Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

đề cương định hướng giá trị và giáo dục GTS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.45 KB, 34 trang )

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁ TRỊ
1. Khái niệm giá trị dưới góc độ tiếp cận của các khoa học
Vào đầu thế kỷ XX, thuật ngữ giá trị đựoc sử dụng như một khái niệm
khoa học, và cho đến nay, khái niệm giá trị được hiểu theo nhiều cách khác
nhau và được nhiều ngành khoa học nghiên cứu.
- Trong Từ điển Triết học của Liên Xô, do M.M.Rozental chủ biên có
đưa ra định nghĩa về “giá trị”: “Giá trị - những định nghĩa về mặt xã hội của
các khách thể trong thế giới xung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc
tiêu cực của khách thể ấy đối với con người và xã hội: cái lợi, thiện và ác, cái
đẹp, cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên.
Xét bề ngoài, giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc của hiện tượng, tuy nhiên
chúng không phải là cái vốn do thiên nhiên ban cho sự vật hiện tượng, không
phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể
bị hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành những cái mang
những quan hệ xã hội nhất định. Đối với chủ thể (con người) các giá trị là
những đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì chúng đóng vai
trò những vật định hướng hàng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng
biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với các sự vật hiện tượng
xung quanh”. [ Từ điển Triết học, NXB Sự thật Hà Nội, 1986, tr207].
- Theo J.H.Fichter, nhà xã hội học Mỹ, tất cả những gì có lợi ích đáng
ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị.
[J.H.Fichter. Xã hội học, Hà Nội, 1973. tr 175].
- V.P. Tugarinov (Liên Xô), quan niệm giá trị là những khách thể,
những hiện tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiét cho
con người (lợi ích, hứng thú,…). Đó là con người của xã hội hay một giai cấp
nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ, với tư cách là phương tiện thoả mãn
những nhu cầu và những lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và
những ý định với phương tiện là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng. [ V.P.
Tugarinov, Lý luận giáo dục giá trị của chủ nghĩa Mác, Lêningrat, 1968,


tr11].
- Hiện nay, khái niệm giá trị được sử dụng rộng rãi trong nhiều bộ môn
khoa học xã hội và nhân văn khác nhau như triết học, xã hội học, tâm lý học,
đạo đức học, mỹ học… Trong mỗi bộ môn khoa học cụ thể, khái niệm giá trị
được biểu hiện với những nội dung rộng hẹp khác nhau. Hướng tiếp cận triết
học là phương hướng tối ưu để xác định nội dung khái niệm một cách khái
quát nhất.
- Từ góc độ kinh tế học, “giá trị” được quan niệm như là “vị trí” tương
đối của hàng hoá trong trao đổi. Vị trí càng cao thì giá trị càng lớn. Giá trị là
giá trị của hàng hoá hay giá trị của vật phẩm, là kết tinh của lao động trừu
tượng của xã hội trong hàng hoá hay vật phẩm đó. Do vậy, nó gắn liền với
bản chất kinh tế.
I.

1


- Từ góc độ đạo đức học, giá trị được xem xét trong phạm vi đời sống
đạo đức của con người, tức phạm vi của các quan hệ xã hội và quá trình hình
thành những chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức của xã hội gắn với nội dung của
các khái niệm trung tâm trong đạo đức học như cái thiện, cái ác, công bằng,
bình đẳng, nhân ái, lương tâm, danh dự,…
- Từ góc độ xã hội học, giá trị được xem xét trong các mối quan hệ của
cộng đồng (giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các nhóm xã hội,,,,). Trong các
quá trình hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội như tâm lý
dân tộc, nhu cầu, thị hiếu của các bộ phận dân cư, tập quán, dư luận xã hội, lối
sống…., giá trị được quan niệm là cái tạo nên sự thống nhất trong định hướng
giá trị của các nhóm, các tầng lớp xã hội, mà sự thống nhất đó có thể hình
dung như cái trục ổn định của nhân cách nhóm, tạo sự bình ổn, an toàn của
đời sống đạo đức xã hội.

- Từ góc độ tâm lý học nhân cách, giá trị được xem xét như là cái gắn
liền với nội dung và cấu trúc tâm lý của quá trình phát triển cá thể, là cái tạo
thành nhân cách, nằm trong cấu trúc của nhân cách.
- Từ góc độ của khoa học chính trị, giá trị thường được xem xét dưới
hình thức truyền thống là bộ phận mang tính chuẩn mực nhằm chuẩn hoá,
điều chỉnh, định hướng cho thái đôn, hành vi, lối sống, mục đích, lý tưởng
sống của con người trong xã hội. Chúng thường được biểu hiện thành các
quan điểm chính trị cùng các nguyên tắc đạo đức, các chuẩn mực pháp lý…
chi phối nhận thức và hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu của thể
chế.
Như vậy là, có bao nhiêu cách tiếp cận thì có bấy nhiêu cách “giới
hạn” khác nhau về phạm vi rộng hẹp của nội dung khái niệm giá trị. Tuy
nhiên, dù có nhiều cách phân loại khác nhau xuất phát từ các góc độ nghiên
cứu khác nhau thì khái niệm giá trị vẫn có điểm chung, mang tính phổ quát.
2. Khái niệm giá trị từ cách tiếp cận triết học
- Theo cách tiếp cận triết học, giá trị phải được xác định từ hai phía:
phía khách thể - bản thân sự vật với những phẩm chất, thuộc tính khách quan
của nó và phía chủ thể - sự đánh giá của con người. Bản chất của giá trị là sự
thống nhất biện chứng giữa cái khách quan và cái chủ quan. Giá trị được xác
định là tất cả những gì đem lại sự phát triển, tiến bộ, tốt đẹp cho con người
và xã hội. Hình thức biểu hiện của giá trị là đa dạng, muôn hình, muôn vẻ,
phụ thuộc vào tính đa dạng của các hoạt động và quan hệ xã hội của con
người, nhưng nó thống nhất ở tính hữu ích, nó là cái thật, cái đẹp, cái tốt, cái
tiên tiến, có tác dụng góp phần tích cực vào việc “nhân đạo hoá” đời sống của
con người. Thực chất và ý nghĩa bao quát của giá trị là tính nhân văn. lịch sử
của hệ thống giá trị xã hội vì thế cũng gắn liền với lịch sử phát triển của con
người – xã hội. Chúng vận động, biến đổi theo trình độ nhận thức, theo nhu
cầu phát triển của cá nhân và cộng đồng.
Cần xem xét giá trị như một hiện tượng xã hội mang tính thực tiễn, lịch
sử - cụ thể. Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng xã hội có cách quan

niệm giá trị khác nhau. Trong bối cảnh, điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể,
tương ứng với những giai đoạn phát triển xã hội nhất định, giá trị của một sự
2


vật, hiện tượng được xác định như thế này, nhưng trong hoàn cảnh, điều kiện
cụ thể khác, giai đoạn khác, nó có thể được quan niệm khác. Có những giá trị
khi đã trở thành tàì sản văn hoá tinh thần chung của nhân loại và của cộng
đồng, mang ý nghĩa trường tồn, nhưng thang bậc giá trị xã hội nói chung thì
luôn có sự vận động, biến đổi. Đặc biệt, trong những giai đoạn điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội có những biến động lớn thì sự biến đổi trong
thang bậc giá trị xã hội thường được bộc lộ ra một cách rõ nét và điển hình.
Lịch sử tiến bộ của loài người cũng chính là lịch sử của sự không ngừng tìm
kiếm, nhận thức các chân giá trị, là lịch sử của quá trình tích luỹ, chọn lọc, kế
thừa và không ngừng tìm ra các giá trị mới, ngày càng phù hợp với sự phát
triển tiến bộ của con người và xã hội loài người. Nói cách khác, đó cũng
chính là lịch sử của văn hoá.
Từ nội dung của khái niệm giá trị có thể khái quát một số điểm như
sau:
+ Giá trị có cơ sở xã hội là điều kiện kinh tế - xã hội khách quan.
Chính điều kiện kinh tế - xã hội với tính tất yếu kinh tế của nó đã quy định
thực trạng xã hội với các quan hệ xã hội cụ thể của nó, mà trong đó giá trị xã
hội nảy sinh, tồn tại, và được thừa nhận một cách phổ biến.
+ Bất cứ sự vật nào cũng đều có thể được xem là có giá trị, dù nó là vật
thể hay là ý tưởng, miễn là nó được người ta thừa nhận, người ta cần đến nó
như một nhu cầu, hoặc xác định nó có một vị trí quan trọng trong đời sống
con người và xã hội.
+ Giá trị có tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay
mất đi của giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người mà nó
phụ thuộc vào hệ thống nhu cầu khách quan của con người – cá nhân và cộng

đồng, được hình thành, biến đổi, phát triển do những điều kiện thực tế quy
định.
Như vậy, một hiện tượng, một quá trình, một hoạt động xã hội chỉ được
xem là “có giá trị” khi nó có khả năng đáp ứng, làm thoả mãn những nhu cầu,
lợi ích và mục đích xã hội của con người. Tính nhiều vẻ, nhiều chiều, nhiều
nội dung của nhu cầu, lợi ích và mục đích xã hội làm cho các giá trị trở nên
phong phú, đa dạng, nhiều cấp độ, nhiều tính chất khác nhau. Đồng thời, sự
có mặt của các giá trị còn phụ thuộc trực tiếp vào các chủ thể xã hội khác
nhau như các cá nhân, nhóm, giai cấp, cộng đồng xã hội với những định
hướng giá trị khác nhau. Giá trị tích cực là những giá trị thể hiện sự hài hoà
giữa lợi ích cá nhân và xã hội. Sự hài hòa đó cũng đồng thời là cơ sở để định
hướng giá trị xã hội, để xác định những nguyên tắc, mục tiêu, phương hướng,
nội dung cơ bản nhằm xây dựng giá trị phù hợp với sự phát triển, tiến bộ xã
hội.
Công cuộc đổi mới toàn diện, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh đã và đang tạo ra những giá trị xã hội mới cao đẹp cả về
chủ thể giá trị, cả về đối tượng giá trị.

3


+ Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và
yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệư với sự vật, hiện tượng mang
giá trị, thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể.
+ Về cơ cấu, giá trị thường có hai thành tố cấu thành cơ bản:
Đối tượng giá trị: Là các hiện tượng xã hội, bao gồm các hoạt động xã
hội của cá nhân, nhóm xã hội, giai cấp, cộng đồng xã hội trong thực tại xã
hội. Các hoạt động trên được thể hiện dưới dạng hiện tượng tư tưởng, quan
niệm trừu tượng, các hành vi, tương tác xã hội, các khái niệm, hệ tư tưởng

khoa học…Tất cả chúng đều tồn tại một cách khách quan, độc lập với chủ thể
giá trị. Chúng chỉ trở thành đối tượng giá trị khi chúng được thu hút vào quan
hệ xã hội, vào sự xem xét, định giá, xác định tác dụng xã hội của chính con
người và xã hội.
Chủ thể giá trị: Là con người và xã hội nhân thức hiện tượng xã hội,
định giá, nêu rõ tác dụng tích cực hoặc tiêu cực về mặt xã hội của hiện tượng
đó theo những chuẩn mực, khuôn mẫu, quan niệm về nhu cầu, lợi ích, mục
tiêu xã hội của mình. Như vậy, giá trị chỉ được xác định trong mối quan hệ
giữa đối tượng giá trị và chủ thể giá trị.
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
1. Khái niệm định hướng giá trị dưới góc độ của một số bộ môn
khoa học
Khái niệm định hướng giá trị được các nhà khoa học xác định dưới
nhiều góc độ khác nhau: triết học, tâm lý học, xã hội học…
- Dưới góc độ Triết học, định hướng giá trị là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào ý thức con người hoặc một nhóm xã hội nào đó dưới dạng
một hình mẫu, một mô hình hoàn thiện mà được mọi người thừa nhận, chấp
nhận và thực thi. Định hướng giá trị, vì vậy nó được quy định bởi các quan hệ
sản xuất thống trị cùng những đặc điểm tinh thần, tâm lý, và nhân cách; đến
lượt nó định hướng giá trị chi phối, tác động đến sự ứng xử, hành động của
các cá nhân trong mối quan hệ của họ với tự nhiên, xã hội.
Vai trò của định hướng giá trị đối với hoạt động của con người được
thể hiện ở chỗ nó trang bị cho con người những tri thức đúng đắn, khoa học
về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội. Trên cơ sở đó, con người
xác định mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động cho phù hợp. Từ đó, con
người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện, tổ chức các
hoạt động thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình,
con người có thể thực hiện mục tiêu đề ra. Ở đây, định hướng giá trị có thể là
yếu tố quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công nếu như
nó phản ánh đúng đắn, sâu sắc hiện thực đời sống xã hội. Do đó, định hướng

giá trị là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện
pháp đúng đắn trong hoạt động của con người.
- Dưới góc độ tâm lý học, định hướng giá trị có thể được coi là hệ
thống những động cơ quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy
định sự lựa chọn các thái độ của nó. Hệ thống động cơ là vấn đề trung tâm
trong cấu trúc của nhân cách. A.N.Lêônchiev quan niệm: “Hệ thống động cơ
4


được chủ thể xác định như là nhân tố hướng dẫn, thúc đẩy cá nhân hành
động”. Rubinstein cho rằng: “Động cơ là sự quy định về mặt chủ quan hành
vi của con người bởi thế giới. Sự quy định này đựoc thể hiện gián tiếp bằng
quá trình phản ánh động cơ đó”.
Những yếu tố cơ bản cấu thành nên động cơ hành động, chi phối hoạt
động của cá nhân – nhân cách chính là: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới
quan, niềm tin,… Tổng thể những yếu tố này là động lực của hành vi, của
hành động; nó là định hướng giá trị cho cá nhân hành động.
* Vai trò của định hướng giá trị
Vai trò của định hướng giá trị đối với hoạt động của con người được
thể hiện ở chỗ nó trang bị cho con người những tri thức đúng đắn, khoa học
về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội. Trên cơ sở đó, con người
xác định mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động cho phù hợp.
Định hướng giá trị có thể là yếu tố quyết định làm cho con người hoạt
động đúng và thành công nếu như nó phản ánh đúng đắn, sâu sắc hiện thực
đời sống xã hội. Do đó, định hướng giá trị là cơ sở quan trọng cho việc xác
định mục tiêu, phương hướng và biện pháp đúng đắn trong hoạt động của con
người.
Định hướng giá trị là hình thức cơ bản để cá thể xâm nhập vào cấu
trúc giá trị xã hội. Tính lựa chọn của hành vi người tính quyết định luận trực
tiếp bằng cách biểu tượng về ý nghĩa giá trị cuộc sống của chính nó và cuộc

sống của những người khác được triển khai trong định hướng giá trị. Việc
khẳng định các giá trị với tư cách là cái định hướng hoạt động người và tiếp
theo là hành vi, thành lập nên tiền đề việc phân tích các cấu trúc giá trị xã hội,
cấu trúc nhân cách kể cẩ cấp độ đồng nhất lẫn cấp độ khác biệt.
Định hướng giá trị bao hàm trong nó sự thống nhất giữa ý thức và
hành vi, nó được thể hiện ra trong quan hệ giữa con người với thế giới, với
người xung quanh, trong mọi hoạt động vật chất và tinh thần. Hành vi chính
là chỉ báo xã hội cơ bản về mặt nội dung của định hướng giá trị.
Với quan niệm đó thì định hướng giá trị vừa là tiêu chuẩn phân loại cá
nhân, là cơ sở dự báo xã hội về hành vi của các cá nhân. Định hướng giá trị
của mỗi cá nhân được hình thành dưới tác động của môi trường xã hội, trong
đó các giá trị cá thể, giá trị nhóm xã hội, giá trị xã hội đồng thời tác động một
cách không thụ động mà tích cực vào các quan hệ xã hội và tương tác xã hội.
Tương quan giữa các yếu tố cá nhân và yếu tố xã hội được xác định khá rõ
bởi các điều kiện lịch sử cụ thể, bởi môi trường xung quanh con người cũng
như tâm thế xã hội của chính cá nhân đó.
2. Quan điểm liên ngành triết học – xã hội học – tâm lý học về định
hướng giá trị
Định hướng giá trị là một hệ thống giá trị chuẩn phù hợp với yêu cầu
của xã hội, có tính phổ biến, được nhiều người thừa nhận, công nhận và tuân
thủ thực hiện, hệ thống giá trị đó có tác dụng vừa như là mục tiêu đối tượng
phải chiếm lĩnh, vừa như là động cơ thúc đẩy con người nhận thức hoạt động
để hoàn thiện nhân cách, phát huy vai trò chủ thể của con người trong sự
phát triển cá nhân, xã hội và tự nhiên.
5


- Trước hết, định hướng giá trị là một hệ thống giá trị chuẩn phù hợp
với yêu cầu xã hội. Đặc điểm cơ bản của hệ thống giá trị này là có tính phổ
biến và được mọi thành viên trong xã hội thừa nhận, chấp nhận và thực thi

chúng một cách tự giác.
Hệ thống giá trị là một tổ hợp giá trị khác nhau được sắp xếp theo
những nguyên tắc nhất định, phản ánh tính toàn vẹn, hệ thống các chức năng
đặc thù trong việc đánh giá nhân cách con người. Một hệ giá trị là chỉ ra các
thành phần của nó, những mối quan hệ giữa các thành phần, các yếu tố tạo
nên một cấu trúc chỉnh thể của nhân cách. Hệ thống giá trị luôn mang tính
lịch sử, chịu sự chế ước của lịch sử. Trong hệ giá trị có chứa đựng các nhân tố
của quá khứ, hiện tại và cả những nhân tố có thể có trong tương lai, các giá trị
truyền thống, các giá trị thời đại, các giá trị có tính nhân loại, các giá trị có
tính dân tộc, các giá trị có tính cộng đồng, các giá trị có tính lý tưởng, các giá
trị có tính hiện thực…
Tại Hội thảo khoa học: “Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới”
do chương trình KX – 07 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều báo cáo
đã khẳng định một tư tưởng chung là: hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước
đo giá trị và nhân phẩm con người Việt Nam ngày nay là các giá trị nhân văn
truyền thống dân tộc như yêu nước, lòng tự hào dân tộc, bản sắc dân tộc,
trung với nước hiếu với dân, nhân nghĩa, cần cù thông minh, năng động sáng
tạo.
- Thứ hai, định hướng giá trị là mục tiêu, đối tượng phải chiếm lĩnh.
Có thể thấy, định hướng giá trị là mô hình chuẩn, phù hợp với đặc điểm, điều
kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia. Đối với Việt Nam trong giai đoạn đổi
mới hiện nay, định hướng giá trị mà chúng ta đang hướng tới là: “xây dựng
con người Việt nam phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Còn ở cấp độ xã hội, chúng ta
hướng tới xây dựng “một xã hội dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”.
Ở cấp độ cá nhân, chúng ta phấn đấu xây dựng những định hướng giá
trị, những đặc trưng cơ bản của con người Việt Nam, đặc biệt là sinh viên chủ thể tương lai của đất nước bao gồm:
+ Xây dựng con người Việt Nam có ý thức, trình độ và năng lực làm
chủ. Đồng thời xã hội tạo ra những điều kiện về kinh tế, xã hội, chính trị,…

để con người thực hiện được quyền làm chủ đó.
+ Xây dựng con người Việt Nam có tri thức sâu sắc về công việc mà
mình đang đảm nhận, lao động có ý thức, kỷ luật, có tinh thần hợp tác với
đồng nghiệp, biết đánh giá chất lượng lao động, hiệu quả lao động của bản
thân.
+ Xây dựng con người Việt Nam sống có văn hoá, có tình nghĩa với
anh, chị, em, bạn bè, mọi người xung quanh, biết được vị trí của mình trong
từng mối quan hệ xã hội và giải quyết đúng đắn được những mối quan hệ xã
hội đó. Thường xuyên có ý thức nâng cao trình độ tri thức về mọi mặt, ra sức
rèn luyện sức khoẻ, đảm bảo phát triển toàn diện cá nhân.
6


+ Xây dựng con người Việt Nam giầu lòng yêu nước, thương dân, có
tình yêu thương giai cấp, yêu thương đồng loại, sống nhân văn, nhân đạo.
Ở cấp độ xã hội, chúng ta hướng tới định hướng giá trị sau đây: “một
xã hội dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cụ thể,
chúng ta xây dựng một xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:
+ Do nhân dân lao động làm chủ.
+ Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại, và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
+ Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
+ Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
+ Có quan hệ hữu nghị, hợp tắc với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Thứ ba, định hướng giá trị là động lực thúc đẩy con người nhận thức,

hoạt động để hoàn thiện nhân cách, phát huy vai trò chủ thể của con người
trong sự phát triển cá nhân, xã hội
Đây chính là tính hiện thực của định hướng giá trị. Nó là hiện thực bởi
vì định hướng giá trị được xây dựng trên cơ sở những chất liệu vốn có trong
hiện thực, nó phản ánh xu thế phát triển hợp quy luật của con người, của
nhóm xã hội hoặc toàn xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Sống và hoạt
động trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó, mỗi con người phải thường xuyên
phân tích, đánh giá, chọn lọc, hệ thống hoá và khái quát hoá thực tại để đi đến
xây dựng cho bản thân một định hướng giá trị cụ thể, hoàn hảo, mẫu mực, là
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình, là sức mạnh để thúc đẩy con người
hoạt động để đạt được mục đích thực hiện.
Có thể nói, định hướng giá trị là chuẩn mực cần hướng tới vừa như
một động lực mạnh mẽ thúc đẩy con người trong nhận thức và hành động có
lập trường tư tưởng vững vàng, có ý chí kiên định, có nghị lực và quyết tâm
vượt qua mọi trở ngại, thử thách, khó khăn nhằm đạt được mục tiêu mà cá
nhân và xã hội lực chọn.
3. Đặc điểm của định hướng giá trị
Cơ sở nảy sinh và tồn tại định hướng giá trị là kinh tế - xã hội. Chính
đời sống vật chất cùng toàn bộ các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội đã
sản sinh ra và quy định định hướng giá trị. Trong xã hội có giai cấp, định
hướng giá trị cũng có tính giai cấp, nó phản ánh, bảo vệ và duy trì lợi ích của
giai cấp thống trị. Định hướng giá trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa được
được hình thành, phát triển trên cơ sở kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa, là sự
sáng tạo của giai cấp công nhân cách mạng và nhân dân lao động nhằm mục
tiêu: “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh”. Xây
dựng định hướng giá trị mang tính thực tiễn, khoa học và nhân văn là một
nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
7



Định hướng giá trị có tính ổn định tương đối. Vì là một yếu tố cấu
thành nên nhân cách và là một bộ phận không thể thiếu được của ý thức xã
hội, nên so với sự biến đổi của đời sống vật chất xã hội chiều hướng chung
của định hướng giá trị là chậm thay đổi hơn so với sự phát triển của kinh tế xã hội. Mặt khác, định hướng giá trị là sự kết tinh những tư tưởng, quan điểm
đã được đúc kết rất lâu trong lịch sử, được các thế hệ gìn giữ, bổ sung, phát
triển và truyền đạt cho nhau; định hướng giá trị còn phản ánh thực trạng đời
sống vật chất, cơ sở kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định, vì
thế định hướng giá trị mang tính ổn định tương đối.
4. Cấu trúc của định hướng giá trị
Nội hàm của khái niệm cấu trúc được xác định như sau:
+ Những yếu tố cấu thành
+ Mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố cấu
thành đó.
Về những yếu tố cấu thành, theo mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng, định hướng giá trị bao gồm định hướng giá trị cá nhân và định hướng
giá trị xã hội. Định hướng giá trị xã hội là định hướng của mọi con người xã
hội, tồn tại và phát triển thông qua định hướng giá trị của các cá nhân trong xã
hội. Định hướng giá trị cá nhân là định hướng giá trị của từng cá nhân riêng
lẻ, trong đó nó vừa mang những nội dung nhất định của định hướng giá trị xã
hội, vừa chứa đựng những yếu tố riêng lẻ vốn chỉ thuộc về định hướng giá trị
ở mỗi cá nhân, không lặp lại ở bất cứ cá nhân nào khác. Như vậy, chúng ta
không thể đồng nhất định hướng giá trị cá nhân và định hướng giá trị xã hội,
đồng thời, cũng không thể xem định hướng giá trị cá nhân là một bộ phận của
định hướng giá trị xã hội. Trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay, toàn
thể dân tộc ta đang phấn đấu xây dựng một nước Việt nam xã hội xã hội chủ
nghĩa, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chủ thể và đồng thời là sản phẩm của
công cuộc cách mạng đó là những con người Việt Nam hiện đại cường tráng
về thể chất, phát triển về trí tuệ, có nhận thức, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp,
đúng đắn, tiến bộ, có cuộc sống xã hội và cá nhân hài hòa phong phú. Đó là

định hướng gia trị mà chúng ta đang vươn tới. Muốn làm được điều đó, nhất
thiết cần có sự thống nhất biện chứng giữa định hướng giá trị xã hội và định
hướng giá trị các nhân để tạo ra được sức mạnh tổng hợp nhằm hiện thực hoá
những định hướng giá trị nêu trên.
Theo các thành tố cơ bản trong cấu trúc của nhân cách, định hướng
giá trị bao gồm: định hướng giá trị chính trị - xã hội, định hướng giá trị đạo
đức, định hướng giá trị nghề nghiệp.
- Định hướng giá trị chính trị - xã hội
- Định hướng giá trị đạo đức nhân văn
- Định hướng giá trị nghề nghiệp
- Định hướng giá trị thẩm mỹ
5. Chức năng của định hướng giá trị
Sự tồn tại của định hướng giá trị gắn liền với chức năng của định
hướng giá trị. Chức năng chung nhất của định hướng gí trị là duy trì, bảo vệ
8


hệ thống xã hội đang tồn tại với những chuẩn mực, khuôn mẫu giá trị trên cơ
sở của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, nó tạo điều kiện cho hành vi,
ý thức của con người đi đúng hướng, đồng thời định hướng giá trị cũng có vai
trò hướng con người đến những giá trị cao đẹp trong cuộc sống, nó làm cho
xã hội ổn định với những quan hệ xã hội giữa cá nhân và xã hội có tính văn
hóa nhân văn.
Cụ thể, người ta thường đưa ra ba chức năng cơ bản của định hướng giá
trị:
Thứ nhất, định hướng giá trị điều chỉnh hành vi, hành động của cá
nhân phù hợp với chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội nhằm tạo ra sự hài
hoà của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thức hai, chức năng kiểm soát hành động, hành vi sai trái, lệch lạc của
cá nhân so với những chuẩn mực, khuôn mẫu, giá trị xã hội. Sự tồn tại và phát

triển của bất cứ một xã hội nào cũng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh và kiểm
soát đối với mối liên hệ giữa cá nhân và xã hôi tuân theo những lợi ích chung
của xã hội, cũng như lợi ích của tập hợp xã hội nhất định.
Thứ ba, chức năng định hướng hoạt động của các thành viên trong xã
hội, hướng hành vi hoạt động của cá nhân đến cái cao đẹp của cuộc sống mà
được xã hội thừa nhận.
6. Định hướng giá trị của sinh viên đại học hiện nay

9


Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
2.1. ĐỊNH NGHĨA GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
2.2. CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
2.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội là nhân tố khách quan quy định nội
dung, nhiệm vụ của giáo dục định hướng giá trị
Đây chính là mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng (điều kiện kinh tế - xã hội)
với Kiến trúc thượng tầng (Giáo dục định hướng giá trị)
2.2.2. Truyền thống văn hóa, lịch sử và bối cảnh văn hóa xã hội chi
phối tính chất, đặc điểm của giáo dục định hướng giá trị
- Truyền thống là gì?
- Một số truyền thống văn hóa, lịch sử và bối cảnh văn hóa chi phối
tính chất, đặc điểm của giáo dục định hướng giá trị
2.2.3. Nhân tố thời đại là tác nhân quan trọng của giáo dục định
hướng giá trị
2.3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO DỤC ĐỊNH
HƯỚNG GIÁ TRỊ
2.3.1. Mục tiêu của giáo dục định hướng giá trị
2.3.2. Nhiệm vụ của giáo dục định hướng giá trị

2.3.3. Đặc điểm cơ bản của giáo dục định hướng giá trị
2.4. NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
2.4.1. Những hướng chính trong nội dung của giáo dục định hướng
giá trị
* Giáo dục định hướng giá trị về chính trị - xã hội
- Định hướng giá trị chính trị - xã hội là những quan niệm hướng tới
một xã hội phát triển, tiến bộ, có tổ chức cao, trong đó người lao động được
tự do, bình đẳng và tự giác, có quyền làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân
mình.
Định hướng giá trị chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay được Đảng
cộng sản Việt Nam chỉ ra trong Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, được cụ thể hoá qua các Đại hội VIII và IX là:
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân. Thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền dân chủ, làm chủ, quyền lực của
nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi tội phạm và kẻ
thù của nhân dân.
Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chủ
nghĩa xã hội, không ngừng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân
về vật chất và tinh thần.
Thứ ba, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
yêu cầu và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất qua nhiều hình thức
đa dạng về sở hữu, sử dụng các tư liệu về sản xuất, hợp tác sản xuất kinh
doanh trong nước và quốc tế; Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền
10


tảng cho cả nền kinh tế quốc dân, từng bước phát triển kinh tế tri thức một
cách phù hợp, có hiệu quả và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện

nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế làm nguyên tắc chủ đạo.
Thứ tư, định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá,
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo
đời sống tinh thần của đất nước. Kế thừa và phát huy tinh hoa văn hoá của
dân tộc và nhân loại. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa có trí tuệ, đạo
đức, lối sống, phong cách,… có văn hoá, văn minh, có thể chất và đời sống
thẩm mỹ lành mạnh. Đấu tranh loại trừ các biểu hiện phản văn hoá, văn
minh, phi đạo lý, đạo đức,… trái với giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và của nhân loại tiến bộ, trái với mục tiêu và bản chất xã hội chủ
nghĩa.
Thứ năm, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở
rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tập hợp mọi lực lượng tán thành và đấu
tranh vì mục tiêu chung: dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà
bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, độc lập và cùng có lợi với các nước, các tổ
chức quốc tế,…
Thứ sáu, thực hiện tốt quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, gắn chặt
kinh tế với quốc phòng an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội,…
Thứ bảy, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng cộng sản Việt Nam
theo phương châm: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng
là then chốt… để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, đủ phẩm chất, năng
lực và uy tín đáp ứng vai trò lãnh đạo của xã hội ta trên mọi lĩnh vực trước
những yêu cầu ngày càng cao hơn, với những vận hội mới và cả những thách
thức mới.
* Giáo dục định hướng giá trị về nghề nghiệp
là những quan niệm về một nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở
trường của bản thân và nghề nghiệp này được xã hội thừa nhận, có lợi cho
bản thân, gia đình và xã hội.

* Giáo dục định hướng giá trị về ý thức pháp luật
* Giáo dục định hướng giá trị về đạo đức, lối sống
Chúng ta và cả cộng đồng nhân loại vừa trải qua những thập niên cuối
cùng của thiên niên kỷ thứ hai với những biến động dữ dội mang tính toàn cầu
để bước sang thiên niên kỷ thứ ba chắc cũng sẽ lại diễn ra với những biến
động khó lường. Đó là những biến động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội từ kinh tế, chính trị, quân sự đến văn hoá, khoa học - công nghệ; từ
cuộc sống của mỗi con người đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại
Tất cả những biến động ấy đang và sẽ dẫn các quốc gia, dân tộc tới sự liên kết
khu vực và quốc tế bằng quá trình toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, về thực chất, là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Đó là một quá trình tất yếu, khách quan, hợp quy
luật và không thể đảo ngược. Toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế,
11


theo hướng phát triển kinh tế thị trường đã cho phép các nước có trình độ phát
triển khác nhau hội nhập khu vực và quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế theo
hướng phát triển kinh tế thị trường khi mà thang giá trị và chuẩn giá trị ở các
nước còn nhiều khác biệt đang đặt ra những vấn đề cấp bách cho mọi quốc
gia, dân tộc trong việc định hướng giá trị nói chung, định hướng các giá trị
đạo đức truyền thông nói riêng. Bởi lẽ, nền kinh tế thị trường với những
nguyên tắc vận hành và phát triển riêng của nó đang có ảnh hưởng sâu sắc cả
theo hướng tích cực lẫn tiêu cực tới mọi mặt đời sống xã hội, tới hệ thống các
giá trị, các quy phạm đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống và nhân cách con
người trong một quốc gia, dân tộc. Phát triển kinh tế thị trường không chỉ làm
nảy sinh quá trình xâm nhập, bổ sung lẫn nhau giữa các hệ thống giá trị, các
chuẩn mực đạo đức, các quy tắc ứng xử truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, mà còn làm xuất hiện cả sự tác động, xung đột, bổ sung lẫn nhau giữa
các giá trị đó. Cùng với đó, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế theo hướng

phát triển kinh tế thị trường khi mà trình độ phát triển của các quốc gia, dân
tộc không có cùng một mức độ, sự chênh lệch về khả năng trong lĩnh vực
truyền thông đại chúng khá lớn thì sự áp đặt về thông tin, sự áp đặt các giá trị
và các chuẩn giá trị cùng với lối sống của một số quốc gia, dân tộc này lên
một số quốc gia, dân tộc khác là một thực tế.
Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc đều phải cố cách thức riêng của
mình để vừa có thể hội nhập, vừa tiếp thu được tinh hoa văn hóa thế giới, qua
đó làm phong phú thêm văn hoá của dân tộc mình, đất nước mình, lại vừa
không làm mất đi bản sắc dân tộc và các giá trị văn hoá truyền thống. Do vậy,
trong bối cảnh này, vấn đề xác định, định hướng giá trị nói chung, giá trị đạo
đức nói riêng, để trên cơ sở đó, có sự nhận thức sâu sắc và định hướng đúng
đắn việc xây đựng một hệ chuẩn đạo đức mới là điều hết sức cần thiết và cấp
bách.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định: "Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc
tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa
và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc.
Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá
Việt Nam; đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại, những
khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sùng bái đồng
tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn"(1). Do vậy để có một hệ
chuẩn đạo đức mới, chúng ta không chỉ xác định xem cần phải kế thừa, duy
trì, phát triển những yếu tố nào) phê phán, gạt bỏ những yếu tố nào trong đạo
đức truyền thống mà còn xác định xem cần phải tiếp thu những yếu tố nào,
gạt bỏ, ngăn chặn những yếu tố nào trong hệ thống giá trị và quy tắc ứng xử
đi liền với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường để trên
cơ sở đó, xây dựng một nền đạo đức Việt Nam trong sáng, lành mạnh, giàu
tính dân tộc và hiện đại, mang đậm tính nhân văn.
Với tư cách là yếu tố cấu thành hệ thống các giá trị tinh thần của đời
sống xã hội, giá trị đạo đức được xác đinh là những chuẩn mực, những khuôn

mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi
12


con người. Trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, hệ thống
giá trị tinh thần của đời sống xã hội nói chung, các giá trị đạo đức nói riêng
luôn được coi là yếu tố cấu thành diện mạo của một thời đại, một xã hội, một
dân tộc, một nền văn hoá và của nhân cách con người. Và do vậy, mọi
phương thúc thành định, định hướng giá trị nói chung, giá trị đạo đức nói
riêng, đều phải dựa trên cơ sở tính ổn định tương đối của các giá trị đó. Song,
ngay cả khi đã xác định được tính ổn định tương đối của các giá trị đó, thì
việc thẩm định, định hướng giá trị cũng không phải vì thế mà trở nên đơn
giản, dễ dàng. Bởi lẽ, trong các cách quan niệm, thậm chí ngay cả trong một
cách quan niệm về các phạm trù đạo đức, các giá trị đạo đức, thì bên cạnh sự
thống nhất lại luôn có những sự khác biệt, thậm chí còn đối lập nhau. Những
sự khác biệt, đối lập đó thể hiện ra cả ở phương điện ý thức đạo đức lẫn hành
vi đạo đức và lối ứng xử của cá nhân, của những tập đoàn, những nhóm người
khác nhau trong một cộng đồng xã hội. Cùng một hành vi, cùng một lối ứng
xử song có người cho là đúng, có người cho là sai, có người cho là cao đẹp,
có người lại cho là thấp hèn.
Theo quan điểm phát triển của triết học Mác, những khác biệt đó, đối
lập đó trong hệ các giá trị đạo đức là sự phản ánh quá trình vận động và phát
triển thường xuyên của các giá trị đạo đức, và suy cho cùng thì đó là biểu hiện
hợp quy luật của quá trình vận động phát triển của đời sống tinh thần xã hội
dưới tác động của những biến đổi diễn ra trong đời sống kinh tế - xã hội. Khi
nền tảng kinh tế - xã hội thay đổi rất sẽ dẫn đến những thay đổi trong đời sống
tinh thần của xã hội, đến những thay đổi trong hệ thống giá trị tinh thần xã
hội. Đạo đúc là một hình thái ý thức xã hội, và do đó, cũng như mọi hình thái
ý thức xã hội khác, nó phản ánh tồn tại xã hội và thay đổi tuỳ theo sự thay đổi
của tồn tại xã hội. Nói về ảnh hưởng của những biến đổi diễn ra trong đời

sống kinh tế - xã hội đối với quá trình hình thành quan niệm của con người về
đạo đức và các giá trị đạo đức, Ph.Ănghen khẳng định: "Con người đã tự giác
hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của mình từ
những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ
những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi... Xét cho đến
cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của
tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”.
Bởi vậy, khi phán xét, thẩm định một hiện tượng đạo đức, một giá trị
đạo đức nào đó, chúng ta không thể dừng lại ở chỗ lý giải nội dung khái niệm
của nó mà phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, nền tảng
kinh tế - xã hội, nghĩa là phải tìm hiểu tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Đạo
đức luôn thay đổi theo tồn tại xã hội, và do vậy, theo các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác, không thể có thứ đạo đức tồn tại vĩnh viễn. Đề cập đến quan niệm
thiện ác, đến sự đối lập thiện ác - "sự đối lập ... vận động trong lĩnh vực đạo
đức, tức là một lĩnh vực thuộc về lịch sử loài người", Ph.Ăngghen khẳng
định:"Chính trong lĩnh vực này, những chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng hiếm có
hơn hết. Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác,
những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái
ngược hẳn nhau"(3). Trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch
13


hoá tập trung sang mô hình kinh tế thị trường, sự chuyển đổi các giá trị đạo
đức là điều không tránh khỏi. Song, điều đó không có nghĩa là khi chuyển
sang mô hình kinh tế thị trường, mọi quan niệm đạo đức đều bị lật nhào, mọi
giá trị đạo đức đều lập tức thay đổi. Những quan niệm đạo đức hợp lý, đúng
đắn, những giá trị đạo đức truyền thống không vì thế mà lập tức thay đổi.
Những quan niệm đạo đức, các giá trị đạo đức tiêu biểu cho các giai đoạn
khác nhau của cùng một quá trình phát triển lịch sử và có một cơ sở lịch sử
chung, thì giữa chúng không thể không có nhiều yếu tố chung.

Và theo Ph.Ăngghen, "đối với những giai đoạn phát triển kinh tế giống
nhau hay gần giống nhau thì những học thuyết về đạo đức tất phải ít nhiều
trùng hợp với nhau”(4). Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch
sử, đạo đức, cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, trong quá trình phát
triển của nó có tính độc lập tương đối. Những lực lượng xã hội mới thường
mượn những quan niệm đạo đức của thời đại trước, giai đoạn trước, cải tạo
lại, gạt bỏ những cái gì không còn phù hợp, giữ lại những cái tốt đẹp, phù hợp
với các quan hệ kinh tế - xã hội mới, với lợi ích của họ. Vả lại, trong quá trình
chuyển đổi các giá trị đạo đức, những tập quán và truyền thống dân tộc luôn
đóng một vai trò to lớn. Thông qua tập quán và truyền thống dân tộc mà rất
nhiều quan niệm, quy tắc, giá trị đạo đức cũ được giữ lại, được kế thừa và
phát huy trong bối cảnh của đời sống xã hội mới ngay cả khi những điều kiện
xã hội đã sản sinh ra chúng không còn nữa. Đó là chúng ta còn chưa kể tới sự
tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội mà
đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội ấy. Chỉ riêng tính độc lập
và ổn định tương đối của đạo đức, quy luật phát triển nội tại của nó, ảnh
hưởng và sự tác động qua lại của nó đối với các hình thái ý thức xã hội khác
cũng đã đủ nói lên tính phức tạp của việc thẩm định, định hướng giá trị đạo
đức trong bối cảnh chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
mô hình kinh tế thị trường, đặc biệt là sang mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu kể thêm hàng loạt vấn đề có tính quy luật khác
như: quan hệ giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan, giữa yếu tố truyền
thống và yếu tố hiện đại, giữa tính dân tộc và tính quốc tế, giữa xu hướng giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc và xu hướng mở cửa, hội nhập, giao lưu với các
nền văn hoá trong khu vực và quốc tế giữa phương thức xã hội hoá và cá thể
hoá đời sống đạo đức trong việc hình thành nhân cách con người, v.v. , thì
việc thẩm định các chuẩn mực, giá trị đạo đức, việc định hướng các giá trị đạo
đức trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế thị
trường lại càng phức tạp hơn nhiều. Điều đó nói lên rằng trong đời sống xã
hội ta hiện nay, những biểu hiện không thuần nhất, thậm chí khác biệt, đối lập

trong các quan niệm đạo đức, trong các xu hướng thẩm định, định hướng giá
trị đạo đức là điều khó tránh khỏi.
Với tư cách là sản phẩm của tiến trình phát triển lịch sử, của sự phát
triển kinh tế - xã hội và mang tính thực tiễn - lịch sử cụ thể, các giá trị đạo
đức được xác đinh là tất cả những gì đem lại sự phát triển, sự tiến bộ cho xã
hội và cho bản thân con người. Bởi thế, mọi giá trị đạo đức đều phải hướng
tới tính nhân văn đó.
14


Nói cách khác, do chỗ con người là vốn quý nhất, là chủ thể của mọi
sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các
quốc gia, "là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới", nên mọi giá trị
đạo đức đều phải hướng tới việc phát triển con người toàn diện, thiết lập quan
hệ thực sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và
trong đời sống, "hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp", để trên cơ
sở đó, "xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái". Từ lâu, Chân - Thiện - Mỹ
đã được chúng ta quan niệm là trụ cột tinh thần trong đời sống con người và
xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế theo hướng phát triển
kinh tế thị trường, nền đạo đức mới mà chúng ta đang xây dựng càng phải
hướng tới hệ giá trị tinh thần này, coi đó như là nhân tố chủ đạo chi phối toàn
bộ mục đích sống, lẽ sống, lý tưởng sống của mỗi một con người, mỗi cá
nhân trong xã hội. Phát huy cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con
người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên; phê phán
những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn vốn là nét đẹp trong truyền
thống văn hoá Việt Nam càng phải được đề cao. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở
đây là: khi chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang mô hình
kinh tế thị trường, Chân - Thiện - Mỹ phải chăng là hệ giá trị duy nhất đúng
và thống nhất trong quan niệm của tất cả mọi người về mục đích sống, lẽ
sống, lý tưởng sống? Nói mục đích sống, lẽ sống, lý tưởng sống gắn với hệ

giá trị Chân - Thiện - Mỹ, người ta thường thiên về quan niệm lấy đạo đức xã
hội truyền thống với những biểu hiện của nó như là sự tận tuỵ, đức hy sinh,
chủ nghĩa nhân đạo, lòng vị tha và thái độ sống đặt lợi ích của người khác và
của xã hội lên trên lợi ích cá nhân làm nền tảng. Có thể nói đây là quan niệm
đang giữ vị trí "ưu trội" trong xã hội ta. Song, gần với quan niệm này là quan
niệm gắn mục đích sống, lẽ sống, lý tưởng sống với hệ giá trị Thiện - Ích Mỹ. Cách quan niệm này không giống cách quan niệm lấy Chân - Thiện - Mỹ
làm định hướng giá trị về hình thức, thành phần, thứ bậc của những định
hướng giá trị chi phối mục đích sống, lẽ sống, lý tưởng sống của con người.
Trong cách quan niệm này, người ta thường nhấn mạnh phạm trù "lợi ích",
nhấn mạnh tính có ích trong mọi hành vi, mọi quan hệ cũng như mọi lĩnh vực
hoạt động của con người. Điểm hợp lý của quan niệm này là ở chỗ, vấn đề lợi
ích luôn được coi là vấn đề giữ vai trò quyết định trong mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội.
* Giáo dục định hướng giá trị về thẩm mỹ…
Là những quan niệm về cái đẹp, cái cao cả, mà cơ sở của nó là tư
tưởng về sự phát triển toàn diện những năng lực sáng tạo của mỗi người, là sự
kết hợp hài hoà giữa sự phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức và
hoàn thiện về thể chất, sự phù hợp, hài hòa giữa đời sống xã hội và cá nhân.
2.4.2. Kinh nghiệm giáo dục định hướng giá trị ở một số nước và
những bài học thực tiễn

15


Chương 3
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ
Chương4
GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày nay giới trẻ nói chung, học sinh Trung học phổ thông
nói riêng đang ngày càng bị ảnh hưởng bởi bạo lực, các vấn đề xã hội và
thiếu sự tôn trọng lẫn nhau. Việc giáo dục các giá trị sống nhằm phát
triển con người toàn diện và tìm cách giúp mỗi cá nhân phát hiện ra nơi
chính họ một tiềm năng phong phú, làm cho mọi người đều có thể cảm
nhận mình được tôn trọng, được đánh giá cao, được cảm thông, được yêu
thương và luôn cảm thấy an toàn. Nền giáo dục nói chung, nhà trường
nói riêng cần phải chọn lọc những giá trị tích cực làm nòng cốt, và kết quả
biểu hiện của chúng phải đạt đến đích nhắm. Chương trình giáo dục về
các giá trị cuộc sống (LVEP) của tổ chức UNESCO đã đưa ra 12 giá trị
cơ bản của con người cần xây dựng trong thời đại ngày nay:
1. Hoà bình: hoà bình cho thế giới hay sự bình an trong mỗi con
người, được xây dựng từ những tư tưởng tích cực, từ những tình cảm trong
sáng và những mong muốn tốt đẹp cho cuộc sống.
2. Tôn trọng: nhận biết những giá trị của bản thân và tôn trọng giá trị
của người khác sẽ góp phần tạo nên mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân, gia
đình và cộng đồng.
3. Hợp tác: là cùng chung sức giúp đỡ nhau nhằm đạt đến một mục
đích chung dựa trên niềm tin, tình yêu và sự hiểu biết lẫn nhau.
4. Đoàn kết: mang lại cảm hứng cho cá nhân và những thành tựu tập
thể lớn hơn.
5. Trách nhiệm: khi mỗi cá nhân cố gắng làm tròn bổn phận đối với
bản thân, gia
đình và cộng đồng; thế giới có thể tồn tại và phát triển tốt đẹp.
6. Khoan dung: biết chấp nhận và bỏ qua lỗi lầm của người khác là
cách để tạo nên một cuộc sống chung hoà hợp.
7. Khiêm tốn: là nhận biết được sức mạnh của chính mình mà
không khoe khoang.
8. Giản dị: là vẻ đẹp có được khi chúng ta nhận ra cốt lõi của sự việc

và đừng làm cho mọi thứ trở nên phức tạp.
9. Trung thực: là không có sự khác biệt giữa tư tưởng, lời nói và hành
động nhằm giúp cho mọi người gần nhau hơn.
10. Yêu thương: là chăm sóc, chia sẻ và luôn mong muốn những điều
tốt đẹp nhất
đến với bản thân mình và đến với người khác.
11. Tự do: là không để bị tác động và có khả năng làm theo ý muốn
của bản thân dựa trên cơ sở hiểu biết được quy luật của cuộc sống.
16


12. Hạnh phúc: hạnh phúc đích thực chỉ có thể tìm thấy ở chính mình.
Hạnh phúc khi được chia sẻ sẽ nhân lên gấp bội lần.
II. NỘI DUNG GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Hòa bình
1.1. Quan niệm về hòa bình
- Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh.
- Chỉ có trong một bầu không khí phi bạo lực, biết lắng nghe, chấp
nhận, có sự công bằng và giao tiếp rõ ràng, thông suốt mà nền hòa bình thế
giới mới được vững mạnh.
- Hòa bình khởi nguồn từ chính mỗi người chúng ta.
- Nếu mỗi người đều cảm thấy bình yên trong lòng thì hòa bình sẽ ngự
trị khắp nơi trên thế giới.
- Tính chân thực của hành động phụ thuộc vào sự chân thực của từng cá
nhân.
- Bình an là một trạng thái tinh thần điềm tĩnh và thư giãn.
- Bình an là sự tĩnh lặng, thanh thản bên trong mỗi con người cùng với
sức mạnh của chân lý, sự thật.
- Bình an có được khi mọi tư tưởng, tình cảm và ước muốn của con

người đều trong sáng.
- Bình an là một nguồn năng lượng tích cực.
- Để sống trong bình an, ta cần có lòng trắc ẩn và sức mạnh từ nội tâm.
- Thanh bình không có nghĩa là vắng bóng sóng gió mà chính là ta vẫn
giữ được lòng an bình giữa những biến động, hỗn loạn.
- Hòa bình là đặc trưng nổi bật của một “Xã hội văn minh”.
- “Hòa bình cần phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta.
1.2. Các bài học cơ bản về hòa bình
Bài học cơ bản 1: CÁC GIÁ TRỊ CỦA TÔI
* Mục đích:
Thảo luận để hiểu rõ hơn một thế giới tốt đẹp là như thế nào, đồng thời
tự suy ngẫm để khám phá Giá trị ở mỗi cá nhân.
Bài học cơ bản 2: HÌNH DUNG VỀ MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH
* Mục đích:
- Hình dung và truyền đạt các ý tưởng về một thế giới Hòa bình.
- Hình dung về một thế giới Hòa bình và chia sẻ những ý tưởng có
liên quan đến bản thân, người khác, và thế giới.
Bài học cơ bản 3: SỰ ĐỐI LẬP GIỮA MỘT THẾ GIỚI HÒA
BÌNH VÀ MỘT THẾ GIỚI BẤT HÒA
Mục đích:
- Suy nghĩ và làm một việc nhỏ, đơn giản nào đó để làm cho thế giới
này giống với thế giới Hòa bình mà học viên có thể hình dung ra.
- Nhận ra sự khác biệt giữa thế giới Hòa bình và thế giới bất hòa
thông qua hoạt động thảo luận và làm Bản đồ Tâm trí.
Thảo luận điểm suy ngẫm:
17


- Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh.
Bài tập về nhà: Yêu cầu học viên suy nghĩ về một điều đơn giản mà

họ có thể thực hiện để làm cho thế giới trở nên giống như thế giới họ đã
hình dung ra trong bài học trước đây (Bài 2).
Bài học cơ bản 4: BÌNH AN VÀ BẤT AN
Mục đích:
- Thảo luận về cảm giác bình an và bất an; sau đó rút ra những suy
nghĩ và hoạt động giúp bản thân cảm thấy bình an hơn.
- Tận hưởng cảm giác bình an qua Bài tập Thư giãn Thể chất. Mở một
bài hát về Hòa bình.
Bài học cơ bản 5: “TĂNG CẢM GIÁC BÌNH AN TRONG MÔI
TRƯỜNG GIÁO DỤC”
* Mục đích:
- Cùng nhau chọn lựa những kiểu hành vi ứng xử mới để làm cho lớp
học bình yên hơn.
- Thảo luận cảm giác người ta đánh nhau và làm tổn thương lẫn nhau.
- Tận hưởng cảm giác bình yên qua Bài tập Thư giãn Bình yên.
Bài số 6: GIẢI QUYẾT BẤT HÒA
Ngày càng có thêm nhiều hy vọng về một nền Hòa bình vững
mạnh. Tôi thật sự tin rằng mọi người có thể giải quyết các vấn đề của chính
mình.”
Kết thúc với Bài tập Thư giãn/Tập trung
2. Tôn trọng
2.1. Quan niệm về sự tôn trọng
- Bẩm sinh con người vốn quý giá
- Một phần của lòng tự trọng là biết các phẩm chất của mình
- Tôn trọng bản thân là hạt giống để sự tự tin lớn lên
- Khi ta biết tôn trọng bản thân, ta sẽ dễ dàng tôn trọng người khác
- Nhận biết giá trị của bản thân và trân trọng giá trị của người khác
chính là cách thức để ta nhận được sự tôn trọng.
- Người thể hiện sự tôn trọng sẽ nhận được sự tôn trọng.
- Khi sự tôn trọng được xây dựng trên cái vỏ bọc bên ngoài, người ta

rất dễ trở thành nạn nhân của sự thiếu tôn trọng và đánh mất đi lòng tôn trọng
bản thân.
- Khi ta có lòng tự trọng, sự khôn ngoan, sáng suốt sẽ được phát huy,
nhờ đó ta sẽ trở nên công bằng, chính trực, biết đối xử tốt với mọi người.
- Mọi người trên thế giới, kể cả bản thân tôi, đều có quyền được tôn
trọng và sống có nhân phẩm.
2.2. Các bài học cơ bản về tôn trọng
2.2.1. Bài 1: BẢN ĐỒ TÂM TRÍ
* Mục đích:
- Xác định sự khác biệt giữa tác động của sự tôn trọng và thiếu tôn
trọng thông qua hoạt động lập bản đồ tâm trí và chia sẻ.
Khám phá các khái niệm chung về sự tôn trọng thông qua các câu hỏi
thảo luận:
18


+ Tôn trọng là gì?
+ Hãy tưởng tượng xem cuộc sống xã hội sẽ như thế nào nếu tất cả mọi
người đều tôn trọng lẫn nhau
+ Trong cuộc sống ấy, bạn thấy điều gì đang diễn ra xung quanh?
+ Hãy tưởng tượng xem thế giới này hay đất nước mình sẽ như thế nào
nếu mỗi người đều có ý thức tôn trọng và bảo vệ môi trường?
+ Bạn cảm thấy thế nào nếu mọi người đối xử với bạn bằng sự tôn
trọng?
Hoạt động: Đề nghị học viên lập một bản đồ tâm trí về sự tôn trọng
trong nửa trang giấy và kết quả của sự thiếu tôn trọng vào nửa trang giấy còn
lại. Đề nghị lớp chia theo nhóm (tối đa 8 người).
2.2.2. Bài 2: PHẨM CHẤT MÀ BẠN NGƯỠNG MỘ
* Mục đích
- Xác định những phẩm chất đáng ngưỡng mộ ở người khác và 5 phẩm

chất tích cực của chính bản thân.
- Xcas định những khác biệt giữa tác động của sự tôn trọng và thiếu tôn
trọng thông qua hoạt động lập Bản đồ tâm trí và chia sẻ.
* Hoạt động:
Ở các bài học khác chúng ta sẽ tìm hiểu hậu quả của sự thiếu tôn trọng
và nguyên nhân tại sao người ta lại lựa chọn hành động thiếu tôn trọng với
người khác. Còn bây giờ, phần tiếp theo của bài học hôm nay, chúng ta sẽ
khám phá về sự tôn trọng và những phẩm chất mà mỗi người trong số chúng
ta cho là quan trọng nhất.
- Đề nghị học viên viết ra giấy những phẩm chất mạ họ nghĩ đến ch mỗi
gợi ý sau đây (cho họ 2- 4 phút để trả lời mỗi gợi ý)
+ Hãy nghĩ về người nào đó mà bạn khâm phục. Viết ra những phẩm
chất của người đó.
+ Hãy nghĩ về những người hùng của bạn. Họ là ai? Viết ra những
phẩm chất mà bạn ngưỡng mộ.
+ Hãy viết ra những phẩm chất mà bạn khâm phục ở bạn bè mình
+ Viết ra 5 phẩm chất quan trọng nhất đối với bạn – 5 phẩm chất mà
bạn cho rằng một người cần phải có.
3. Yêu thương
3.1. Những điểm suy ngẫm về yêu thương
- Trong một thế giới tốt đẹp, quy luật tự nhiên là yêu thương và trong
một con người tốt đẹp, bản chất tự nhiên là biết thương yêu.
- Tình yêu không đơn giản chỉ là ước muốn, một nỗi đam mê, một cảm
giác hưng phấn về một người hoặc một vật, mà đó là ý thức quên mình cùng
với sự hoàn thiện bản thân.
- Nhiệm vụ của chúng ta là giải phóng bản thân bằng cách mở rộng
vòng tay trắc ẩn để ôm cả nhân loại và thiên nhiên vào lòng.
- Tình yêu là nền tảng tạo dựng và nuôi dưỡng các mối quan hệ một
cách chân thành và bền vững nhất.
- Tình yêu là cơ sở cho niềm tin vào sự công bằng và thiện chí đối với

tất cả mọi người.
19


3.2. Các bài học cơ bản về tình yêu thương
Bài 1: Hình dung về một thế giới yêu thương
* Mục đích:
- Hình dung, truyền đạt ý tưởng và thảo luận về một thế giới yêu
thương.
* Hoạt động:
- Khám phá các khái niệm chung về tình yêu thương thông qua các câu
hỏi thảo luận sau:
+ Tại sao tình yêu thương lại quan trọng?
+ Bạn có nghĩ rằng tình yêu thương là nhu cầu của tất cả mọi người hay
không? Tại sao?
+ Nếu mọi người biết yêu thương nhau, thế giới này sẽ có thể khác đi
không?
- Hình dung về một thế giới yêu thương:
(Dẫn dắt học viên trong bài tập tưởng tượng này có thể thay đổi cho
thích hợp với hoàn cảnh)
Hôm nay tôi muốn các bạn nghĩ về một người đáng yêu và tốt bụng. Đó
có thể là một người có thật trong cuộc sống hiện tại của bạn, hoặc là người đã
giúp đỡ bạn trước đây. Hoặc cũng có thể là người bạn từng thấy trong phim
ảnh. Hãy nghĩ về thái độ của người đó. Hình dung ra tất cả sự giúp đỡ người
đó dành cho bạn. Bây giờ, tôi muốn các bạn hãy tưởng tượng rằng thế giới
này đều trở nên đáng yêu và tốt bụng… Thế giới này sẽ như thế nào? Hãy
hình dung về các quốc gia khác nhau và xem họ đối xử với nhau như thế nào?
Hãy hình dung những người cùng học giao tiếp với nhau…
Chia sẻ: Hãy cho học viên chia sẻ những điều họ tưởng tượng và cảm
nhận được trước cả lớp.

Bài 2: Lòng vị tha, quên mình và hoàn thiện bản thân mình
* Mục đích:
Viết về những thời điểm trong đời mà bản thân trải nghiệm cảm giác
tràn đầy tình thương.
* Hoạt động:
- Đề nghị các học viên viết về những lúc họ cảm thấy tràn đầy tình yêu
thương.
- Lưu ý: với những học viên phải chịu quá nhiều tổn thương, nếu họ nói
rằng họ không có trải nghiệm về tình yêu thương, bạn hãy đề nghị học viết lời
khuyên dành cho những người đã làm họ tổn thương, những gì người kia nên
làm và không nên làm
- Câu hỏi thảo luận:
+ Cùng một lúc, làm thế nào vừa có thể quên mình, vừa có thể hoàn
thiện bản thân?
+ Liệu điều đó có luôn đúng cho các giá trị và phẩm chất khác không?
Với giá trị và phẩm chất nào?
4. Khoan dung
4.1. Thế nào là khoan dung?
20


1. Hoạt động 1: Khám phá giá trị khoan dung qua câu chuyện: “Một bát
súp”.
- Đọc câu chuyện: (Nên dừng lại ở những chi tiết quan trọng).
- Thảo luận về câu chuyện:
Theo bạn, trong truyện này, nhân vật nào có lòng khoan dung thực sự?
2. Hoạt động 2: Rút ra kết luận về khái niệm khoan dung:
- GV hỏi: Thế nào là khoan dung?
- HS trả lời, Giáo viên ghi các ý kiến lên bảng.
- GV kết luận:

- Khoan dung là rộng lòng tha thứ.
- Khoan dung là “một thái độ khách quan và công bằng đối với
những người mà ý kiến, hành vi, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc…của họ
khác với mình, không hề có sự cố chấp”. (Từ điển Random House
College).
4.2. Những biểu hiện của lòng khoan dung:
1. Hoạt động 1: Cho HS trải nghiệm:
- Hãy nhớ lại một lần em đã khoan dung với ai đó, hoặc em đã được
nhận sự khoan dung…Với bản thân em, ai là người khoan dung nhất? (trong
lớp, trong gia đình).
- HS chia sẻ những câu chuyện của mình.
2. Hoạt động 2: Tìm những biểu hiện của khoan dung:
- GV hỏi: Từ những kinh nghiệm của bản thân, em thấy khoan dung có
những biểu hiện như thế nào?
- HS trả lời, GV ghi nhanh các ý kiến lên bảng.
- Khoan dung: luôn tôn trọng và cảm thông với người khác.
- Khoan dung: biết tha thứ cho người khác khi họ biết lỗi.
- Khoan dung: Không chấp nhặt hẹp hòi; biết chấp nhận cá tính,
sở thích, thói quen của người khác trên cơ sở những chuẩn mực xã hội
- Khoan dung là sự cởi mở và nhận ra vẻ đẹp của những điều khác
biệt.
4.3. Ý nghĩa của lòng khoan dung:
1. Hoạt động 1: Tìm hiểu về sự khoan dung:
- Đọc câu chuyện: Túi khoai tây.
- HS thảo luận: Rút ra bài học gì từ câu chuyện?
- GV kết luận: Mọi người thường nghĩ, tha thứ là sự ban ơn cho người
khác, nhưng hơn hết nó cũng là món quà dành cho chính chúng ta.
Khoan dung mang lại sự bình
yên cho tâm hồn.
2. Hoạt động 2: Tìm hiểu về sự thiếu khoan dung:

HS chia sẻ câu chuyện về sự thiếu khoan dung và tác hại, hậu quả của
nó. GV lấy những ví dụ trong lớp.
3. Hoạt động 3: GV kết luận:
- Thông qua sự hiểu biết và đầu óc mới mẻ, sáng suốt, người có
lòng khoan dung có khả năng thu hút nhiều người khác biệt đến với
21


mình, tạo dựng được nhiều mối quan hệ tốt đẹp.
- Có lòng khoan dung, con người được sống trong bình an, yêu
thương, tin cậy.
- Khoan dung sẽ nhân lên lòng yêu thương, tình đoàn kết, sự gắn
bó của mọi người trong tập thể…
4.4. Làm thế nào để có lòng khoan dung?
1. Hoạt động 1: Thực hành giải quyết xung đột bằng khoan dung
- GV hỏi: Ở lứa tuổi các em, thường có những mâu thuẫn gì? (GV viết
nhanh lên bảng: nói xấu nhau, nhìn nhau thiếu thiện chí, lời nói thiếu tôn
trọng, hành động thô tục,…)
- Khi mâu thuẫn ấy xảy ra, chúng ta thường có những cách ứng xử nào?
- HS trả lời, GV chốt lại 3 cách sau:
+ Yên lặng, bỏ đi → thụ động, mâu thuẫn không được giải quyết dứt
điểm.
+ Khiêu khích, trả đũa (phổ biến) → hậu quả không hay.
+ Khẳng định mình, bao dung với người khác: Là người chủ trương
khẳng định mình trong việc giải quyết xung đột, bạn sẽ nói với người kia
bằng thái độ tôn trọng: “Tôi không thích khi bạn………”. Và “Tôi muốn
bạn…………”. Hoặc: “Tôi thực sự không thích kiểu đùa này”. Hoặc: “Tôi
cảm thấy………………khi bạn (làm)……………bởi vì……………..”.
- GV đưa ra một tình huống để học sinh thực hành cách giao tiếp tích
cực, “khẳng định mình”: Ví dụ: Bạn A nói xấu bạn B trên Facebook. Bạn B

biết chuyện, B nói với A như thế nào?
2. Hoạt động 2: Kết luận về cách rèn luyện lòng khoan dung:
- Khi ta biết trân trọng giá trị tốt đẹp ở người khác và thấy điều tích
cực trong mọi tình huống là lúc chúng ta có lòng khoan dung nhất.
- Biết giải quyết mọi xung đột hàng ngày giữa mọi người với nhau
bằng lòng khoan dung.
- Khi có những vướng mắc, xung đột, cần phải biết:
+ Chấp nhận sự khác biệt.
+ Không đòi hỏi quá nhiều ở mỗi bên.
+ Chia sẻ sự nhìn nhận những mặt tốt đẹp ở mỗi bên.
+ Biết cho qua những chuyện đã qua.
+ Mỗi người phải tự biết điều chỉnh, dung hòa nỗi bức xúc của
mình.
+ Hãy nhẹ nhàng, thanh thản bàn đến những điều tốt đẹp hơn.
+ Không có kẻ thua, người thắng, chỉ có điều tốt đẹp.
Tổng kết: Củng cố
1. Mỗi tổ vẽ một biểu tượng của lòng khoan dung.
2. Tìm những câu tục ngữ, danh ngôn nói về lòng khoan dung:
- Năm ngón tay, có ngón dài, ngón ngắn.
- Ăn nhạt mới biết thương mèo.
- Quá giận, mất khôn.
22


- Tiên trách kỉ, hậu trách nhân.
- Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại.
- Người bạn tốt nhất của tôi là người biết tha thứ và chỉ bảo cho tôi biết
lỗi lầm.
VI - PHỤ LỤC:


Một bát súp

Người ta nói rằng câu chuyện này là có thật; nó xảy ra trong một nhà
hàng tự phục vụ ở Thụy Sỹ.Một người phụ nữ khoảng 75 tuổi, cầm một cái
bát và đề nghị người phục vụ múc súp. Sau đó bà ngồi xuống một trong rất
nhiều bàn trong nhà hàng tự phục vụ này. Bà không ngồi xuống được khi
nhận ra rằng mình đã quên bánh mì. Vì vậy, bà đứng lên, cầm một cánh bánh
xốp nhân nho để ăn với súp, và đã quay trở lại ngồi xuống.
Thật ngạc nhiên! Bà thấy một người đàn ông da đen đang lặng lẽ ăn bát
súp. “ Thật quá sức chịu đựng!” người đàn bà nghĩ, “nhưng tôi sẽ không để
mình bị cướp mất bát súp.” Bà ngồi xuống bên cạnh người đàn ông da đen, xé
nhỏ chiếc bánh xốp ra, bỏ chúng vào cái bát trước mặt người đàn ông da đen
và đặt thìa của bà vào trong bát.
Người đàn ông da đen ân cần mĩm cười. Mỗi người ăn một thìa đầy cho
đến khi họ ăn hết bát súp. Tất cả đều im lặng. Khi bát súp đã được ăn hết,
người đàn ông da đen đứng dậy, tiến tới quầy bar và một ít phút sau quay lại
với một đĩa to mì ống và…hai cái dĩa. Cả hai người ngồi trước một cái đĩa
trong trong im lặng chờ đến lượt. Cuối cùng, người đàn ông dời bàn ăn. “Hẹn
gặp lại” Người đàn bà nói khi ông dời đi. “ Hẹn gặp lại” Người đàn ông trả
lời với nụ cười trong ánh mắt. Ông có vẻ thỏa mãn vì đã có một hành động tốt
và đi ra cửa.
Người đàn bà nhìn theo ông. Khi sự ngạc nhiên của bà đã giảm bớt, bà
với tay để lấy ví tiền mà bà đã bỏ lại trên cái ghế. Nhưng trước sự kinh ngạc
của bà, cái túi đã biến mất. “Chính” bà nghĩ “lão da đen đó…”. Bà chuẩn bị
kêu to, “Giữ lấy thằng kẻ cắp đó lại!” Khi ánh mắt của bà bắt gặp chiếc túi
của mình treo trên một chiếc ghế cách chỗ bà đang ngồi ăn hai bàn. Trên bàn
là một cái khay với một bát súp đã nguội lạnh….
Bà nhận ra ngay lập tức chuyện gì đã xảy ra. Không phải người đàn
ông Châu Phi đã ăn súp của bà. Chính bà là người đã ngồi nhầm bàn- và bà là
một người phụ nữ cao quý là người đã ăn món ăn của người châu Phi kia.

Chuyện về túi khoai tây
Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi nhựa
và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng,
mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết
tên của người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa. Chúng tôi thích
thú viết tên những người mình không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một
lúc sau, chiếc túi nào của chúng tôi cũng đã căng nặng, đầy khoai tây. Thậm
chí có người một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo.
Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang bên mình túi khoai tây đó bất
cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì mang
23


vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi cùng
bạn bè cũng phải đem theo.
Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và
phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh. Tình
trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước.
Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai ấy đi và cảm
thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng.
Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói: "Các em thấy không,
lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm chúng ta thật nặng nề và khổ
sở! Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh
nặng khó chịu ấy mãi trong lòng. Lòng vị tha, sự cảm thông với những lỗi
lầm của người khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng mọi người,
mà đó còn là một món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng bản thân mình".
5. Trung thực
5.1. Các điểm suy ngẫm
 Trung thực là luôn nói sự thực
 Khi tôi trung thực, tôi cảm thấy trong lòng sáng tỏ

 Một người đáng được tin cậy là một ngừi thật thà và trung thực
 Trung thực có ý nghĩa là không có sự mâu thuân và trái ngược nhau
trong các suy nghĩ, lời nói hay hành động
 Những hành động, lời nói, suy nghĩ trung thực tạo nên sự hài hòa
 Trung thực là sự nhận thức về những gì đúng đắn và thích hợp trong
vai trò, hành vi và các mối quan hệ của một người
 Với sự trung thực thì không có đạo đức giả hay sự giả tạo nên sự nhầm
lẫn và thiếu tin cậy trong tâm trí và cuộc sống của những người khác
 Trung thực làm cho cuộc sống toàn vẹn bởi vì bên trong và bên ngoài
chúng ta là một hình ảnh phản chiếu
 Trung thực là để sử dụng tốt những gì đã được người ta trông cậy vào
bạn
 Có mơi quan hệ sâu sắc giữa sự trung thực và tình bạn
 Đôi khi tính tham lam là gốc rễ của sự không trung thực
 Ở đây có đủ cho nhu cầu của con người, nhưng không đủ cho lòng
tham của con người
 Một con người trung thực biết rằng chúng ta tất cả đều có liên hệ với
nhau
 Để trung thực với cái tôi thực sự của một người và mục đích của một
nhiệm vụ đạt được sự trung thực và truyền niềm tin trong người khác
5.2. Các bài học về sự trung thực
Bài học 1: Một vở kịch
Đề nghị các học viên chuẩn bị các vở kịch đóng vai một nhân vật với
chủ đề trung thực và thiếu trung thực. Học vên có thể lấy bối cảnh từ những
câu chuyện họ đã sưu tập được từ những câu chuyện họ đã sưu tập được từ
các tin tức thời sự hoặc một bài đã được học ở lớp, ví dụ như: Văn phòng
chứng khoán và người đầu tư, Vua chúa phong kiến ở thời Trung cổ, một
24



cuộc xung đột hiện nay trên thế giói, hoặc một chủ đề rút ra từ một bài học
nghiên cứu xã hội. Nếu bạn làm việc với một nhóm lớn thì hãy chia ra thành
nhiều nhóm nhỏ. Sau vở kịch cả lớp có thể thảo luận các ảnh hưởng về mặt
kinh tế và xã hội. Hỏi:
 Có những tác động nào đến những người bị lừa dối?
 Tác động của sự thiếu trung thực đến cuộc sống của những người này
là gì?
Đề nghị các diễn viên bổ xung họ cảm thấy như thế nào từ quan điểm
chủ quan của mình.
Thảo luận các điểm suy ngẫm sau:
 Đôi khi tính tham lam là gốc rẽ của sự không trung thực
 Ở đây có đủ cho nhu cầu của con người, nhưng không đủ cho lòng
tham của con người.
Lưu ý: Diễn lại vở kịch một lần nữa, lần này hãy cho phép mỗi diễn
viên có một “cái bóng”, tức là một người nói những cảm xúc thực sự của
người diễn viên và trả lời các câu hỏi của cả lớp về các suy nghĩ của người
diễn viên. Một diễn viên có thể nhiều hơn một cái bóng khi những học viên
khác có những học viên khác có những ý tưởng khác nhau để chia sẻ.
Bài học 2: Một phút can đảm
Thảo luận các điểm suy ngẫm sau:
 Với sự trung thực thì không có đạo đưc giả hay sự giả tạo tạo nên sự
nhầm lẫn và thiếu tin cậy trong tâm trí và cuộc sống của những người
khác.
 Trung thực làm cho cuộc sông toàn vẹn bởi vì bên trong và bên ngoài
chúng ta là một hình ảnh phản chiếu.
Bài học 3: Các tấm card tình huống
Đề nghị các thanh niên hình thành các nhóm nhỏ và tạo ra cac tình
huống trong đó họ trở nên buồn bã khi những người khác không trung thực
hoặc không đáng tin cậy. Đè nghị họ điền vào tình huống trên Các tấm card
tình huống vê trung thực (trong phần phụ lục) và đóng vai một tình huống cho

cả lớp.
Nếu có thể thích hợp thì giáo viên có thể giới thiệu các kĩ năng quan hệ
giữa người với người sau đây hoặc đề nghị các học viên làm mẫu.
Thảo luận kết quả của mỗi cách. Đóng vai trong các tình huống đã
được đưa ra.
6. Khiêm tốn
6.1. Các điểm suy ngẫm
 Khiêm tốn được dựatrên lòng tự trọng
 Với lòng tự trọng có sự hiểu biết về những sức mạnh của một người,
Với sự cân bằng giữa lòng tự trọng và sự khiêm tốn có sự châp nhận và
đánh giá các phẩm chất từ bên trong của một người.
 Khiêm tốn cho phép mình lớn lên với phẩm giá và lòng chính trựckhông cần đến những bằng chứng của một thể hiện bên ngoài.
 Khiêm tốn làm cho lòng kiêu ngạo biến mất.
25


×