sở hạ tầng khác cần
kinh phí lớn nhưng sẽ tạo thành những vùng lúa tập trung có năng suất cao do
khai phá mở rộng diện tích và tăng vụ trên đất hiện đang chỉ gieo trồng được
1 vụ lúa nước.
- Quy hoạch đất trồng cây hàng năm:
Đất trồng cây hàng năm hiện có 6,28 triệu ha, đến năm 2020 là 6,3 triệu ha,
đề xuất mở rộng diện tích đất chưa sử dụng có khả năng mở rộng diện tích
trồng cây ngắn ngày được bố trí ở độ dốc dưới 150, nơi khó có thể trồng được
cây lâu năm do hạn chế về độ dầy tầng đất mịn, mức độ kết von, đá lẫn trong
đất. Tuy nhiên, đây là đề xuất chung, ở từng địa bàn cụ thể khi điều tra quy

hoạch chi tiết để triển khai sản xuất sẽ bố trí sử dụng đất chính xác hơn.
Tổng diện tích đề xuất mở rộng cho cây hàng năm gồm 110 nghìn ha; các
vùng Tây Nguyên, trung du miền núi Bắc bộ, duyên hải Nam trung bộ còn
diện tích đáng kể. Khả năng bố trí khá đa dạng về loại cây trồng, một số khu


vực đất ven sông ven biển, địa hình trũng có thể trồng cói, đất đồi núi và đất
cát trồng hoa màu lương thực, đậu đỗ, lạc, vừng...
Theo kết quả đánh giá phân hạng, 6 tỉnh còn trên 5 nghìn ha đất chưa sử dụng
có thể mở rộng diện tích cây ngắn ngày gồm: Bình Thuận (7,5 nghìn ha),
Quảng Nam (6,8), Kon Tum (7,8), Gia Lai (8,1), Lâm Đồng 5,3), Nghệ An
(5,4), quy mô diện tích khoảng 4 nghìn ha có 3 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà
Tĩnh. Giống như đất CSD có khả năng mở rộng diện tích lúa nước, đất có
khả năng mở rộng diện tích cây ngắn ngày cũng phân tán và đan xen với đất
đã sản xuất hoặc đất sẽ mở rộng diện tích cho gieo trồng các cây khác.
- Quy hoạch đất trồng cây lâu năm:
Dự kiến đất trồng cây lâu năm đến năm 2020 là 3,3 – 3,8 triệu ha, trên cơ sở
khai thác triệt để quỹ đất chưa sử dụng có khả năng trồng cây lâu năm để bù
vào diện tích đất trồng cây lâu năm bị mất đi. Đất chưa sử dụng có thể mở
rộng diện tích trồng cây lâu năm toàn quốc đạt 249,3 nghìn ha. Căn cứ đặc
điểm đất đai, yêu cầu sinh thái của một số cây trồng chính, khả năng bố trí
một số cây cụ thể như sau:

Mở rộng diện tích cao su: khả năng 78,7 nghìn ha ở 3 vùng chính: Tây
Nguyên 37,4 nghìn ha, trung du miền núi Bắc bộ 16,4 nghìn ha, duyên hải
Bắc trung bộ 13,9 nghìn ha, duyên hải Nam trung bộ 9,4 nghìn ha.

Mở rộng diện tích cà phê: khả năng mở rộng diện tích 26,7 nghìn ha,
trong đó hai vùng TDMNBB và DHBTB mở rộng diện tích cà phê chè 12,7
nghìn ha. Các vùng Tây Nguyên và duyên hải Nam trung bộ có khả năng mở

rộng diện tích trên đất chưa sử dụng 13,8 nghìn ha.

Mở rộng diện tích trồng điều 39 nghìn ha. Diện tích đất chưa sử dụng
đề xuất trồng điều đa số là đất xám tầng trung bình và mỏng, đất cát ven biển
có độ phì nhiêu thấp nên khi thực thi cần có giải pháp cải tạo, bảo vệ và thâm
canh hợp lý để đạt năng suất cao.

Mở rộng diện tích trồng chè gần 14 nghìn ha, phân bố ở trung du
miền núi Bắc bộ 9,1 nghìn ha, duyên hải Nam trung bộ 3,2 nghìn ha, vùng đồi
gò thuộc đồng bằng sông Hồng 0,6 nghìn ha.

Khả năng mở rộng diện tích cây ăn quả toàn quốc đạt 91 nghìn ha.
Các tỉnh phía Bắc từ duyên hải Bắc trung bộ trở ra có mùa đông lạnh, có khả
năng mở rộng diện tích trồng nhãn, vải, cây có múi, hồng không hạt ở vùng
thấp; cây ăn quả đặc sản ưa lạnh ở vùng cao. Các tỉnh phía Nam mở rộng diện
tích cây ăn quả ưa nóng: sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, cây có múi, thanh
long, nho.


Hướng mở rộng diện tích trồng cây lâu năm là hình thành vùng sản xuất tập
trung cho sản phẩm hàng hoá tiêu thụ trong nước ở mức độ vừa phải, đồng
thời chú trọng các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu lại phụ
thuộc vào thị trường quốc tế. Vì vậy, địa bàn đất chưa sử dụng đề xuất trồng
cây lâu năm cần được quy hoạch và phát triển hợp lý hài hoà. Có thể chuyển
đổi cơ cấu giữa các loại cây để đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế sử dụng đất cao.
- Quy hoạch sử dụng đất đồng cỏ chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản.
Hiện trạng có 797,2 ngàn ha, căn cứ vào kết quả điều tra hiện trạng kết hợp
xem xét khả năng sử dụng, dự kiến đất đồng cỏ chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ
sản đến năm 2020 là 1,21 triệu ha. Đề xuất mở rộng diện tích đất đồng cỏ cho
chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2020 như sau: thảm cỏ sử dụng cho

chăn thả gia súc khoảng 95,7 nghìn ha, chia ra: trung du miền núi Bắc bộ 29,6
nghìn ha, duyên hải Nam trung bộ 28,5 nghìn ha, duyên hải Bắc trung bộ 21,9
nghìn ha, Tây Nguyên 16,5 nghìn ha.
B. Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa nhằm mục tiêu vừa nâng cao
hiệu quả sử dụng đất, vừa duy trì quỹ đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn
định chính trị xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải đảm bảo nguyên tắc chuyển
đổi nhưng không được làm mất các yếu tố phù hợp để trồng lúa, khi cần thiết
có thể quay lại trồng lúa mà không phải đầu tư lớn; cây trồng chuyển đổi phải
có thị trường tiêu thụ, có lợi thế cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao hơn trồng
lúa.
-

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo vùng .

Vùng ĐBS Cửu Long tập trung chuyển đổi mô hình chuyên lúa sang mô
hình luân canh 2 lúa – màu, 1 lúa – 2 màu; chuyên rau, màu và lúa kết hợp
nuôi trồng thủy sản. Năm 2014-2015, chuyển đổi khoảng 112 ngàn ha diện
tích gieo trồng lúa, trong đó chuyển sang trồng ngô 30 ngàn ha, đậu tương 8
ngàn ha, vừng, lạc 11 ngàn ha; rau, hoa 27 ngàn ha…Giai đoạn 2016-2020,
tiếp tục chuyển đổi khoảng 204 ngàn ha.
Vùng Đồng bằng sông Hồng, tập trung chuyển đổi mô hình 2 lúa sang trồng
các loại rau, hoa, màu; mô hình 1 lúa chuyển sang trồng rau màu, mô hình
trồng lúa sang lúa – cá và tăng diện tích cây màu vụ Đông trên đất trồng lúa.
Vùng Trung du miền núi phía Bắc, chuyển đổi một số diện tích 2 vụ lúa sang
trồng rau các loại, hoa; chuyển đổi mô hình 1 lúa sang trồng rau, màu, tăng
cường cây vụ Đông trên đất trồng lúa.



Vùng Bắc Trung bộ, trong năm 2014-2015 chuyển đổi khoảng 26 ngàn ha đất
lúa sang trồng ngô, đậu tương, vừng, lạc…Giai đoạn 2016-2020 chuyển đổi
tiếp 34 ngàn ha đất lúa sang các cây trồng khác.
Đối với vùng Duyên hải Nam trung bộ, giai đoạn 2014-2020, chuyển đổi
khoảng 105 ngàn ha đất lúa sang các cây trồng khác.
Đối với vùng Tây Nguyên, chuyển đổi khoảng 15 ngàn ha đất trồng lúa sang
trồng ngô và các cây trồng khác.
Vùng Đông Nam bộ, tập trung chuyển đổi mô hình chuyên lúa sang các loại
cây có giá trị kinh tế cao như hoa, cây cảnh, rau an toàn.
-

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo vụ.

Ngoài 2 vụ sản xuất chính của cây lúa là vụ chiêm và vụ mùa, thì các địa
phương cần lựa chọn các loại cây trồng xen canh vụ đông cho phù hợp với địa
phương của mình như cây đậu tương , cây ớt, cây lạc…nhằm mang lại hiệu
quả kinh tế cao cho nông dân và tránh lãng phí đất.
C. Đổi mới hình thức sản xuất.

Sản xuất theo hộ nông dân .
Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế có qui mô hộ gia đình, trong đó các
hoạt động chủ yếu là dựa vào lao động gia đình.
Hoạt động của kinh tế hộ nông dân chủ yếu là dựa vào lao động gia đình hay
là lao động có sẵn mà không cần phải thuê ngoài. Các thành viên tham gia
hoạt động kinh tế hộ có quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế và huyết thống.
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất không thể thiếu của sản xuất kinh
tế hộ nông dân.
Các hộ sản xuất kinh doanh trong nhiều ngành nghề (Nông - Lâm - Ngư Diêm nghiệp - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp). Nhưng hiện nay phần lớn là
hoạt động trong ngành nông nghiệp - thuần nông. Trong tổng số lao động của

ngành sản xuất vật chất thì riêng ngành nông nghiệp đã chiếm tới 80%. Trong
số những người lao động nông nghiệp chỉ có 1,5 % thuộc thành phần kinh tế
quốc doanh còn 98,5% còn lại là người lao động trong lực lượng hộ sản xuất
(chủ yếu là hộ gia đình). Quy mô sản xuất theo hộ thường là nhỏ lẻ và manh
mún, mọi nguồn lực về vốn , lao động, kỹ thuật.. đều là nguồn tự cung tự cấp.
Vấn đề đặt ra, cần nhanh chóng chuyển nền kinh tế tự túc sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần tham gia sử dụng có hiệu quả tiềm năng và lợi thế
so sánh là thế mạnh của vùng. - Phát triển kinh tế hộ nông dân phải gắn liền
với giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần. Coi phát triển con người là động lực để phát triển sản xuất, phát triển xã


hội và tiến bộ xã hội, thực hiện mục tiêu cơ bản mà Nhà nước đã đặt ra là : “
Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh”.
Phát triển kinh tế hộ nông dân phải phát huy năng lực nội sinh trong sự phát
triển cộng đồng dân tộc và vai trò quyết định là Nhà nước. Phát triển kinh tế
hộ nông dân, lấy hộ nông dân làm đơn vị kinh tế tự chủ trong nông thôn ở
đồng bào dân tộc là hướng cơ bản và lâu dài, khuyến khích nông hộ làm giàu
bằng đất đai, tiềm năng tại chỗ. Việc thay đổi nếp sống tạm bợ, nếp làm ăn
không có kế hoạch
Thực tiễn sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua đã xuất hiện một số mô
hình sản xuất theo hướng quy mô lớn, tăng cường tính liên kết và ứng dụng
công nghệ cao tại một số địa phương như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Nghệ An,
Lâm Đồng, Hậu Giang, Thái Nguyên... và bước đầu đã được thực tế kiểm
nghiệm có hiệu quả. Hầu hết các mô hình này đều có sự tham gia tích cực của
các doanh nghiệp và người nông dân.
Hình thức liên kết trong tổ chức sản xuất lấy doanh nghiệp làm trung tâm của
sự liên kết đang được nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư quan tâm.Đó là sự liên
kết giữa doanh nghiệp với nông dân (thông qua tổ hợp tác hoặc hợp tác xã),
có sự tham gia của các nhà khoa học, dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước tạo thành mối liên kết dọc theo chuỗi giá trị trong sản xuất sản phẩm nhằm

tăng sản lượng, chất lượng và hiệu quả sản xuất, qua đó góp phần tăng thu
nhập cho nông dân, người lao động và lợi nhuận bền vững cho doanh nghiệp.
 Hình thức sản xuất trang trại, doanh nghiệp.
Thựchiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, kinh tế hộ nông dân đã
phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của hộ nông dân đã
hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ công nghệ và
quản lý cao hơn, nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá và nâng cao năng
suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Hiện nay, hình thức kinh tế trang trại đang tăng nhanh về số lượng với nhiều
thành phần kinh tế tham gia, nhưng chủ yếu vẫn là trang trại hộ gia đình nông
dân và một tỷ lệ đáng kể của gia đình cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội,
công an đã nghỉ hưu. Hầu hết các trang trại có quy mô đất đai dưới mức hạn
điền, với nguồn gốc đa dạng, sử dụng lao động của gia đình là chủ yếu; một
số có thuê lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công lao động
được thoả thuận giữa hai bên. Hầu hết vốn đầu tư là vốn tự có và vốn vay của
cộng đồng; vốn vay của tổchức tín dụng chỉ chiếm tỷ trọng thấp. Phần lớn
trang trại phát huy được lợi thế của từng vùng, kinh doanh tổng hợp, lấy ngắn
nuôi dài.


Sự phát triển của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn
trong dân,mở mang thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hoá, nhất
là ở các vùng trung du, miền núi và ven biển; tạo thêm việc làm cho lao động
nông thôn,góp phần xoá đói giảm nghèo; tăng thêm nông sản hàng hoá. Một
số trang trại đã góp phần sản xuất và cung ứng giống tốt, làm dịch vụ, kỹ
thuật tiêu thụ sản phẩm cho nông dân trong vùng.
Song song với hình thức này là hình thức liên kết theo chiều ngang – liên kết
các hộ nông dân với nhau thông qua tổ hợp tác, hợp tác xã. Đây cũng là
hướng được nhiều tỉnh thành chú trọng phát triển nhằm phát huy tối đa lợi thế

trong liên kết với việc ứng dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, cơ giới hóa,
bảo quản, chế biến sau thu hoạch và đặc biệt là thực hiện tốt khâu tiêu thụ sản
phẩm của nông dân. Mối liên kết ngang còn được xây dựng giữa các doanh
nghiệp, giữa các hợp tác xã, giữa các tổ hợp tác với nhau và trong vùng nhằm
tăng sức cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, để các hình thức tổ chức sản xuất này phát huy
hiệu quả cần có khung pháp lý về mối liên kết trong sản xuất nông nghiệp,
nhằm hình thành và phát triển các hình thức liên kết trong nông nghiệp từ sản
xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, trong đó cần
có chế tài trong sự liên kết 4 nhà (nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học
và nhà nước). Từ đó, sớm có các cơ chế chính sách hỗ trợ, thúc đẩy việc phát
triển các hình thức liên kết trong sản xuất. “Chế tài trong liên kết là vô cùng
quan trọng”, hiện nay, ở nhiều tỉnh thành đã có liên kết trong sản xuất thông
qua mô hình cánh đồng mẫu lớn. Bước đầu mô hình này đã thu được những
kết quả khả quan. Năng suất tăng, chất lượng hiệu quả cũng được cải thiện rõ
rệt, thu nhập và tính chủ động trong sản xuất của doanh nghiệp và nông dân
tăng lên. Tuy nhiên, hình thức liên kết này hiện vẫn bộc lộ những hạn chế. Đó
là, các chế tài ràng buộc sự liên kết còn lỏng lẻo, quy mô liên kết còn hẹp,
mới dừng ở mức độ mô hình, một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm và
chia sẻ lợi ích với nông dân sẽ khiến cho mối liên kết thiếu tính bền vững. Bởi
vậy, rất cần có khung pháp lý cho sự liên kết và các cơ chế, chính sách hỗ trợ
sự liên kết này.
Cùng với các giải pháp đồng bộ khác, việc hình thành, phát triển và duy trì
bền vững các hình thức liên kết nói trên được phát triển sẽ giúp các tỉnh thành
thực hiện được định hướng tái cơ cấu với các nội dung tái cơ cấu trong các
lĩnh vực trồng trọt theo hướng ổn định diện tích gieo trồng lúa, ngô, ổn định
sản lượng lương thực, phát triển các vùng chuyên canh chè, mía, lạc, sắn, rau,
củ, quả… gắn với chế biến, tiêu thụ. Bên cạnh đó, phát triển chăn nuôi tập
trung, chú trọng phát triển bò sữa, tăng tỷ trọng đàn gia cầm, khuyến khích tổ
chức sản xuất khép kín hoặc liên kết giữa các chuỗi giá trị từ sản xuất giống,

thức ăn, chế biến, tiêu thụ…, phát triển thủy sản, khuyến khích đầu tư nâng
cao hiệu quả kinh tế rừng trồng theo hướng phát triển lâm nghiệp đa chức
năng…


D. Đẩy mạnh chuyển giao khoa học - công nghệ theo hướng nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Trước bước tiến mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật cùng với những thách thức
của dịch hại, nhiều nông dân sản xuất nông nghiệp bắt đầu chuyển hướng,
chọn giải pháp tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, giảm
giá thành sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế. Bà con nông dân đầu tư hàng triệu
đồng thậm chí là hàng chục hàng trăm triệu đồng để đầu tư máy móc phục vụ
cho sản xuất nông nghiêp như máy cày, máy cấy, máy gặt đập liên hợp …
Không những đầu tư về máy móc mà bà con nông dân còn đầu tư áp dụng
nhiều tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào quá trình sản xuất , bảo quản, chế biến.
sử dụng các loại giống mới có năng suất cao , chi phí đầu tư thấp để thu được
lợi nhuận cao hơn.
Để giúp đỡ nông dân và đưa ra các định hướng ổn định cho phát triển sản xuất
nông nghiệp của nước ta. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng
thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định
hướng đến năm 2030 tại Quyết định số 575/QĐ-TTg.
Quy hoạch nhằm góp phần đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp theo hướng
hiện đại, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh cao; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia
và gia tăng xuất khẩu.
Theo đó, mục tiêu đến năm 2020, xây dựng 10 khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao trong đó có 8 khu đã được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quyết định thành lập; hình thành một số vùng nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tập trung vào các đối tượng: Rau, hoa, cà
phê, chè, thanh long, bò sữa, bò thịt, gia cầm, tôm (mặn, lợ); xây dựng cơ sở

pháp lý, mô hình tổ chức, nguồn nhân lực phục vụ quản lý và điều hành các
hoạt động của khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; xây dựng được một
số giải pháp, chính sách để thực hiện quy hoạch và phát triển các khu, vùng
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; góp phần thực hiện các mục tiêu
Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1895/QĐ-TTg
ngày 17 tháng 12 năm 2012. Đến năm 2030, hoàn thành xây dựng hạ tầng kỹ
thuật và đưa vào hoạt động hiệu quả ít nhất 10 khu nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao và các vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; tiếp tục
chọn lọc, thành lập một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đáp ứng
quy định; mở rộng về quy mô và đối tượng sản xuất nông nghiệp ứng dụng
công nghệ cao.
Về quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: đến năm 2020,
ngoài 2 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Hậu Giang và Phú Yên đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tiếp tục quy hoạch và xây dựng 8 khu


nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được Ủy ban nhân dân tỉnh quyết
định thành lập (khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Thái Nguyên, tỉnh
Thái Nguyên; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh, tỉnh
Quảng Ninh; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Khánh Hòa, tỉnh
Khánh Hòa; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Lâm Đồng, tỉnh Lâm
Đồng; khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh;
khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Bình Dương, tỉnh Bình Dương; khu
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cần Thơ, thành phố Cần Thơ). Đến năm
2030, hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng, hoạt động có hiệu quả 10 khu
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã được thành lập thuộc quy hoạch tổng
thể; nghiên cứu quy hoạch các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại
các tỉnh Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An,

Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Đắk Nông, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang và các tỉnh
còn lại;…
Về quy hoạch vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao: các vùng sản xuất
cà phê ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại Tây Nguyên, Tây Bắc và Bắc
Trung bộ; các vùng sản xuất chè ứng dụng công nghệ cao: Sản xuất chè xanh
tập trung tại Thái Nguyên, sản xuất chè olong tập trung tại Lâm Đồng; các
vùng sản xuất thanh long ứng dụng công nghệ cao tập trung tại Bình Thuận;
các vùng sản xuất rau ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại Lào Cai, Hà Nội,
Hải Phòng, Thành phố HồChí Minh, Lâm Đồng; các vùng sản xuất hoa ứng
dụng công nghệ cao, tập trung tại Lào Cai, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,
Lâm Đồng; các vùng sản xuất cây ăn quả chủ lực xuất khẩu ứng dụng công
nghệ cao, tập trung tại Đông Nam bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng
chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại Sơn La, Hà Nội,
Nghệ An và Lâm Đồng; các vùng chăn nuôi lợn ngoại ứng dụng công nghệ
cao, tập trung tại vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ; các vùng chăn
nuôi gia cầm ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại vùng đồng bằng sông
Hồng, Đông Bắc, Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng sản
xuất tôm nước mặn, nước lợ ứng dụng công nghệ cao, tập trung tại vùng đồng
bằng sông Hồng, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Đông Nam bộ và
đồng bằng sông Cửu Long.
E. Tái cơ cấu lại tiểu ngành trong nông nghiệp.
Về ngành trồng trọt, mục tiêu tái cơ cấu ngành nhằm duy trì tăng trưởng, bảo
đảm vững chắc an ninh lương thực trước mắt và lâu dài; tăng thu nhập cho
nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, bảo vệ môi
trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, ưu tiên triển khai chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, phát triển sản xuất quy mô lớn, tập trung gắn với thị
trường (ngành lúa gạo, sản phẩm quốc gia, rau an toàn, cà phê – tái canh). Áp
dụng rộng rãi công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước (cho các cây trồng như



cà phê, hồ tiêu, điều, chè, mía…); Cơ giới hóa, giảm thất thoát sau thu hoạch,
hỗ trợ công nghệ và thiết bị thu hoạch lúa, ngô, mía, chè, cà phê. Đẩy mạnh
chế biến, bảo quản, hỗ trợ công nghệ và thiết bị chế biến… Bên cạnh đó, sẽ
tiến hành tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, mở rộng đối tác công tư PPP,
tăng cường xúc tiến thương mại. Đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước về trồng trọt.
Về chăn nuôi, kế hoạch hành động tái cơ cấu ngành gồm nâng cao năng suất,
chất lượng giống gia súc, gia cầm. Trong đó, tiến hành giám định, bình tuyển,
loại thải đực giống không đủ tiêu chuẩn; Xây dựng hệ thống quản lý quốc gia
về đực giống vật nuôi, nâng cấp các cơ sở sản xuất giống vật nuôi do Trung
ương và địa phương quản lý. Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất chăn nuôi; Đầu tư nguồn lực cho nghiên cứu khoa
học về lĩnh vực chăn nuôi; Nghiên cứu công nghệ sinh học, di truyền nhằm
chọn lọc, nhân thuần các giống lợn, gia cầm có năng suất và chất lượng cao
theo định hướng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; Nghiên cứu chọn lọc, lai
tạo các tổ hợp lai phù hợp với vùng sinh thái nhằm tăng giá trị gia tăng và lợi
thế vùng…
Về tái cơ cấu ngành thủy sản, ưu tiên rà soát, điều chỉnh quy hoạch nuôi, tiêu
thụ cá tra; Nuôi tôm nước lợ, cá rô phi, tôm hùm, nhuyễn thể. Rà soát, điều
chỉnh quy hoạch khai thác gồm: số lượng tàu thuyền theo nghề, vùng biển; Hệ
thống cảng cá, khu neo đậu; Hệ thống sửa chữa đóng mới tàu cá. Bên cạnh
đó, hoàn thiện thể chế, chính sách như: sửa đổi luật thủy sản 2003; Chính sách
tạo, sử dụng, quản lý quỹ tái tạo nguồn lợi thủy sản; Chính sách quản lý ven
bờ. Về khai thác thủy sản, tiến hành đánh giá nguồn lợi hải sản, hiện đại tàu
cá, giám sát tổn thất sau khai thác, nâng cao năng lực đăng ký, đăng kiểm tàu
cá, đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng. Về nuôi trồng thủy sản, quan trắc môi
trường trong nuôi trồng thủy sản, áp dụng công nghệ cao trong giống, nuôi,
bệnh, môi trường.

1.3 Giải pháp tái cơ cấu nền nông nghiệp Việt Nam

A .Gắn với xây dựng nông thôn mới
-Tái cơ cấu nông nghiệp cần gắn liền với xây dựng nông thôn mới .Phải đặt
người dân vào vị trí trung tâm và vái trò chủ thể.Cần đầu tư hạ tầng nông thôn
,đồng bộ cơ sở vật chất .Phát triển các khu đô thị nhỏ ,các cụm dân cư .Nâng
cao chất lượng cuộc sống ,tang cường đảm bảo an ninh lương thực trật tự ở
nông thôn
-Đề ra các chsnh sách cơ chế hiệu quả ,áp dụng khoa học công nghệ (công
nghệ sinh ọc ,công nghệ thông tin) vào sản xuất ,quản lý nông nghiệp ,giúp
nông dân tiếp cận nhanh hơn các thành tựu khoa học ,ccong nghệ .Góp phần
thúc đẩ công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp .


-Quan tâm xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển các hình thứ hợp
tác,lien kết đa dạng ,nhất là người nông dân và doanh nghiệp .Thu hút
,khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn .Đảm bảo cho
người nông thôn có thu nhập ,đời sống ổn định ,góp phần chuyển đổi cơ cấu
kinh tế ,xây dựng nông thôn mới
B .Nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
đối với quy hoạch
- Rà soát ,điều chỉnh mục tiêu ,chỉ tiêu phát triển nghành cho phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế xã hội và tái cơ cấu nghành gắn với quy hoạch xây
dựng nông thôn mới ,làng nghề và các nhà máy ,cơ sở chế biến ,chỉ đạ thực
hiện hiệu quả quy hoạch xây dựng nông thôn mới ,đặc biệt quy hoạch phát
triển sản xuât
-Tăng cường kiểm tra ,giám sát thực hiện quy hoạch ,kế hoạch nhất là sự kết
hợp giữa quy hoạch nhành ,lĩnh vực với quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội
của từng địa phương và quy hoạch xây dựng nông thôn ,thực hiện công
khai ,minh bạch các loại quy hoạch theo quy định
-Xác định thứ tự ưu tiên thực hiện quy hoạch để khai thác tối đa tiềm năng lợi
thế của vùng ,chỉ đạo thực hiện quy hoạch ,kế hoạch sư dụng đất ,ưu tiên

vùng chuyên canh như lúa ,cao su,gỗ rừng trồng …Xác định các giải pháp để
cơ cấu lại sản xuat nông nghiệp ,hình thành các vùng chuyên canh hàng hóa
các nông sản chủ lực của tỉnh ,xác định vùng khuyến khích vùng hạn chế phát
triển chăn nuôi,quy hoạch vùng phát triển nông nghiệp công nghệ cao
- Rà soát, bổ sung, điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn để nâng cao
chất lượng, hiệu quả quy hoạch xã nông thôn mới; quy hoạch phát triển làng
nghề với quy mô, cơ cấu sản phẩm, trình độ công nghiệp hợp lý để phát huy
các nguồn lực lao động, tài nguyên, vốn, khoa học công nghệ... đủ sức cạnh
tranh, thích ứng với điều kiện từng vùng, từng địa phương.
C .Khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân vào nông nghiệp nông thôn
- Phát triển các hình thức đầu tư có sự tham gia giữa nhà nước và tư nhân
(đối tác công tư, hợp tác công tư,...) để huy động nguồn lực xã hội cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
công.Nhà nước hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn; chuyển dần việc cung cấp một số dịch vụ công sang cho tư nhân và các
tổ chức xã hội thực hiện; tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế ngoài
nhà nước trong tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp.Tạo điều kiện thuận lợi cho
đầu tư tư nhân


- Xác định các dự án ưu tiên, tăng cường việc xúc tiến đầu tư các dự án, giải
quyết nhanh các thủ tục về đầu tư, đất đai, cho thuê đất phục vụ dự án nông,
lâm, thủy sản.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các cơ chế, chính sách hiện hành liên quan
đến khuyến khích phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông sản
(cây trồng, vật nuôi), sản phẩm ngành nghề nông thôn, thu hút đầu tư tư nhân,
các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh Tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp vừa
và nhỏ...
- Tranh thủ các nguồn tài trợ trong nước và quốc tế qua các chương trình, dự
án hỗ trợ. Có cơ chế sử dụng lồng ghép hợp lý nguồn vốn (theo từng chương

trình, dự án đầu tư trong nước, vốn nước ngoài, ngân sách nhà nước, vốn tín
dụng, nguồn vốn đầu tư các doanh nghiệp, vốn góp của nhân dân...), đầu tư
trọng điểm, tránh dàn trải dẫn đến quản lý nguồn vốn lỏng lẻo, hiệu quả đầu
tư thấp, mà tập trung theo định hướng điều chỉnh cơ cấu ngành. Có cơ chế
khuyến khích các hình thức đầu tư có sự tham gia giữa nhà nước và tư nhân
(PPP, PPC,…) trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
D .Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đầu tư công
- Các cơ quan, đơn vị quản lý nhà nước về đầu tư, các chủ đầu tư nâng cao
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong công tác quản lý, sử dụng đầu
tư công từ ngân sách nhà nước và các nguồn hợp tác phát triển; đánh giá mức
độ đóng góp của dự án đầu tư vào thực hiện tái cơ cấu ngành.
- Tiến hành rà soát, phân loại ưu tiên các dự án đầu tư, điều chỉnh phương
thức và nguồn đầu tư để phát huy hiệu quả, thu hút tối đa nguồn lực đầu tư xã
hội vào lĩnh vực nông nghiệp.
- Dựa vào kế hoạch trung hạn, đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về quản lý chi tiêu công cho các đơn vị, địa phương.
-Tăng hợp lý tỷ trọng vốn đầu tư của ngân sách nhà nước phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn; nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong công tác quản lý, sử dụng đầu tư công từ ngân sách nhà nước và các
nguồn hợp tác phát triển.
- Đẩy mạnh phân cấp, giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý chi
tiêu công cho chính quyền địa phương và huy động các nguồn lực địa phương
cho các dự án quy mô nhỏ được thực hiện tại địa phương. Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý các dự án quy mô lớn, các dự
án cấp vùng, liên vùng, quốc gia và các dự án có yêu cầu kỹ thuật phức tạp.
-Ưu tiên đầu tư cho các viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo nhân lực, hình
thành các cụm nghiên cứu - đào tạo - sản xuất công nghệ cao theo vùng sinh
thái; đầu tư cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực cho hệ thống thông tin thị trường
và dự báo thường xuyên cung cấp thông tin về cung - cầu, giá cả thị trường



trong nước và thế giới; hỗ trợ tiếp thị, quảng bá, phát triển thị trường và
chuyển giao công nghệ.
E .Cải cách thể chế
-Tiếp tục sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước thuộc ngành:
+Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước thuộc
ngành, tiếp tục nghiên cứu hình thức tổ chức phù hợp hơn cho các doanh
nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi thời gian qua.
+ Chỉ đạo rà soát hiện trạng sử dụng đất rừng, tiếp tục bóc tách diện tích rừng
của các lâm trường giao cho địa phương để cho các tổ chức, cá nhân thuê sử
dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, rừng theo quy hoạch 3 loại rừng.
+Chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày
12/3/2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục, sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng
cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp.
-Phát triển kinh tế hợp tác,trang trại
+Mở rộng các dịch vụ, tăng cường năng lực, đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp; xây dựng chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư vào hợp tác xã; đổi mới công nghệ, thiết bị sản
xuất, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật
+Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Đề án phát triển kinh tế trang trại;
nâng cao hiệu quả sản xuất của các trang trại hiện có; phát triển trang trại phù
hợp với từng vùng địa phương .Tạo điều kiện cho trang trại phát triển .Thành
lập các chi hội, câu lạc bộ trang trại để chia sẻ kinh nghiệm, liên doanh, liên
kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
+Thực thi các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác (hợp tác xã,
tổ hợp tác) các nhóm kinh tế tự nguyện tham gia vào sản xuất, kinh doanh
nông nghiệp;
+Tăng cường sự tham gia của Hội Nông dân, các hội, hiệp hội ngành hàng
trong các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; chuyển giao một số
chức năng dịch vụ công của nhà nước cho các hiệp hội (xúc tiến thương mại,

khuyến nông, dự báo thị trường, tiêu chuẩn chất lượng, xử lý tranh chấp...);
đẩy mạnh mối quan hệ liên kết giữa nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp.
+Nâng cao năng lực tổ chức quản lý và hoạt động của hợp tác xã nông nghiệp
trong việc cung cấp dịch vụ nông nghiệp đầu vào, chế biến nông sản và tiếp
cận thị trường cho các thành viên.
-Phát triển đối tác công tư, hợp tác công tư
+Phát triển đối tác công tư, hợp tác công tư trong xây dựng, quản lý và vận
hành các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn;


hỗ trợ cung cấp các dịch vụ công; tiếp tục kêu gọi doanh nghiệp đầu tư vào
sản xuất nông nghiệp theo Nghị định 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về
chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
- Tiếp tục đổi mới hệ thống nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, đào
tạo và dịch vụ công
+Tiếp tục đổi mới cơ chế hoạt động và tăng cường năng lực cho các đơn vị sự
nghiệp công lập.
+ Đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp công lập theo
hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm; huy động sự tham gia của tất cả các thành
phần kinh tế, đặc biệt các doanh nghiệp ngoài nhà nước vào các hoạt động
khoa học công nghệ, đào tạo và các dịch vụ nông nghiệp khác; phân cấp mạnh
mẽ hoạt động khuyến nông cho các tổ chức nông dân và doanh nghiệp; tăng
kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và khuyến
nông.
+Nâng cao vai trò của các tổ chức nông dân và doanh nghiệp trong việc xác
định nội dung ưu tiên nghiên cứu; hoàn thiện hệ thống giám sát và đánh giá
hiệu quả hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
+Hình thành các trung tâm khoa học với số lượng lớn các cơ quan nghiên

cứu, cán bộ khoa học tại các vùng trọng điểm về sản xuất nông nghiệp.
+ Hỗ trợ nông dân kết nối, tiếp cận với dịch vụ nghiên cứu, chuyển giao và áp
dụng tiến bộ kỹ thuật; mở rộng các hình thức đào tạo nghề gắn với chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới; nhân rộng các mô hình tốt trong đào
tạo nghề cho lao động nông thôn.
-Cải cách hành chính,công tác quản lý nhà nước
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính với nội dung trọng tâm là: Sắp xếp, tổ chức
lại bộ máy quản lý nhà nước ở Bộ và các địa phương đảm bảo sự chỉ đạo
nhanh nhạy, thông suốt, chủ động và hiệu quả; triệt để đơn giản hóa thủ tục
hành chính, tạo điều kiện cho các cơ sở, địa phương giải quyết nhanh các yêu
cầu đáp ứng có hiệu quả sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác.
+ Đẩy mạnh công tác quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, vệ sinh an toàn
thực phẩm nông lâm thủy sản đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường và thị
hiếu của người tiêu dùng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu
+Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và triển khai thực hiện cải cách hành chính,
nhất là thủ tục hành chính; thực hiện tốt cơ chế một cửa; nâng cao vai trò,
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển nông nghiệp từ tỉnh đến
cơ sở.


+Tăng cường kỷ luật hành chính, kỷ luật công vụ, đề cao trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong thực thi công vụ, sâu sát cơ sở để nắm bắt tình hình, tham
mưu đề xuất giải quyết những khó khăn, vướng mắc. Tăng cường công tác
thanh, kiểm tra các hoạt động sản xuất, nhất là vật tư đầu vào, không để gây
thiệt hại cho nông dân.
-Tổ chức bộ máy, đào tạo nguồn nhân lực
+Tiếp tục kiểm tra sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ngành nông
nghiệp từ tỉnh đến cơ sở đảm bảo tinh gọn, đồng bộ, thông suốt, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
+Tổ chức thực hiện tốt quy chế quản lý, tuyển dụng, đào tạo và đào tạo lại

nhằm nâng cao năng lực cán bộ kỹ thuật cho các cơ quan chuyên môn từ tỉnh
xuống cơ sở; đồng thời tăng cường cán bộ kỹ thuật và nâng cao năng lực hoạt
động cho hệ thống bảo vệ thực vật, khuyến nông, thú y, bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản, quản lý chất lượng nông lâm thủy sản....,chú trọng xây dựng mạng lưới
cộng tác viên cơ sở.
+Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình dạy nghề và Đề án phát triển
ngành nghề nông thôn; nâng cao hiệu quả đào tạo của các trường, trung tâm
dạy nghề; tiếp tục mở rộng đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao tay nghề cho
lao động có tay nghề khá ở các địa phương; thực hiện tốt chính sách đào tạo
nghề đối với lao động, giáo viên, cơ sở dạy nghề.
+Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, nâng cao kiến thức kỹ thuật về
nông lâm ngư nghiệp cho nông dân gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn
mới, nhất là các nghề thị trường lao động cần, ưu tiên vùng sâu, vùng xa
F .Tiếp tục sửa đổi ,hoàn thiện hệ thống các chính sách
- Ưu tiên ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ về giống mới, quy trình
sản xuất nông sản an toàn, các mô hình chăn nuôi an toàn dịch bệnh; xây
dựng một số mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp.
-Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy điều hành các Chương trình
mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu khác; tăng cường sự kết nối,
phối hợp thực hiện giữa các Sở, ngành (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nông
nghiệp và PTNT, LĐTB & XH, Công thương, Xây dựng, Giao thông vận
tải...), các hội đoàn thể để triển khai thực hiện đồng bộ.
-Xây dựng các chính sách để phát triển và đa dạng hóa các hình thức khuyến
nông, giúp nông dân thay đổi tập quán canh tác và nâng cao chất lượng sản
phẩm, giảm thất thoát sau thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ
nông dân kết nối với các doanh nghiệp chế biến, hệ thống tiêu thụ sản phẩm,
từng bước hình thành mạng lưới sản xuất và chuỗi cung ứng kết nối sản xuất,
chế biến, phân phối và bán sản phẩm; kết nối công nghiệp phục vụ nông
nghiệp với sản xuất nông nghiệp, kết nối “bốn nhà” trong sản xuất, tiêu thụ;
khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản theo



×