Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Vai tro cua NHTW tren TTTT va kinh nghiem mot so nuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (677.48 KB, 30 trang )

Học Viện Ngân Hàng – Phân Viện Phú Yên
Khoa Tài chính - Ngân hàng

Bài tập lớn

THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Đề tài : Vai trò của Ngân hàng trung ương
trên thị trường tiền tệ và kinh nghiệm của một số nước.
Giáo viên hướng dẫn : Đặng Vũ Khánh Vân
Thành viên nhóm 6 : Phạm Trung Tuấn (NT)
Nguyễn Ngọc Đồng
Lê Phạm Lan Anh
Nguyễn Huỳnh Nhân
Đoàn Thị Lợi
Nguyễn Ngọc Dung
Y Thu Hoài

Phú Yên, tháng 4 năm 2017


LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, tiền trở thành một phương tiện đảm bảo cho mọi hoạt
động kinh tế diễn ra một cách bình thường. Hoạt động của tiền trong nền kinh tế luôn gắn
liền với các hiện tượng kinh tế như: lạm phát, chu kỳ kinh doanh, thâm hụt ngân sách ...
Tiền liên quan đến các quyết định của các cá nhân và ảnh hưởng đến tình trạng chung của
nền kinh tế quốc gia. Liên quan đến sự vận động của tiền trong nền kinh tế là hoạt động
của các tổ chức tài chính (các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ tương trợ...) và thị
trường tài chính (thị trường chứng khốn, thị trường cổ phiếu và hối đối). Các thị trường
tài chính và các tổ chức tài chính khơng chỉ tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi cá
nhân mà còn liên quan đến sự luân chuyển của những dòng vốn lớn trong nền kinh tế, tác
động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và đến cả tình trạng kinh tế của một


nước.
Như chúng ta đã biết, nếu vốn được coi là một trong những nguồn lực quan trọng
và đóng vai trị quyết định đối với sự phát triển kinh tế, nó có một tính chất khan hiếm.
Vậy vấn đề đặt ra làm thế nào dể sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả nhất nguồn
vốn trong nước và ngồi nước? Để đạt được điều này, trước hết cần phải có một hệ thống
ngân hàng phát triển đồng bộ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngân hàng Nhà nước
(NHNN) hay ngân hàng Trung Ương (NHTW) với các ngân hàng thương mại (NHTM)
trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Ở đó, vai trị đặc biệt của NHTW là khơng thể
thay thế được.
Chính vì vậy mà bài viết này có tên là: “Vai trò của Ngân hàng Trung Ương trên
thị trường tiền tê và kinh nghiệm của một số nước”

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
1. Khái niệm ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước được độc quyền phát
hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ,
tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn
thuần bằng các luật lệ các biện pháp hành chính, mà cịn thơng qua các nghiệp vụ mang
tính kinh doanh sinh lời.
Ngân hàng trung ương có các khoản thu nhập từ tài sản của mình như: chứng khốn
chính phủ, cho vay chiết khấu, kinh doanh trên thị trường ngoại hối….Hầu hết các khoản
thu nhập của Ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động đều phải nộp vào
ngân sách nhà nước.
2. Chức năng của Ngân hàng trung ương
2.1 Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành

NHTW ra đời sau khi vai trò độc quyền phát hành có nghĩa là NHTW là cơ quan
duy nhất được phép phát hành tiền theo các quy định trong luật hoặc được chính phủ phê
duyệt (mệnh giá tiền, loại tiền…) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu
thông tiền tệ của quốc gia.
2.2 Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng
Với chức năng này, NHTW cung cấp các dịch vụ ngân hàng trung gian, bao gồm :
• Mở tài khoản nhận tiền gửi của các Ngân hàng trung gian
• Là trung tâm thanh tốn cho hệ thống ngân hàng trung gian
• Cung cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian
2.3 Ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ
Ngân hàng trung ương có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, Bao
gồm:
- Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước
- Tạm ứng cho ngân sách
- Làm đại lý và tư vấn cho chính phủ
3. Vai trị
• Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
• Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng

3


CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG ĐẾN THỊ
TRƯỜNG TIỀN TỆ THƠNG QUA CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1. Sử dụng các phương pháp dự báo để xác định cung cầu VKD của NHTM
a/ Dự báo trên cơ sở phương pháp tiếp cận bảng cân đối tiền tệ của ngân hàng trung
ương.
 Cơ sở dự báo
Phương pháp tiếp cận bản cân đối tiền tệ của ngân hàng trung ương cho phép ngân hàng
trung ương sử dụng số liệu của các khoản mục trên BCĐ để dự báo trạng thái vốn khả

dụng, sự thay đổi của mỗi nhân tố trên BCĐ để dự báo vốn khả dụng. Sự thay đổi của
mỗi nhân tố trên BCĐ sẽ ảnh hưởng đến trạng thái Vốn khả dụng của toàn hệ thống NH.
 Phương pháp, kỹ thuật dự báo
Phương pháp này dự báo về sự thay đổi của vốn khả dụng bắt nguồn từ thay đổi của
các yếu tố trên BCĐ của ngân hàng trung ương. Về nguyên tắc hầu hết các yếu tố tiền tệ
đều có tính thời vụ, nên có thể dự báo các yếu tố căn cứ vào phân tích dãy số liệu lịch sử
thơng qua việc thiết lập mơ hình dự báo, đồng thời cũng có thể dự báo trên cơ sở các hợp
đồng (cho vay, thu nợ, mua bán các ngoại tệ…) kế hoạch giải ngân (thời điểm, khối
lượng…)
Sự thay đổi vốn khả dụng được đo lường bằng sự thay đổi các mục bên tài sản “có” trừ
sự thay đổi về tiền mặt trong lưu thông bên tài sản nợ, cụ thể:
Vốn khả dụng =TSC ngoại tệ + Cho vay CPR + Cho vay các TCTD + Các khoản khác
rịng + Tiền mặt lưu thơng ngồi NHTW.
Từ cơng thức trên chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố có dâú (+) là mối quan hệ thuận
chiều và dấu ( - ) là mối quan hệ nghịch chiều.
 Tổng hợp kết quả dự báo:
Nếu cầu lớn hơn cung vốn khả dụng NHTW cần bơm tiền thêm thông qua kênh tái
cấp vốn hoặc nghiệp vụ thị trường mở làm thay đổi khoản mục cho vay các ngân hàng
ròng.

4


Ngược lại, nếu cầu nhỏ hơn cung, một bộ phận tiên trung ương cần được thu hút
về thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
b/ Dự báo theo cách tiếp cận từ các TCTD:
 Cơ sở dự báo
Đây là phương pháp dự báo dựa vào số liệu báo cáo của các TCTD và ngân hàng
trung ương tổng hợp trạng thái Vốn khả dụng của tồn thị trường ở thời điểmquản lí. Hơn
hết các TCTD luôn nắm rõ trạng thái Vốn khả dụng hằng ngày và ở một số thời kì nhất

định để ln thõa mãn đầy đủ u cầu thanh tốn và nghĩa vụ tài chính hằng ngày của
bản thân TCTD. Vì vậy dựa vào phương pháp này sẽ cho NHTW có kết quả dự báo sát
nhất với thực trạng Vốn khả dụng của hệ thống. Có thể dự báo vốn khả dụng theo ngun
tắc phân tích lng tiền của các TCTD bao gồm theo dõi, phân tích theo thời hạn còn lại
của các khoản mục TSC và TSN của các TCTD trên cơ sở hợp đồng và dự báo các khoản
phát sinh bên TSC và TSN.
Vị thế luồng tiền ròng chính là chênh lệch giữa tổng các khoản tiền vào và tổng các luồng
tiền ra trong một thời kì nhất định.
Vị thế luồng tiền ròng = Tổng các luồng tiền vào – tổng các luồng tiền ra
 Phương pháp, kỹ thuật dự báo
Việc xác đinh vị thế luồng tiền ròng phụ thuộc vào phương pháp quản lý TSN – TSC
của từng ngân hàng. Có TCTD theo đuổi chiến lược quản lý TSN, TSC hay quản trị hỗn
hợp hay vào phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn, phuơng pháp tiếp cận cấu
trúc vốn và phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản. Mỗi phương pháp đều được xây
dựng trên một số giả định khác nhau và TCTD chỉ có thể ước lượng gần đúng được mức
cần thanh khoản thực tế tại một số thời điểm nhất định.
Phương pháp dự báo chủ yếu căn cứ vào việc quản lí theo dõi online tất cả các khoản
mục phát sinh bên TSC cũng như TSN trên toàn hệ thống của từng TCTD
Trên cơ sở các hợp đồng , các TCTD thực hiện việc theo dõi và cập nhập thường xuyên
việc điều chỉnh thời hạn còn lại của các khoản mục TSC và TSN để xác đinh luồng tiền
và luồng tiền ra.

5


Đồng thời các TCTD có thể sử dụng một số mơ hình kinh tế lượng trên cơ sở các số liệu
lịch sử và căn cứ vào các thông tin từ các khách hàng, thị trường để dự báo các khoản
mục phát sinh bên TSC và TSN trong từng thời kì nhất định.
 Tổng hợp các kết quả dự báo
Kết quả dự báo được NHTW tổng hợp dự báo của từng TCTD về luồng tiền ròng

theo từng thời gian nhất định.
2. Sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tín dụng, quản lý dự trữ bắt
buộc của NHTW để đáp ứng khả năng thanh khoản và thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ
2.1 Dự trữ bắt buộc
Việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ trong cơ
chế tạo tiền của NHTM. Tỷ lệ DTBB tăng lên làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của
NHTM, từ đó làm giảm lượng tiền trong lưu thơng góp phần làm giảm cầu tiền để cân
bằng với sự giảm cung của xã hội. Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ DTBB là tăng khả
năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các NHTM cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và
khối lượng thanh tốn có xu hướng tăng đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng
tiền làm tăng cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ
DTBB sẽ làm giảm hoặc tăng lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tiền của
hệ thống ngân hàng. Vì vậy đó là một cơng cụ tiềm tàng của chính sách tiền tệ. Ngồi ra
DTBB cịn đảm bảo việc thanh tốn thường xuyên của các NHTM.
2.2 Nghiệp vụ thị trường mở
Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng: NHTW chủ động phát hành tiền
trung ương vào lưu thông hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông bằng cách mua bán các loại
trái phiếu ngân hàng quốc gia nhằm tác động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong
quỹ dự trữ của NHTM và các tổ chức tài chính, hạn chế tiềm năng tín dụng và thanh tốn
của các ngân hàng này, qua đó điều khiển khối lượng tiền trong thị trường tiền tệ. Khi
NHTW thấy cần giảm lượng tiền trong lưu thơng thì Ngân hàng sẽ tổ chức bán lượng
giấy tờ có giá đang nắm giữ ra thị trường. Khi Ngân hàng bán các chứng khốn, NH có
thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng điều này sẽ làm giảm khả năng cho vay
của hệ thống ngân hàng và vì thế mà giảm khối lượng tiền cung ứng. Ngược lại, Nếu
NHTW muốn gia tăng lượng tiền trong lưu thơng thì NHTW sẽ mua vào một lượng giấy
tờ có giá nhất định khi đó tiền trung ương sẽ đi vào lưu thông. Điều quan trọng ở đây là

6



thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm
mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua
bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các
NHTM.
2.3 Nghiệp vụ tái cấp vốn
Là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được vượt quá
một lượng hay một tỷ lệ tăng trưởng nào đó trong thời gian nhất đinh (thường là 1 năm)
để thực hiện vai trị kiểm sốt mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động: Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền
cung ứng, việc quy định pháp lí hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều
với quy mơ lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
3. Quản lý trạng thái vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng thông qua các nghiệp
vụ thị trường của NHNN Việt Nam.
Việc dự báo VKD của hệ thống TCTD sẽ giúp NHTW nắm được trạng thái bình
thường và bất thường của thị trường, từ đó đưa biện pháp điều chỉnh kịp thời trạng thái
VKD thông qua bơm hút tiền, điều chỉnh cơ chế giá.
Với trạng thái thiếu hụt: Khi có tình trạng thiếu thanh khoản thì NHTW sẽ (hầu
như) ln cung cấp nhu cầu. Trong lịch sử, chỉ có một số ít trường hợp NHTW không thể
cung cấp đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế, trừ trường hợp hãn hữu là siêu
lạm phát hoặc bất ổn chính trị. Nếu TCTD thiếu dự trữ làm cho nó khơng thể thanh toán
vào cuối ngày, để tránh sự biến động đột biến với mức lãi suất trên TTLNH, NHTW có
thể cung cấp tín dụng thơng qua việc cho vay tái cấp vốn do không thể cung cấp qua
Nghiệp vụ thị trường mở do đã kết thúc phiên giao dịch. Tuy nhiên, thông thường thì các
TCTD có đủ số dư để đáp ứng nhu cầu thanh tốn, nó chỉ thiếu với số dư DTBB hoặc yêu
cầu về tỉ lệ thanh khoản. Khi NHTW áp dụng mức lãi suất phạt bằng hoặc cao hơn mức
lãi suất cho vay tái cấp vốn thì các TCTD sẽ duy trì sự cân bằng giữa các khoản tiền gửi
và NHTƯ sẽ thuận lợi cho việc cung cấp VKD thơng qua nghiệp vụ Thị trường mở.
Trong bất cứ tình huống nào, việc thiếu hụt VKD trong ngày sẽ gần như ln được
NHTW cung cấp, mặc dù mức giá có thể cao hơn, vì vậy, việc thiếu thanh khoản vào cuối

ngày rất ít khi xảy ra.

7


Ngược lại, việc dư thừa VKD lại khơng phải hình ảnh phản chiếu của tình trạng
thiếu hụt thanh khoản. NHTW khơng phải chuẩn bị đối phó như thiếu hụt. Khơng có rủi
ro thanh tốn, khơng có việc thất bại thanh tốn khi VKD dư thừa, khơng có tình trạng
khơng đủ DTBB. Nhưng hậu quả của việc dư thừa VKD sẽ tác động đến kết quả kinh
doanh của TCTD và can thiệp tới mục tiêu chính sách của NHTW, đó là làm giảm lãi suất
ngắn hạn, thậm chí có thể giảm xuống gần như bằng 0. Điều này đã xảy ra ở một số quốc
gia như Nhật Bản. Các TCTD có thể cố gắng để bù đắp sự mất mát thu nhập này bằng
cách làm chấp nhận cho vay với các khoản vay có mức độ rủi ro cao hơn (điều này sẽ gây
mất ổn định vĩ mô hoặc gây lạm phát, nếu việc cho vay lại trên TTLNH phát triển), hoặc
họ có thể từ chối nhận tiền gửi của khách hàng, đặc biệt là giảm lãi tiền gửi (làm ảnh
hưởng sự phát triển của các trung gian tài chính và có thể gây lạm phát vì khi đó, người
dân khơng thích gửi tiền vào NH, làm khuyến khích tiêu dùng chứ khơng khuyến khích
tiết kiệm) hoặc họ có thể cố gắng chuyển tiền của mình thành ngoại hối (sẽ tác động tới
tỷ giá hay trạng thái ngoại hối của NHTW, có thể gây lạm phát, nếu tỷ giá hối đối giảm
giá). Một số nghiên cứu của NHTW cho thấy khi thị trường có trạng thái dư thừa VKD
làm kênh truyền tải lãi suất của chính sách tiền tệ bị yếu đi. Điều này một lần nữa tạo nên
một tác động tiêu cực tới việc thực hiện CSTT.
Nếu biến động thị trường từ thặng dư sang thiếu hụt là liên tục theo từng ngày thì
thị trường sẽ trở nên mất cân bằng, lãi suất ngắn hạn biến động khơng thể đốn trước,
điều này sẽ ảnh hưởng tới sự ổn định dài hạn của thị trường, các TCTD sẽ e ngại khi
tham gia thị trường.
Nói cách khác, dự báo và Quản lý VKD là một phần quan trọng trong việc điều
hành CSTT của NHTW. Mục tiêu của ngân hàng trung ương là ổn định tiền tệ, điều này
có nghĩa, trong một bối cảnh nhất định, ổn định giá trị tiền tệ bằng cách giữ lạm phát
thấp, giữ ổn định giá cả trong nước và giá trị đối ngoại của tiền tệ bằng cách giữ tỷ giá

hối đối ổn định, qua đó hỗ trợ các mục tiêu rộng lớn hơn của thị trường tài chính ổn
định, bằng cách giảm những rủi ro có thể phát sinh từ ngắn hạn do giá cả không ổn định.
Để thực hiện quản lý VKD, NHTW sử dụng các khuôn khổ, các công cụ và các
quy định để tác động đến lượng dự trữ của các TCTD và kiểm soát sự biến động mức lãi
suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động cho phù hợp với mục tiêu cuối cùng của Chính sách
tiền tệ. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý VKD của hệ thống và đưa ra can thiệp hữu
hiệu lên thị trường tiền tệ, đòi hỏi NHTW phải thực hiện tốt công tác dự báo VKD.
Đối với các NHTW thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng
các công cụ trực tiếp thì vai trị và ý nghĩa của việc dự báo VKD còn mờ nhạt. Nhưng đối

8


với các NHTW thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thơng qua sử dụng các cơng cụ
gián tiếp thì dự báo VKD là một trong những khâu không thể thiếu được trong q trình
kiểm sốt, điều tiết tiền tệ của NHTW.
Thực chất, NHTW thực hiện quản lý VKD của các TCTD bằng cách quản lý cung
và cầu VKD, xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu VKD để từ đó tác động vào đó
để đạt được mục tiêu đã xác định.

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG TRÊN THỊ
TRƯỜNG TIỀN TỆ VÀ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC.
1. Thị trường tiền tệ Việt Nam 2011-2015
1.1 Diễn biến thị trường dưới sự quản lý, điều tiết của NHTW Việt Nam
Khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008-2009 và suy thối kinh tế sau đó đã gây tác
động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ 2011-2015, tình hình kinh tế thế giới và trong
nước diễn biến phức tạp, nền kinh tế trong nước bộc lộ nhiều bất ổn vĩ mô, lạm phát tăng
cao, kinh tế tăng trưởng chậm lại, thị trường chứng khốn suy giảm mạnh, thị trường bất
động sản “đóng băng”, cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt, mặt bằng lãi suất cho vay ở

mức cao, tỷ giá biến động và chịu nhiều sức ép, dự trữ ngoại hối nhà nước ở mức thấp,
nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) gặp khó khăn về thanh khoản, quản trị yếu kém, nợ xấu
gia tăng ở mức báo động, an toàn hệ thống đáng lo ngại, kỷ luật - kỷ cương thị trường
tiền tệ bị phá vỡ.
Với biểu hiện rõ nét là dịng vốn đầu tư nước ngồi giảm mạnh, gây áp lực lạm
phát và tỉ giá, buộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) phải liên tục điều chỉnh tăng
tỉ giá USD, riêng trong năm 2010 đã thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá với mức tăng tổng
cộng trên 5%. Tuy nhiên, áp lực tỉ giá vẫn tiếp tục tăng cao. Từ đó gây ra tình trạng lạm
phát trong nền kinh tế cụ thể: tháng giêng năm 2011, lạm phát Việt Nam khởi điểm 7% so
với cùng kỳ năm 2010 thì đúng 3 tháng sau đó, cuối tháng 4/2011, Tổng cục Thống kê
Việt Nam chính thức thơng báo lạm phát hay chỉ số giá tiêu dùng (gọi tắt là CPI) nhảy
vọt lên mức gần 18% so với một năm trước đó. Với mức tăng xấp xỉ gần 18%, tốc độ leo
thang của giá cả được cho là tăng nhanh nhất kể từ hồi năm 2008.
Tuy nhiên, lạm phát Việt Nam vẫn chưa dừng lại ở đó. Lạm phát tháng 7 lên đến
đỉnh điểm, tăng hơn 22% so với cùng kỳ năm 2010 và tăng xấp xỉ 15% so với ngày đầu
tiên của năm 2011. Lạm phát tháng 7 của Việt Nam lúc này ở mức cao nhất Châu Á và
đứng thứ nhì thế giới, chỉ sau Venezuela.

9


Dẫn đến tình trạng thị trường bất động sản đóng băng nhìn lại giai đoạn 20112013, khi bất động sản bị đặt vào nhóm phi sản xuất, ngân hàng khơng cho bất động sản
vay tiền, lập tức thị trường này “đóng băng”. Bộ Xây dựng cho biết, bất động sản nhà ở
sụt giảm ở tất cả các phân khúc, số lượng giao dịch thành cơng giảm mạnh, nhiều nơi
khơng có giao dịch; hầu hết các dự án bị đình trệ, lượng hàng tồn kho rất cao. Khơng ít
doanh nghiệp xây dựng, bất động sản rơi vào tình trạng kinh doanh thua lỗ, phá sản đã
ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thu ngân sách và phát triển kinh tế.
Đối với cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt: kim nghạch nhập khẩu 2012 ước
tính đạt 12,5 tỷ USD, tăng 5,7% so với năm 2011. Nhập siêu dịch vụ 2012 là 3,1 ty USD
tăng 3,8% so với 2011

Về lãi suất cho vay: Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm được điều
chỉnh tăng dần từ mức 11%/năm lên mức 14%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng dần từ
mức 7%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ mức 11%/năm lên mức
15%/năm. Đồng thời nguồn cung tiền từ NHNN bị giảm sút mạnh mẽ khiến cho những
ngân hàng trông đợi nhiều vào nguồn vốn này rơi vào tình thế khó khăn, đối mặt với
nhiều rủi ro về thanh khoản. Trong tình cảnh này, biện pháp đơn giản mà các NHTM
trong hệ thống áp dụng là tăng lãi suất huy động hút vốn bù đắp cho lượng thiếu hụt.
Động thái này, từ chỉ xuất hiện một vài ngân hàng, đã thúc đẩy các ngân hàng khác lao
vào một cuộc đua lãi suất huy động dưới các hình thức: Khuyến mãi, tặng thưởng, huy
động tiết kiệm lãi suất linh họat… dù đã có cam kết giữa các ngân hàng về trần lãi suất
huy động 14%. Trước tình hình đó, NHNN đã có Thơng tư chính thức quy định mức trần
lãi suất huy động VND tối đa là 14% (riêng với quỹ tín dụng nhân dân là 14,5%). cùng
với sự leo thang của lãi suất VND, lãi suất USD cũng liên tục nóng lên và tăng cao nhất
vào tháng 3/2011. Lãi suất liên ngân hàng cũng liên tục duy trì mức cao: Cho vay qua
đêm mức 13-14%/năm, kì hạn một tuần 14-15%/năm, kì hạn tháng 15-16%/năm, và chỉ
hạ nhiệt một chút sau khi các NHTM đảm bảo dự trữ bắt buộc vào cuối tháng. Đây chính
là dấu hiệu cho thấy một thị trường liên ngân hàng đang thực sự căng thẳng, các ngân
hàng đang thực sự khát vốn đáp ứng các nhu cầu thanh khoản.
Điều hành lãi suất linh hoạt, bám sát mục tiêu bao trùm của CSTT, đảm bảo là công
cụ để neo kỳ vọng lạm phát, ổn định tỷ giá và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
Một số thay đổi trong điều hành lãi suất những năm qua luôn tuân thủ nguyên tắc không
gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát
lạm phát, tăng trưởng kinh tế. NHNN đã có những đánh giá, nhận diện khá chính xác tình
hình để có được hướng điều hành hợp lý nhất. Khi mặt bằng lãi suất cho vay ở mức rất
cao, có thời điểm đã vượt 20%/năm, NHNN đã quyết định phải ổn định lại mặt bằng lãi
suất thông qua áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp (quy định trần lãi suất huy động

10



và trần lãi suất cho vay). Việc áp dụng trần lãi suất huy động đã giúp giảm động cơ cạnh
tranh không lành mạnh giữa các TCTD, hỗ trợ siết chặt kỷ luật thị trường. Trong khi đó,
việc quy định trần lãi suất cho vay, đặc biệt đối với lĩnh vực ưu tiên, góp phần gia tăng cơ
hội tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp.
Bên cạnh những ứng biến linh hoạt trong việc sử dụng công cụ trần lãi suất, các mức lãi
suất chính sách cũng có những bước chuyển biến căn bản theo hướng chủ động, dẫn dắt
thị trường và được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và tiền
tệ trong từng thời kỳ. Điều này đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công
nhiệm vụ giảm mặt bằng lãi suất để tháo gỡ khó khăn về chi phí vay vốn cho doanh
nghiệp, nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ.
- Điều hành tỷ giá ổn định, hỗ trợ tích cực cho cơng tác kiểm soát, kiềm chế lạm phát
Ngày 11/2/2011, NHNN tiếp tục điều chỉnh tỉ giá bình quân liên ngân hàng lên 20.693
VND, tăng 9,3% so với mức 18.932 VND trước đó, đồng thời, thu hẹp biên độ giao dịch
từ ±3% xuống ±1%; thu hẹp đối tượng cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng (TCTD) đối
với khách hàng vay là người cư trú
NHNN ban hành hàng loạt văn bản qui định giảm trần lãi suất huy động USD từ 6%/năm
xuống 2%/năm; điều chỉnh tăng dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ đối với các TCTD thêm
2% lên 6%; mở rộng đối tượng doanh nghiệp Nhà nước thực hiện bán ngoại tệ cho các
TCTD; chuyển dần quan hệ huy động-cho vay ngoại tệ trong nước của TCTD sang quan
hệ mua bán ngoại tệ và xử lý các giao dịch ngoại tệ bất hợp pháp trên thị trường tự do.
Với những biện pháp quyết liệt của NHNN nêu trên, thị trường ngoại tệ đã ổn định dần,
căng thẳng tỉ giá bị đẩy lùi.
Cuối năm 2011, tỉ giá chính thức chỉ tăng 10,01% so với cùng kỳ năm trước và
đứng ở mức 20.828 VND, tỉ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại (NHTM) tương
đối ổn định và nằm trong biên độ cho phép, trạng thái ngoại hối của các NHTM được cải
thiện; tỉ lệ nhập siêu giảm mạnh và chỉ bằng 10,4% giá trị xuất khẩu, thấp hơn nhiều so
với con số 18% đề ra, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư khoảng 3,1 tỉ USD, so với
mức thâm hụt 3,07 tỉ USD vào năm 2010.
Phát huy kết quả đã đạt được, NHNN đặt mục tiêu không điều chỉnh tỉ giá quá 2-3%
trong năm 2012.

Để hạn chế "đôla hóa" trong nền kinh tế và kiểm sốt tăng trưởng tín dụng ngoại
tệ ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường ngoại hối, NHNN đã ban hành Thông tư số
03/TT-NHNN ngày 08/3/2012 thu hẹp các trường hợp được vay vốn bằng ngoại tệ. Theo
đó, khách hàng chỉ được vay ngoại tệ nếu có đủ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản xuất
kinh doanh để trả nợ vay, những trường hợp khác phải có sự chấp thuận bằng văn bản của
NHNN.

11


Đến cuối năm 2012, tỉ giá và thị trường ngoại hối tiếp tục ổn định, giá USD mua
vào tại các NHTM giảm trung bình 1% so với cuối năm 2011, chênh lệch tỉ giá chính
thức và tỉ giá trên thị trường tự do được thu hẹp, tỉ lệ đơla hóa (tiền gửi ngoại tệ trong
tổng phương tiện thanh toán giảm xuống 13,2% từ mức 15,8% vào cuối năm 2011). Các
tổ chức kinh tế và cá nhân đẩy mạnh bán ngoại tệ cho các NHTM, tạo điều kiện để
NHNN mua một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.
Bước sang năm 2013, NHNN tiếp tục quản lý thị trường ngoại hối và điều hành tỉ
giá chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mơ và cán cân thanh tốn
quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và chống đơla hóa. Nhờ
đó, thị trường ngoại tệ 8 tháng đầu năm giữ được sự ổn định, tỉ giá dao động trong biên
độ cho phép.
Tóm lại, trong 2 năm qua, các giải pháp của NHNN về điều hành tỉ giá đã góp
phần rất quan trọng trong việc ổn định thị trường ngoại tệ và tăng dự trữ ngoại hối Nhà
nước.
Từ giữa năm 2012, cán cân thương mại của Việt Nam đã được cải thiện theo
hướng giảm nhanh tình trạng nhập siêu, riêng giá trị xuất siêu trong tháng 8/2013 đạt 600
triệu USD, qui mô dự trữ ngoại hối có thời điểm đã đạt 2,8 tháng nhập khẩu, trong khi
thông lệ quốc tế là 12 tuần nhập khẩu.
Hàng năm, NHNN đã chủ động công bố định hướng điều hành tỷ giá giao động
trong khoảng 1%-3% mỗi năm (mức điều chỉnh không quá 1% trong các tháng cuối năm

2011, không quá 2%-3% trong năm 2012 và 2013; không quá 1%-2% trong năm 2014,
không quá 2% trong năm 2015) nhằm tăng cường tính minh bạch, định hướng thị trường,
đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh
doanh. Tần suất điều chỉnh tỷ giá cũng giảm dần so với giai đoạn trước. Sau lần điều
chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 9,3%/năm vào giữa tháng 2/2011 (trong bối
cảnh thị trường ngoại tệ căng thẳng kéo dài do tác động của giá vàng thế giới và lạm phát
tăng cao), mỗi năm tiếp theo tỷ giá được điều chỉnh tăng nhẹ qua các năm (1%-2%/năm),
ngoại trừ năm 2015 sau sự kiện phá giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc và kỳ vọng
điều chỉnh tăng lãi suất điều hành của Fed.
Trong quá trình điều hành, bên cạnh các biện pháp trực tiếp như cơng bố tỷ giá
giao dịch bình qn liên ngân hàng, các kỹ thuật can thiệp thị trường, NHNN đã chủ
động phối hợp đồng bộ với các công cụ điều tiết tiền tệ để hạn chế tối đa các áp lực tác
động đến ổn định của tỷ giá. Theo đó, NHNN đã chú trọng điều hành công cụ lãi suất,
gồm cả lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ phù hợp với diễn biến của kinh tế vĩ mô, đảm
bảo lợi ích nắm giữ đồng nội tệ, khuyến khích cơng chúng chuyển từ nắm giữ USD sang
VND.

12


Ngồi ra, NHNN cũng tích cực sử dụng cơng cụ nghiệp vụ thị trường mở (OMO)
trong việc điều tiết mức cung tiền một cách nhịp nhàng để hỗ trợ và đảm bảo thanh khoản
hợp lý, nhằm hạn chế sự dịch chuyển của dòng tiền, đặc biệt vào thời điểm tỷ giá có biến
động và thanh khoản hệ thống dư thừa.
- Tăng cường vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh và đầu tư vàng, tạo
điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt
NHNN đã nỗ lực trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý điều tiết hoạt động kinh doanh
và đầu tư vàng, trong đó ghi dấu ấn quan trọng nhất là việc tham mưu cho Chính phủ ban
hành khuôn khổ pháp lý mới về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định
24/2012/NĐ-CP, ngày 03/04/2012 để thay thế Nghị định 174 về quản lý thị trường vàng).

Nghị định 24 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý mới nhằm tổ chức, sắp xếp lại thị trường
vàng, giao cho NHNN cấp phép đối với hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; tổ
chức sản xuất vàng miếng; tổ chức xuất khẩu vàng nguyên liệu, nhập khẩu vàng nguyên
liệu để sản xuất vàng miếng và tổ chức huy động và mua, bán vàng miếng.
Biểu đồ 1 : Đồ thị diễn biến giá vàng trong nước và giá vàng thế giới giai đoạn 20112015

Những thay đổi về mặt pháp lý như trên đã đáp ứng sự thay đổi của thực tiễn, tăng
cường hiệu quả quản lý nhà nước, hạn chế tác động bất lợi của hoạt động kinh doanh
vàng đến CSTT, tỷ giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và đó cũng chính
là bước tiến quan trọng trong lộ trình chống vàng hóa trong nền kinh tế.
Trên cơ sở pháp lý mới ban hành, NHNN cũng đẩy nhanh việc chuyển quan hệ huy độngcho vay vàng sang quan hệ mua, bán vàng trên thị trường, đấu thầu vàng thông qua việc
chỉ đạo đẩy nhanh việc tất toán số dư huy động vàng và giảm số dư cho vay vốn bằng
vàng; giám sát chặt chẽ việc TCTD thực hiện lộ trình tất tốn số dư cho vay vốn bằng
vàng. Nhờ vậy, thị trường vàng ngày càng đi vào ổn định, tự điều tiết theo quy luật cung
cầu; khơng cịn các “cơn sốt” vàng gây bất ổn kinh tế ngay cả khi giá vàng thế giới có

13


biến động, tình trạng “vàng hóa” từng bước được ngăn chặn, qua đó góp phần ổn định thị
trường ngoại hối và kinh tế vĩ mô.
Đến tháng 4/2015, các TCTD đã giảm dần số dư cho vay bằng vàng, dư nợ cho vay vàng
của toàn hệ thống (giảm 90% so với ngày 30/4/2012). Điều đó đã loại bỏ tồn bộ rủi ro
liên quan đến sự biến động giá vàng và chấm dứt tình trạng vàng hóa trong hệ thống
TCTD.
- Chính sách tín dụng theo hướng tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất, kinh doanh,
hỗ trợ đắc lực chuyển dịch cơ cấu và chuyển đổi mơ hình tăng trưởng
Trong vịng 2 năm 2010, 2011, trước hai thách thức lớn của nền kinh tế là lạm phát cao
và khu vực sản xuất gặp nhiều khó khăn, NHNN đã mạnh dạn áp dụng cơ chế điều hành
mới là xây dựng và công bố chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm thay cho việc các

TCTD sẽ tự quyết trong giai đoạn trước. Cơ chế quản lý này đã góp phần kiểm sốt mức
tăng trưởng tín dụng phù hợp với quản lý kinh tế vĩ mơ, hỗ trợ tích cực cho mục tiêu
kiềm chế và kiểm sốt lạm phát. Đồng thời, chính sách này cũng phù hợp với năng lực
của từng TCTD để vừa có thể đảm bảo an tồn của hệ thống các TCTD, vừa từng bước
tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Để có thể tập trung vốn cho những khu vực quan trọng, hạn chế vốn chảy vào các
khu vực “bong bóng”, NHNN đã thay đổi và có cách tiếp cận mới đối với thị trường tín
dụng. Cụ thể, NHNN đã quy định rõ những lĩnh vực khơng khuyến khích và các lĩnh vực
ưu tiên để các TCTD chủ động kế hoạch cung ứng vốn cho phù hợp. Đó là việc đưa lĩnh
vực bất động sản và cho vay tiêu dùng ra khỏi danh mục của nhóm lĩnh vực khơng
khuyến khích. Điều này tạo cơ sở quan trọng để phục hồi thị trường bất động sản, là
“phao cứu trợ” cho các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất liên quan đến
bất động sản và làm hồi sinh trở lại dòng vốn của ngân hàng vào khu vực này.
Ngoài ra, NHNN cũng định hướng các TCTD xây dựng chính sách phải hướng tới khách
hàng của mình nhiều hơn, phải có các chính sách tín dụng mang tính tổng thể, phù hợp
với từng lĩnh vực ngành nghề sản xuất. Chính vì thế, giai đoạn vừa qua đã chứng kiến sự
ra đời của nhiều chính sách tín dụng mang tính đặc thù, như “gói” tín dụng cho vay hỗ
trợ nhà ở theo Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ; chính sách tín dụng đặc thù đối với
các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ lực của nền kinh tế hoặc có liên quan đến đời sống của
người dân (chương trình cho vay tạm trữ lúa gạo, chương trình cho vay theo vụ mùa,
chương trình tín dụng dành cho cá tra, tôm, cho vay tái canh cây cà phê giai đoạn 2014–
2020; cho vay đóng mới và nâng cấp tàu khai thác hải sản xa bờ,…); triển khai chương
trình thí điểm cho vay đối với mơ hình liên kết, ứng dụng cơng nghệ cao trong nơng
nghiệp...
Ngồi ra, để tháo gỡ khó khăn cho khu vực sản xuất kinh doanh, NHNN đã chỉ đạo
các TCTD xem xét cơ cấu lại nợ, miễn giảm lãi suất cho khách hàng, tiếp tục cho vay

14



mới để có vốn tiếp tục sản xuất, vượt qua khó khăn. Đây là những hỗ trợ hết sức cần thiết
và kịp thời để giúp doanh nghiệp giảm áp lực trả nợ và có nguồn lực tài chính cho chu kỳ
sản xuất mới.
1.2 Thành tựu
Với các giải pháp điều hành tiền tệ thận trọng, linh hoạt và có nhiều đổi mới sáng tạo,
chính sách của NHNN đã truyền dẫn hiệu quả đến nền kinh tế. Kết quả đó được thể hiện
rõ nét qua từng năm với những dấu ấn đáng ghi nhận, cụ thể:
- Tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, giảm đều và hiện đang ở mức thấp
Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011 đã giảm xuống và diễn biến ổn
định cho tới nay. Cụ thể, từ mức đỉnh 18,13% năm 2011 xuống còn 6,81% năm 2012,
6,04% năm 2013 và dưới 2% giai đoạn 2014-2015. Ngồi ra, tăng trưởng cung tiền và tín
dụng kể từ năm 2012 đến nay không tạo áp lực tăng lạm phát như những thời kỳ trước đó
do đã được tập trung hướng vào các lĩnh vực sản xuất trọng tâm của nền kinh tế.
- Lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực sản xuất
Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn bằng khoảng
47% so với cuối năm 2011 và tương đương mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006 (giai
đoạn kinh tế phát triển ổn định), góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn vay của doanh nghiệp
và hộ dân. Với những nỗ lực trong công tác điều hành lãi suất, chỉ trong thời gian ngắn,
lãi suất cho vay đã giảm hơn một nửa, từ 20%/năm (thậm chí 24%/năm) xuống chỉ cịn
9%-11% và cịn khoảng 6,5%/năm đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Bên cạnh các khoản vay mới với lãi suất thấp, NHNN cũng yêu cầu các TCTD
đưa lãi suất của các khoản vay cũ về mức 15%/năm và sau đó là 13%/năm, góp phần tháo
gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và tạo điều kiện giải phóng kênh tín dụng.
Bên cạnh đó, lãi suất cho vay USD cũng được điều hành giảm ổn định theo hướng không
để tồn tại khoảng cách chênh lệch đáng kể với lãi suất cho vay VND, hiện lãi suất cho
vay USD ngắn hạn ở mức 3%-5,5% và dài hạn từ 5,5%-6,7%.
Có thể nói, với mặt bằng lãi suất hiện nay đã góp phần làm giảm giá thành sản phẩm,
tăng thêm khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường và bước
đầu đã tháo gỡ hàng tồn kho để chuẩn bị chu kỳ sản xuất mới.
- Tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành, phù hợp với tốc độ tăng

trưởng kinh tế hàng năm.
Nếu như trong năm 2011, NHNN phải nhanh chóng áp dụng các chính sách chặt chẽ để
kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức cao trên 30% xuống cịn trên 14% để hỗ trợ
cơng tác kiểm sốt lạm phát, thì ngay trong năm 2012 khi tăng trưởng tín dụng có dấu
hiệu "ngưng trệ" ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, NHNN đã nhanh chóng thay đổi mục
tiêu điều hành theo hướng tăng trưởng tín dụng nhưng thận trọng. Điều này nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, song phải theo nguyên tắc đảm bảo chất lượng tín dụng,

15


hạn chế phân bổ vốn vào khu vực không khuyến khích có nguy cơ gây ra lạm phát cao và
tăng trưởng thiếu bền vững trong tương lai. Nhờ đó, tăng trưởng tín dụng đã có sự phục
hồi qua các năm, cụ thể: năm 2012 là 8,85%; năm 2013 là 12,51%; năm 2014 là 14,16%;
6 tháng đầu năm 2015 tăng 7,83%. Trong giai đoạn này, tín dụng tăng bình qn khoảng
13%/năm, thấp hơn so với mức tăng bình quân 33,3%/năm giai đoạn 2006-2010, nhưng
tăng trưởng kinh tế vẫn đạt mức hợp lý.
Ngồi ra, cơ cấu tín dụng có sự chuyển hướng tích cực sang các lĩnh vực ưu tiên
theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng tín dụng trong các lĩnh vực ưu tiên
trong giai đoạn 2012–2015 nhìn chung cao hơn so với tốc độ tăng trưởng chung của tồn
ngành, như: nơng nghiệp nơng thơn có tốc độ tăng trưởng bình qn tín dụng giai đoạn
2011–2014 đạt 15%/năm; Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, tăng trên 20%/năm;
Công nghiệp ưu tiên phát triển tốc độ, tăng xấp xỉ 12%. Sự chuyển hướng tích cực của cơ
cấu tín dụng như vậy đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu đổi mới mơ
hình tăng trưởng kinh tế .
Biểu đồ 2: Diễn biến tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2011-2015

- Tỷ giá và thị trường ngoại hối ổn định góp phần cải thiện cán cân thanh tốn tổng thể,
tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam, hỗ trợ tích cực cho
lộ trình chống đơ la hóa

Nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp pháp của doanh nghiệp và cá nhân được các TCTD
đáp ứng đầy đủ do các nguồn ngoại tệ được tập trung vào hệ thống các TCTD. Nếu như
trước đây tỷ giá thường xuyên biến động, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, thì từ cuối năm 2011 đến nay, điều hành tỷ giá đã luôn nằm
trong định hướng chỉ đạo của NHNN. Chênh lệch tỷ giá của thị chính thức và thị trường
tự do thu hẹp đáng kể. Trong diễn biến của thị trường, những xáo trộn xuất hiện chủ yếu
do yếu tố tâm lý và đã nhanh chóng ổn định sau các biện pháp đồng bộ của NHNN, vị thế
và lòng tin vào đồng Việt Nam ngày càng được củng cố.

16


Đáng kể là tình trạng đơ la hóa đã giảm mạnh, tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ/tổng
phương tiện thanh toán giảm từ trên 30% trong những năm 1990 xuống 15,8% cuối năm
2011, đến nay còn khoảng 12%; Cán cân thanh toán tổng thể, đặc biệt là các cân thương
mại đã thặng dư trở lại sau nhiều năm nhập siêu; Lượng kiều hối gia tăng mạnh trở lại từ
cuối năm 2011; Dự trữ ngoại hối nhà nước gia tăng; NHNN đã mua được một lượng lớn
ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, góp phần tăng tiềm lực tài chính và uy tín
của quốc gia trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, diễn biến lạm phát có xu hướng giảm tốc
đã giúp ổn định tâm lý thị trường, kỳ vọng về sự giảm giá VND được hạn chế, khắc phục
phần nào hiện tượng găm giữ đầu cơ ngoại tệ trong giai đoạn trước.
- Lượng tiền cung ứng tiền tiếp tục được điều hành phù hợp theo mục tiêu hỗ trợ ổn định
tỷ giá và thị trường ngoại hối, kiểm sốt lạm phát nhưng vẫn đảm bảo hài hịa với các
mục tiêu giảm lãi suất, tăng tín dụng hợp lý, hỗ trợ các TCTD đầu tư trái phiếu Chính phủ
và xử lý nợ xấu: Tổng phương tiện thanh toán đến ngày 21/12/2015 tăng 13,55% so với
cuối năm trước, phù hợp với kinh tế vĩ mô, tiền tệ và các giải pháp điều hành của NHNN.
Mặt bằng lãi suất giảm nhưng huy động vốn vẫn tăng (đến ngày 21/12/2015, huy động
vốn tăng 13,59% so với cuối năm trước) tạo điều kiện cho các TCTD cung ứng vốn tín
dụng cho nền kinh tế.
- Thanh khoản VND của hệ thống các TCTD tiếp tục được đảm bảo và có dư thừa, sẵn

sàng đáp ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, thị trường tiền tệ ổn định, thông suốt nhờ thực
hiện đồng bộ các giải pháp cung ứng tiền, phối hợp công cụ hỗ trợ thanh khoản cho các
TCTD, các TCTD tăng cường xử lý nợ xấu, cơ cấu lại tài sản, chú trọng hơn trong quản
trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn hệ thống.
- Thị trường vàng trong nước diễn biến ổn định, cung-cầu trên thị trường tương đối cân
bằng giá vàng trong nước khơng cịn bị tác động bởi các nhân tố như sự biến động của
giá vàng thế giới và sự biến động tăng của tỷ giá USD/VND. Trong năm 2015, tại nhiều
thời điểm thị trường thế giới biến động đột biến nhưng thị trường vàng trong nước vẫn cơ
bản ổn định, cung cầu trên thị trường tương đối cân bằng.
Thị trường vàng tự điều tiết theo quy luật cung cầu, NHNN không phải sử dụng ngoại tệ
để nhập khẩu vàng can thiệp, bình ổn thị trường vàng miếng, tình trạng vàng hóa tiếp tục
được ngăn chặn, góp phần ổn định tỷ giá, thị trường ngoại hối và ổn định kinh tế vĩ mô.

17


-Hoạt động thanh tốn khơng dùng tiền mặt và cơng nghệ, dịch vụ ngân hàng tiếp tục
được phát triển mạnh mẽ, đang dần đi vào cuộc sống, phù hợp với xu thế thanh toán của
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sau gần 4 năm triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD trong điều kiện nhiều yếu
tố không thuận lợi (kinh tế vĩ mô kém ổn định, tăng trưởng kinh tế chậm, thị trường bất
động sản trầm lắng, chậm phục hồi…), tuy nhiên với sự nỗ lực, quyết tâm của toàn ngành
Ngân hàng và hệ thống chính trị, về cơ bản mục tiêu Đề án 254 đã đạt được.
Sự an toàn, ổn định của hệ thống các TCTD đã được duy trì và cải thiện cơ bản đã và
đang thực hiện các bước cơ cấu toàn diện các NHTM yếu kém đã được, giảm dần, kiểm
sốt tình hình hoạt động theo hướng cải thiện hơn. Kết quả cơ cấu lại các TCTD đạt được
rõ nét đã ổn định tâm lý người gửi tiền, nhà đầu tư; nhân dân tin tưởng vào chủ trương,
chính sách, biện pháp cơ cấu lại các TCTD của Nhà nước.
Các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát huy tác dụng (đặc biệt là thơng qua VAMC) góp phần
quan trọng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ. Đến

30/11/2015, khoảng 99,6% nợ xấu của các TCTD ước tính tại thời điểm cuối tháng
9/2012 đã được xử lý và chất lượng tín dụng được cải thiện. Đến 30/11/2015, nợ xấu toàn
hệ thống đã được đưa về mức 2,72%, hoàn thành mục tiêu đề ra 3%.
Với việc áp dụng đầy đủ chuẩn mực mới về phân loại nợ, từ Q I/2015 khơng cịn tồn
tại 2 số liệu nợ xấu (số liệu theo báo cáo của TCTD và số liệu theo kết quả giám sát của
NHNN) và nợ xấu của các TCTD đã được minh bạch hơn. Cùng với việc tích cực triển
khai các giải pháp cơ cấu lại các TCTD, kết quả xử lý nợ xấu đạt được đã góp phần quan
trọng cải thiện thanh khoản, giảm mặt bằng lãi suất, mở rộng khả năng tăng trưởng tín
dụng nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế.
Những kết quả đạt được cho thấy năm 2015 tiếp tục là một năm thành công trong việc
điều hành CSTT. Từ đó, CSTT đã có đóng góp quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh
tế vĩ mơ, lạm phát cả năm ở mức thấp khoảng 1- 2%, đánh dấu thời kỳ ổn định lạm phát

18


dài nhất trong một thập kỷ qua, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đạt trên 6,5% là mức
cao nhất trong 5 năm gần đây.
1.3 Thách thức

- Rủi ro địa chính trị, tài chính toàn cầu, chính sách điều hành của NH trung ương các
nước lớn tác động lan tỏa dễ gây tổn thương tới hệ thống tài chính Viêt Nam, áp lực lớn
cho thiết kế điều hành chính sách tiền tệ.
- Quy mơ tài chính, chất lượng tài sản, chất lượng quản trị công ty của các NHTM Việt
Nam còn hạn chế trong khi hội nhập càng sâu rộng.
- Áp lực về nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh
Xét về trong nước, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về kinh tế vĩ mô giai đoạn
2011 - 2015 nhưng hoạt động điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng vẫn đối mặt với
thách thức. Trong đó, hệ thống ngân hàng tiếp tục chịu áp lực về nhu cầu vốn cho sản

xuất kinh doanh, áp lực tâm lý trên thị trường ngoại hối và tác động của thị trường trái
phiếu đến xu hướng lãi suất.
Hiện tại, nguồn vốn phục vụ kinh doanh phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn của ngân
hàng, đây là thách thức của điều hành. Bởi vì NHNN thấy, đối với NHTM, việc cân đối
nguồn vốn và cơ cấu nguồn, nhất là vốn trung - dài hạn là lớn với áp lực về vốn, hiện nay
thị trường tài chính của Việt Nam vẫn cịn yếu, chưa phát triển nên khó đáp ứng được nhu
cầu vốn của thị trường. Việc phát triển thị trường tài chính đang được các cơ quan chức
năng có liên quan thúc đẩy trong thời gian tới. Nên trước mắt, nhu cầu vốn của doanh
nghiệp vẫn chưa thể đáp ứng được và hệ thống ngân hàng vẫn phải chịu áp lực này của
thị trường.
-

Yêu cầu TCTD báo cáo trạng thái ngoại tệ thường xuyên, bài toán tỉ giá và lãi
suất VND lãi suất USD sẽ chịu nhiều áp lực.

Về áp lực tâm lý thị trường đối với điều hành tỷ giá, thị trường trong nước chịu nhiều
tác động từ thị trường thế giới.
Quan điểm điều hành của NHNN là giảm tình trạng đơ la hóa trong nền kinh tế đồng thời
nâng cao vị thế tiền VND. Tuy nhiên, thị trường vẫn chịu nhiều tác động từ thị trường thế
giới. Diễn biến kinh tế thế giới vừa qua, nếu khơng có sự chủ động linh hoạt của các bộ
ban ngành thì tâm lý nặng nề trong nước sẽ không được giải tỏa.
Trong thời gian tới thị trường thế giới vẫn sẽ luôn biến động và khó lường, điều
hành sẽ tác động mạnh tới tâm lý thị trường.
Chúng ta chứng kiến năm 2015 với những biến động quá lớn và tác động mạnh tới tâm lý
thị trường trong nước. Ví dụ như trường hợp Fed tăng lãi suất. Điều này đã được Fed đưa
ra thông điệp từ cuối năm 2014, tuy nhiên cơ quan này đã trì hỗn rất lâu và cuối năm

19



nay mới điều chỉnh. Trong khi giá đã được phản ánh rồi nhưng thị trường vẫn kỳ vọng,
tâm lý thị trường bị tác động mạnh bởi quyết định này.
Hay như đồng Nhân dân tệ mất giá và vào giỏ tiền tệ IMF cũng vậy. NHNN đã điều
chỉnh rồi nhưng tâm lý thị trường vẫn kỳ vọng. Những diễn biến tâm lý này sẽ thách thức
của NHNN trong điều hành tỷ giá năm 2016.
Hiện trong hoạt động của hệ thống ngân hàng vẫn còn sản phẩm huy động và cho vay
ngoại tệ, nên nếu vấn đề tâm lý không được giải tỏa thì việc điều hành tỷ giá trong năm
tới sẽ khó khăn.
-

Dư địa hạ lãi suất phụ thuộc vào lạm phát

Đó là những áp lực tới lãi suất ,với nội tại của nền kinh tế hiện nay thì tình hình tài chính
vẫn là chủ yếu từ hệ thống ngân hàng.
“Hiện ngân hàng thương mại là nhà đầu tư lớn nắm giữ nhiều trái phiếu Chính phủ, nên
vẫn là áp lực đối với hệ thống. Do vậy, điều này sẽ tác động tới lãi suất và đây cũng là
thách thức của NHNN”
Mặc dù năm 2015 lạm phát thấp, chỉ ở mức 1% và là dư địa tốt để giảm lãi suất một cách
tích cực nhưng chúng ta khơng thể chủ quan với lạm phát, lạm phát năm 2015 của các
nước trên thế giới không phải là xu hướng giảm. Việc lạm phát thấp có nhiều yếu tố tác
động, trong đó tác động mạnh nhất là giá dầu giảm tới mức kỷ lục. Nên lạm phát thấp của
các nước trên thế giới không phản ánh về giảm phát và cần phải hiểu như vậy để đánh giá
đầy đủ hơn về lạm phát
2. Giải pháp
Những kết quả từ điều hành của NHNN trong 5 năm qua là rất tích cực. Song trong
giai đoạn tới, diễn biến của kinh tế quốc tế và trong nước còn chưa ổn định, được dự báo
sẽ phức tạp hơn và rất khó lường. Để có thể bảo vệ được các thành quả đã tạo dựng, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững phù hợp các mục tiêu vĩ mô đề ra trong giai đoạn 20162020, NHNN nên tập trung vào một số giải pháp sau:
- Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện điều hành CSTT.
Cần linh hoạt và kết hợp đồng bộ các công cụ CSTT, sử dụng có hiệu quả các cơng cụ

điều hành gián tiếp, phù hợp với sự phát triển của thị trường; hồn thiện chính sách lãi
suất, điều hành hiệu quả lãi suất thị trường hướng tới thực hiện mục tiêu của CSTT. Tăng
cường phối hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mơ khác,
điều phối có hiệu quả các dịng ln chuyển tiền tệ phục vụ đắc lực cho mọi hoạt động
trong nền kinh tế.
- Thứ hai, điều hành linh hoạt tỷ giá, ổn định thị trường ngoại hối, thị trường vàng.
Tỷ giá cần tiếp tục duy trì điều hành theo hướng chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ
với chính sách lãi suất, theo sát tín hiệu thị trường, phù hợp với cung-cầu ngoại tệ và diễn

20


biến kinh tế vĩ mô nhằm nâng cao vị thế đồng Việt Nam, tăng dự trữ ngoại hối, cải thiện
cán cân thanh toán. Thu hẹp phạm vi sử dụng ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam và giảm
dần tình trạng đơ la hóa, tiến tới thực hiện ngun tắc trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng
đồng Việt Nam. Tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vàng, tiếp tục triển khai các
giải pháp thực hiện lộ trình chống vàng hóa trong nền kinh tế, tiến tới huy động nguồn
lực vàng trong dân để phục vụ cho phát triển kinh tế.
- Thứ ba, duy trì mức tăng trưởng tín dụng hợp lý để góp phần thực hiện mục tiêu kiểm
sốt lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao chất lượng tín dụng và giảm nợ xấu.
Tiếp tục triển khai các giải pháp tín dụng theo hướng tháo gỡ khó khăn, đảm bảo cung
ứng vốn cho những ngành quan trọng. Khuyến khích phát triển đa dạng các hình thức huy
động vốn và các sản phẩm tín dụng, tạo mơi trường thuận lợi để các TCTD phát triển các
dịch vụ mới, các cơng cụ phịng ngừa rủi ro, hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng hoạt động.
- Thứ tư, hoàn thiện thể chế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho NHNN thực
hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra.
Hồn thiện khn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để hỗ trợ tái cơ cấu, xử lý
nợ xấu và tạo cơ sở cho TCTD hoạt động lành mạnh; hoàn thiện quy định pháp lý đối với
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; hoàn thiện khung pháp lý về an toàn của các
TCTD...

- Thứ năm, nâng cao chất lượng của hệ thống thông tin thống kê và dự báo.
Đây là giải pháp quan trọng phục vụ đắc lực hơn cho công tác điều hành CSTT, hoạt
động ngân hàng của NHNN và công tác quản lý của các NHTM, dần bắt kịp với sự tiến
bộ của hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực châu Á.
3. Thị trường tiền tệ Trung Quốc dưới sự tổ chức điều hành của Ngân Hàng nhân
dân Trung Hoa
Năm 2011, Trung Quốc có một bước đi quyết đốn nhằm hỗ trợ tăng trưởng bằng
cách cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong các NHTM , lần đầu tiên sau 3 năm. Ngày
30/11, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) đã tuyên bố cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc 0,5 điểm phần trăm, xuống còn 21% cho các ngân hàng thương mại lớn, áp dụng từ
ngày 5/12. Đây là lần cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đầu tiên của PBoC kể từ tháng
12/2008 và sẽ giúp “giải phóng” 390 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 61 tỷ USD, vốn tín
dụng để các nhà băng được phép cho vay. Nhiều chuyên gia nhận định, Trung Quốc đã
đặt tăng trưởng kinh tế lên vị trí ưu tiên hàng đầu, thay cho mục tiêu chống lạm phát như
trước, bất chấp rủi ro bong bóng bất động sản có thể hình thành trở lại.
“Đây là một động thái quan trọng, cho thấy Trung Quốc đang chuyển hướng sang nới
lỏng”, chuyên gia kinh tế Stephen Green thuộc ngân hàng Standard Chartered nói với báo
Wall Street Journal.

21


Với việc chuyển hướng chính sách tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng, cuộc chiến hạ
sốt giá nhà ở Trung Quốc sẽ trở nên khó khăn hơn trong thời gian tới. Thách thức của Bắc
Kinh sẽ nằm ở chỗ, làm thế nào để tập trung nguồn vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, thay vì cho vay các dự án bất động sản cao cấp. Cho tới thời điểm đó Trung Quốc
vẫn chỉ thực hiện chính sách nới lỏng có mục tiêu để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
“đói” vốn, chẳng hạn hỗ trợ các doanh nghiệp ở một số khu vực như Ôn Châu, Triết
Giang…
Trong năm 2012, NHTW Trung Quốc tái khẳng định sẽ tiếp tục duy trì chính sách

tài chính linh hoạt và chính sách tiền tệ thận trọng. Trong thông báo đưa ra sau khi công
bố các số liệu phát triển kinh tế 6 tháng đầu năm, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
nhấn mạnh nền kinh tế nước này đang đối mặt với những diễn biến phức tạp cả ở trong
và ngoài nước, các quyết định kinh tế vĩ mơ của chính phủ ngày càng chịu nhiều tác
động, đặc biệt sức ép từ việc kinh tế tăng trưởng chậm lại và sự sụt giảm lợi nhuận của
một số tập đoàn kinh tế lớn.Do đó, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc sẽ tiếp tục điều
chỉnh tỷ lệ lãi suất và lập hệ thống lãi suất cơ bản thả nổi theo thị trường. Bên cạnh đó,
Trung Quốc cũng cải thiện cơ chế xác lập tỷ giá hối đối cho đồng Nhân dân tệ (NDT),
duy trì sự ổn định của đồng NDT, mở rộng diện thanh toán bằng NDT trong các hoạt
động thương mại và đầu tư ở nước ngoài, thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển để tăng thêm
nhu cầu và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ. Ngày 13/7, Tổng Cục Thống kê Quốc
gia Trung Quốc (NBS) công bố số liệu cho thấy trong nửa đầu năm 2012, Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nước này chỉ đạt khoảng 3.604 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ
năm ngoái và là mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Riêng quý II năm nay, GDP của
Trung Quốc tăng 7,6%, thấp hơn mức 8,1% của quý I, nguyên nhân do sự sụt giảm các
dự án đầu tư và tình trạng xuất khẩu ảm đạm.
Thời gian qua, chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách nới lỏng kiểm sốt tín
dụng để thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế vốn đang có xu hướng chậm lại. Tuy nhiên,
điều này đã tạo nên lo ngại về khả năng tăng trưởng tín dụng quá nhanh sẽ dẫn đến lạm
phát.Trước đó, để ổn định tốc độ phát triển kinh tế, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
đã thông báo cắt giảm lãi suất cơ bản lần thứ hai chỉ trong vòng một tháng.
Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc đã bắt tay thực hiện chương trình cải cách sâu
rộng, điều chỉnh kết cấu, chuyển đổi, nâng cấp kết cấu kinh tế và phương thức phát triển
sau hơn 30 năm cải cách mở cửa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Chương trình này được triển khai dựa trên chính sách kinh tế mới - thường được
xem là học thuyết kinh tế mới (Likonomics) của Tân thủ tướng Lý Khắc Cường với trọng

22



tâm là ổn định tăng trưởng, điều chỉnh kết cấu thúc đẩy cải cách để có thể giải quyết được
tận gốc những vấn đề tồn tại của kinh tế Trung Quốc trong hơn 3 thập kỷ vừa qua.
Và định hướng chính sách này đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hoạch định
điều hành CSTT của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) trong thời điểm hiện nay.
Trong đó đáng chú ý là những định hướng cải cách khu vực ngân hàng như sau: Khơng
theo đuổi kích thích CSTT hay tài khóa nới lỏng; Các ngân hàng phải kìm hãm sự gia
tăng nguy hiểm tài chính bằng cách giảm cung tiền và nợ xấu; Nhấn mạnh sự cần thiết
phải tái cấu trúc nền kinh tế, từ thả nổi lãi suất đến tăng độ linh hoạt của giá cả.
Trên cơ sở đó, quan điểm điều hành của Trung Quốc hiện nay là tạo ra sự cân bằng
giữa tăng trưởng và cải cách, vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng để không dẫn đến
những rối loạn xã hội trong ngắn hạn, vừa đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, không phụ
thuộc vào sự gia tăng nóng của tín dụng trong dài hạn.
Biểu đồ 3: Tỷ lệ lãi suất cho vay thực tế tại Trung Quốc

Chính vì vậy bước sang năm 2015, tất cả các mục tiêu kinh tế được Quốc hội
thông qua đều đặt ở mức thấp hơn so với năm ngoái (mục tiêu tăng trưởng là 7% - 7,5%;
mục tiêu tăng trưởng thương mại ở mức 6% so với mức 7,5%, lạm phát ở mức 1 – 2%,
tăng trưởng M2 khoảng 12%,…. Những định hướng phát triển này đã có ảnh hưởng
mạnh đến xu hướng điều hành CSTT của PBoC.
Theo đó, trong năm 2015, PBoC sẽ điều hành CSTT theo phương thức linh hoạt
hơn, để hỗ trợ tăng trưởng đạt được theo mục tiêu đề ra, ngăn chặn những rủi ro mà nền
kinh tế phải đối mặt trong bối cảnh suy giảm trên toàn cầu. Tuy nhiên sự linh hoạt phải
được thực hiện trên quan điểm thận trọng.
Trong thực tế, định hướng này được PBoC thực hiện thông qua việc bơm thanh
khoản qua OMO, hạ dự trữ bắt buộc, cắt giảm lãi suất, khuyến khích mở rộng cho vay
đối với khu vực tư nhân, lĩnh vực kinh doanh ưu tiên và cho vay mua nhà, nhưng đồng
thời cũng đưa ra những chính sách để kiểm sốt hoạt động tín dụng diễn ra trong năm
2014 và những tháng đầu năm 2015.

23



Ngay từ năm 2014, PBoC đã bắt đầu thay đổi quan điểm chính sách được duy trì
trong vịng 4 năm, đó là việc chuyển từ trạng thái thắt chặt (thắt chặt tín dụng để giảm
sức nóng trên thị trường bất động sản) sang nới lỏng từng bước thông qua việc cắt giảm
lãi suất tham chiếu vào cuối tháng 11/2014 (lần lượt là 25 điểm cơ bản đối với huy động
và 40 điểm cơ bản đối với lãi suất cho vay).
Quyết sách này, một mặt nhằm ngăn chặn sự phát triển của hệ thống ngân hàng
ngầm (Shadow banking), là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của nợ nần với lãi
suất cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng và thực hiện việc huy động và cho vay vốn
bất hợp pháp (tín dụng từ hệ thống này đã gia tăng nhanh chóng từ năm 2008 từ
27%/GDP lên 70%/GDP tương đương khoảng 36.000 tỷ NDT).
Mặt khác là để hỗ trợ, tạo sự chủ động cho thị trường tín dụng chính thức, khơng
để việc mở rộng tín dụng bị thu hẹp quá nhanh, đặc biệt là các khoản tín dụng dành cho
DNNVV. Ngoài ra, quyết định này cũng hướng tới việc cứu vãn sự yếu kém của thị
trường nhà ở đang cản trở tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc.
Tuy nhiên, bước sang năm 2015, các bước nới lỏng này chưa đủ mạnh để hỗ trợ cho tăng
trưởng kinh tế, vì thế để ngăn chặn diễn biến bất lợi trong quý I/2015, Trung Quốc tiếp
tục thực hiện các bước đi chính sách mới, tạo điều kiện hơn cho thị trường tín dụng và
cho việc mua bán nhà trở nên tốt hơn, can thiệp để hồi sinh thị trường tài sản.
Cụ thể là vào tháng 2/2015, PBoC đã hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0,5% cho tất cả các
loại hình TCTD và cắt giảm lãi suất tham chiếu đối với cả lãi suất huy động và cho vay
thêm 25 điểm cơ bản. Mới đây vào ngày 20/4, PBoC đã hạ tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm
một điểm phần trăm, đưa tỷ lệ này về mức 18,5%.
Bên cạnh đó, PBoC tích cực tham gia thực hiện các định hướng chính sách của Chính
phủ trong việc thiết lập đường cong lợi tức dựa trên cơ sở thị trường và tự do hóa lãi suất,
và là một trong những bước cơ bản để đưa nền kinh tế vận hành theo định hướng thị
trường nhiều hơn.
Cụ thể là việc nghiên cứu thông qua các quy định cho phép các ngân hàng tham
gia vào thị trường các sản phẩm phái sinh đối với các giao dịch tương lai các trái phiếu

nợ của Chính phủ với kỳ hạn 10 năm, chính thức niêm yết trái phiếu kỳ hạn 10 năm vào
ngày 21/3/2015, hay đề xuất các cơ chế chính sách liên quan đến bảo hiểm tiền gửi ngân
hàng…
Như vậy có thể nhận thấy rằng, các quyết sách tiền tệ của Trung Quốc luôn bám
sát chặt chẽ diễn biến của kinh tế vĩ mô đang thay đổi mạnh mẽ để có những bước điều
chỉnh thích hợp, tính linh hoạt của chính sách ln được hình thành trên nền tảng thận
trọng.
Bởi vì, các quyết sách của NHTW được đưa ra không bao giờ được thực hiện một cách
cô lập, các quyết định lớn như việc cắt giảm lãi suất phải được Hội đồng Chính phủ thơng

24


qua, và phải bám sát với diễn biến giảm của lạm phát nhằm điều chỉnh lãi suất vay thực
tế chứ khơng hồn tồn là tín hiệu nới lỏng.
Hay việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong thời gian gần đây là để duy trì tình trạng
thanh khoản ổn định trong hệ thống khi dòng vốn rút ra khỏi nền kinh tế đang có xu
hướng gia tăng.
Sự thận trọng trong các bước quyết sách tiền tệ linh hoạt của PBoC được xem là
rất có ý nghĩa trong cơng cuộc cải cách sâu, rộng tại Trung Quốc hiện nay. Các chính
sách sẽ đóng một vai trị quan trọng trong tiến trình điều chỉnh và được kỳ vọng là sẽ sớm
giúp giải quyết được những bất ổn trong hệ thống tài chính, từng bước hỗ trợ ngăn chặn
đà suy giảm của tăng trưởng kinh tế và áp lực giảm phát.
4. Bài học cho Việt Nam
Để tăng cường phạm vi, hiệu quả điều tiết và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn
NHTW đã đưa ra một số bài học để nâng cao vai trị của mình như:
Một là, cần kiên định mục tiêu đã đặt ra. Cuối năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị
quyết 11 với nhiều giải pháp đồng bộ, chỉ đạo quyết liệt các bộ, ban, ngành và đặc biệt là
NHNN đã rất kiên định trong việc thực hiện các mục tiêu. Đã có nhiều ý kiến chính sách
nên thay đổi nhưng NHNN rất kiên định trong việc kiểm soát lạm phát, giúp cho giá trị

VND tăng cao. Các tổ chức quốc tế đánh giá cao sự kiên định này của NHNN Việt Nam
bởi chính sách ln có độ trễ, nếu chính sách chưa phát huy mà đã thay đổi thì sẽ khơng
có kết quả bền vững.
Hai là sự phối kết hợp giữa các công cụ một cách đồng bộ, linh hoạt, đúng thời
điểm, chủ động dẫn dắt thị trường, nhờ đó đã nhận được sự đồng thuận và chia sẻ của các
chuyên gia trong việc tổ chức, sử dụng các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ. NHNN
lựa chọn công cụ hiệu quả để sử dụng phù hợp trong thực tiễn. Ví dụ, cũng có ý kiến tại
sao NHNN không sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nhưng NHNN cho rằng, nếu sử dụng
trong điều kiện thanh khoản ngân hàng đang trong giai đoạn tái cơ cấu thì có thể ảnh
hưởng. Vì vậy phải chọn cơng cụ phù hợp. Hay công cụ tái cấp vốn, không phải NHNN
không sử dụng mà do các TCTD quản trị tốt nên họ không đến NHTW vay để hỗ trợ
thanh khoản.
Ba là, trong điều hành chính sách tiền tệ khơng chủ quan với lạm phát, luôn nâng
cao vị thế của VND. Bên cạnh đó là sự kết hợp các cơng cụ của chính sách tiền tệ. Ví dụ

25


×