Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

những đề xuất về quản trị rủi ro hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.51 KB, 33 trang )

PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1 Khái niệm
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia
bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người
thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã
định trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm
nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói
cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng,
cuộc sống và tuổi thọ con người.
1.2 Vai trò của bảo hiểm nhân thọ
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Rủi ro là cái không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã
hội càng phát triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều
rủi ro đe doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá
nhân gia đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia
BHNT thì bản thân hoặc người thân, gia đình của bạn sẽ dược đảm bảo về mặt
tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro
không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp
hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm
cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và
tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi
ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro dưới
1


hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi này
vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại không
cố gắng vì đã có người khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với cả cá nhân


cũng như tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể tự
bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một khoản
tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo hiểm y tế, BHXH
người lao động còn được hưởng quyền lợi từ BHNT nếu họ tham gia). Bên
cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người lao động còn được hưởng
khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm gánh nặng cho gia đình
cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to
lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến
BHNT, từ đó mà lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Nhận
thức được tầm quan trọng của BHNT nên Nhà nước ta đã liên tục có những
chính sách để tạo điều kiện cho BHNTngày một phát triển mà bước tiến quan
trọng là sự cho phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường
BHNT Việt Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một
trong các biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu
tư phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và
tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có thể
trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.
Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BH Việt
Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn. Thêm vào đó, do đặc điểm
của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy động được có thể đem đầu tư

2


trong một thời gian dài đây là đựoc coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự
án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao
động.

Hoạt động BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo
hiểm, đội ngũ nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy,
phát triển BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số
lượng người thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần
tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng
và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục
ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các
biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan
trong vá ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời,
không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu
tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình.
Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư
cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của Xã hội mà còn là
trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua việc
tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của
người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có
trách nhiệm đối với người khác.

3


Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi cho
người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người là
nhân tố quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính sách
về con người là vô cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực hiện chiến
lược phát triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước.
1.3 Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ

BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với BH
phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH cho
người BH theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm trả một
số tiền lớn (STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận
khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này trả khi người được
bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho người thừa hưởng khi
người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được bảo hiểm. Số tiền này
không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp phần nào những tổn thất về
mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân, gia
đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng cách
mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo hiểm
không những tích luỹ về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho bản thân,
khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại chính, dó
chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm khác không có
dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang tính tiết kiệm vừa
mang tính bảo vệ.

4


BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham
gia bảo hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một mục
đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp rủi ro,
BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng được
nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể hiện khá rõ
trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An hưỏng hưu trí sẽ
đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một khoản tiền góp phần ổn

định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia thịnh vượng đáp ứng yêu cầu
của người tham gia là có được một khoản tiền lớn sau một thời gian ấn định
trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một vật thế chấp
để vay vốn khi người tham gia bảo hiểm gặp những khó khăn về mặt tài
chính, thủ tục cho vay được công ty bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không
như đi vay vốn ngân hàng hơn nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không
trả lại cho công ty BH (tất nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định
trong hợp đồng bảo hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có thị
trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.
Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của người
tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi sản phẩm
của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia khác nhau,
cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản phẩm phù
hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm.

5


Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình
định phí khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã
phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác, chi
phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần để
cấu tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm

+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên từng
vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính trị của
mỗi nước khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc trưng cơ
bản của từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều hướng
phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị trường...
BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất
định.

6


Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những
quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi
ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải thích
rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những điều kiện
kinh tế xã hội nhất định:


Những điều kiện về kinh tế

+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến
một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung
bình trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để
không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng được
những nhu cầu cao hơn.

+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng
mà đầu tư vào BHNT


Những điều kiện xã hội bao gồm:

Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động.
Một xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế
hoạch trung và dài hạn.
Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra đời và
phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình hình đất
7


nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho phù hợp và
tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là những ngành mới
như bảo hiểm.
1.4. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ.
Ở các nước trên Thế giới, hầu hết các Công ty bảo hiểm nhân thọ đều
đang bán 4 loại sản phẩm chính là:
- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn.
- Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.
- Bảo hiểm trợ cấp hưu trí.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
* Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn.
Nhà bảo hiểm nhận bảo hiểm đối với người tham gia trong một thời gian
nhất định gọi là thời hạn bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm chỉ được thanh toán trong
trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm. Nếu người
được bảo hiểm sống qua thời hạn bảo hiểm sẽ không được thanh toán bất kỳ

khoản gì. Độ dài của thời hạn bảo hiểm rất khác nhau. Tuy nhiên, ngày nay
thời hạn bảo hiểm của loại sản phẩm này ít khi dưới 1 năm.

* Bảo hiểm nhân thọ trọn đời.

8


Đây là loại hình có thời hạn bảo hiểm không xác định và số tiền bảo
hiểm chỉ được trả khi người được bảo hiểm chết. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời
kết hợp yếu tố tiết kiệm với rủi ro và không trả thêm bất kỳ quyền lợi nào.
* Bảo hiểm trợ cấp hưu trí.
Là loại hình mà phí bảo hiểm được đóng ngay một lần. Sau đó, Công ty
Bảo hiểm có trách nhiệm trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm từ khi
người được bảo hiểm về hưu cho đến khi chết.
Người ta thường kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hưu trí với bảo hiểm
hưu trí. Khi về hưu, người được bảo hiểm nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng
bảo hiểm hưu trí và mua ngay hợp đồng trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống
khi về hưu cho đến chết
* Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đảm bảo rằng số tiền bảo hiểm
được trả mà không quan tâm đến việc người được bảo hiểm có bị chết trong
thời hạn bảo hiểm hay không với điều kiện người được bảo hiểm phải đóng
phí theo như quy định. Mỗi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp đều quy
định ngày hết hạn bảo hiểm. Vào ngày đó công ty bảo hiểm sẽ trả tiền bảo
hiểm cho người được bảo hiểm nếu anh ta còn sống. Nếu người được bảo
hiểm chết trước khi hết hạn hợp đồng thì số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho
người được hưởng quyền lợi vào ngày người được bảo hiểm chết.
Như vậy, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp trả số tiền bảo hiểm ấn
định dù người được bảo hiểm vẫn còn sống đến ngày đáo hạn hợp đồng hoặc

chết trước khi hết hạn hợp đồng. Ngày hết hạn của hợp đồng có thể là ngày

9


cuối cùng của một thời hạn nào đó ví dụ sau 5,10,20 năm … Phí bảo hiểm
đóng cho loại bảo hiểm này cũng không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.

PHẦN II: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG
TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ

10


2.1 Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong hoạt động của công ty bảo
hiểm nhân thọ
Giúp Công ty bảo hiểm nhân thọ đánh giá chính xác các rủi ro
Xác định rủi ro là cách tiếp cận từ việc thiết lập các tiếp cận của Công ty
với rủi ro và sự không chắc chắn có thể xảy đến với Công ty. Điều này đòi hỏi
một kiến thức về thị trường, môi trường pháp lý, xã hội, chính trị và văn hóa
mà trong đó rủi ro tồn tại, cũng như sự hiểu biết của các mục tiêu chiến lược
và hoạt động. Điều này gồm kiến thức về những yếu tố quan trọng để thành
công hoặc các mối đe dọa và cơ hội đạt được các mục tiêu của Công ty.
Kết quả của phân tích rủi ro có thể được sử dụng để tạo ra một hồ sơ (có
thể thiết lập hệ thống về rủi ro) rủi ro, cho phép đánh giá (nội dung và lĩnh vực
gì) rủi ro để có thể phát hiện sớm và kiểm soát rủi ro. Các hoạt động phân tích
rủi ro hỗ trợ Công ty hoạt động hiệu quả đòi hỏi sự quan tâm sự quan tâm của
Lãnh đạo Công ty. Điều này tạo thuận lợi cho kiểm soát rủi ro tiềm năng của
Công ty. Sự biến động của phương pháp quản trị để thích ứng có sẵn rủi ro
bao gồm: sự thao túng, xử lý, chuyển giao và chấm dứt rủi ro. Một Công ty

bảo hiểm nhân thọ có thể quyết định kinh doanh chắc chắn và đó cũng là một
nhu cầu để cải thiện môi trường kiểm soát.
Giúp Công ty bảo hiểm nhân thọ đối phó với rủi ro trong các hoàn
cảnh nguy nan
Mục tiêu ứng phó rủi ro bao gồm như là yếu tố chính của rủi ro, kiểm
soát rủi ro (hoặc giảm nhẹ rủi ro), đòi hỏi phải dự đoán xa hơn. Ví dụ: việc
phòng tránh rủi ro, việc chuyển giao rủi ro của công ty bằng cách phân chia
rủi ro và lợi ích của công ty cho các đối tác khác và việc cuối cùng là tài trợ

11


tài chính cho hoạt động cho rủi ro. Bất kỳ hệ thống xử lý rủi ro nào cũng cần
phải xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả. Hiệu quả của kiểm soát nội
bộ là mức độ rủi ro sẽ được loại bỏ hoặc giảm rủi ro nhờ các biện pháp đề
xuất kiểm soát. Hiệu quả chi phí của kiểm soát nội bộ liên quan đến chi phí
thực hiện kiểm soát so với những lợi ích giảm thiểu rủi ro đạt được.
Tuân thủ pháp luật và các quy định là một yêu cầu bắt buộc không phải là
một khả năng có tính lựa chọn của Công ty bảo hiểm nhân thọ. Hoạt động của
Công ty bảo hiểm nhân thọ phải hiểu biết sâu sắc về pháp luật và phải thực
hiện một hệ thống kiểm soát tuân thủ pháp luật. Một phương pháp có bảo đảm
các nguồn lực tài chính chống lại các tác động của rủi ro phải đưa ra các các
rủi ro được lượng hóa dưới các tổn thất tài chính, và các phương
Giúp Công ty bảo hiểm nhân thọ xây dựng hệ thống thông tin phản
hồi
Hệ thống thông tin phản hồi để góp phần thực hiện những giám sát và
đánh giá hiệu suất và truyền thông và tư vấn trên hệ thống thống tin quản trị
rủi ro minh bạch và kịp thời. Công việc giám sát và xem xét nguy cơ rủi ro
phải đảm bảo rằng Công ty giám sát hiệu suất rủi ro và bài học từ kinh nghiệm
từ những rủi ro và tổn thất trước đây. Hệ thống thông tin phản hồi giúp việc

phản hồi thông tin liên quan đến rủi ro và kịp thời đưa ra quyết định giúp
Công ty vượt qua rủi ro và hạn chế các nguy cơ trong dài hạn.
Giúp Công ty bảo hiểm nhân thọ xây dựng khuôn khổ quản lý rủi ro
Tùy thuộc từng Công ty, chức năng quản lý rủi ro có thể từ một người
quản lý rủi ro một phần thời gian, một nhà quản trị rủi ro tốt nhất, một bộ
phận quản lý rủi ro quy mô đầy đủ. Vai trò của chức năng kiểm toán nội bộ
12


cũng sẽ khác nhau giữa các DN. Xác định vai trò thích hợp nhất đối với kiểm
toán nội bộ, DN cần phải đảm bảo sự độc lập và khách quan của kiểm toán nội
bộ không bị chi phối.
Phạm vi trách nhiệm quản lý rủi ro cần phải được phân bổ trong chính
sách sẽ được mở rộng và mở rộng. Bảng 2 đưa ra ví dụ về trách nhiệm quản lý
rủi ro có thể được phân bổ trong một Công ty lớn điển hình. Hội đồng quản trị
có trách nhiệm để xác định hướng chiến lược của Công ty và tạo ra bối cảnh
cho quản lý rủi ro. Từ đó đưa ra sự cần thiết phải được sắp đặt phù hợp để đạt
được cải tiến liên tục trong hoạt động và trách nhiệm chiến lược quản trị rủi ro
sẽ được phân bổ cho quản trị rủi ro cụ thể.
2.2 Quy trình quản trị rủi ro
2.2.1 Nhận diện rủi ro
Trong hoạt đông của mình công ty bảo hiểm nhân thọ tiến hành huy động
vốn từ nguồn phí bảo hiểm và tiến hành các các hoạt động đầu tư vào các
kênh như : cho vay thế chấp, trái phiếu, cố phiếu công ty, các hình thức đầu tư
khác như : bất động sản, góp vốn liên doanh, gửi tiết kiệm….
Có thể nói, một công ty bảo hiểm nhân thọ có 2 hoạt động chính:
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Hoạt động dầu tư.
a, Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Công ty bảo hiểm có thể gặp
phải những rủi ro như:

+ Rủi ro thanh khoản.
+ Rủi ro tác nghiệp.
+ Rủi ro đạo đức.

13


* Rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Công
ty bảo hiểm nhân thọ được hiểu là: Khi có tần suất cao những đòi hỏi thanh
toán bảo hiểm vào cùng 1 thời điểm, cùng với số tiền bảo hiểm lớn. Điều này
có thể khiến cho Công ty bảo hiểm nhân thọ gặp phải khó khăn trong khâu
thanh toán số tiền bảo hiểm cho khách hàng. Trường hợp bất đắc dĩ còn buộc
Công ty sẽ phải thanh lý tài sản để thực hiện hợp đồng bảo hiểm đã ké kết với
khách hàng.
* Rủi ro tác nghiệp: Khi ký kết một hợp đồng bảo hiểm với khách hàng,
có thể xảy ra sai sót (sai sót có lợi cho khách hàng), và phần lỗi này lại thuộc
về nhân viên của Công ty bảo hiểm. Khi có sự cố xảy ra, khách hàng sẽ yêu
cầu Công ty bảo hiểm buộc phải thực hiện theo hợp đồng đã ký kết và điều
này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Công ty. Ngoài ra, trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, rủi ro tác nghiệp còn xảy ra khi các nhân
viên hoặc đại lý thực hiện sai quy chế, quy trình bảo hiểm, đánh giá sai rủi ro.
* Rủi ro đạo đức: Trong bảo hiểm nhân thọ, tình trạng đại lý chạy theo
doanh thu, không làm đúng các quy trình tác nghiệp đang ngày càng phổ biến.
Thực tế cho thấy, việc làm này đã dẫn đến sự tranh chấp khi giải quyết bồi
thường bảo hiểm. Đó là: kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm hộ khách hàng, không
trực tiếp gặp người tham gia bảo hiểm hoặc người được bảo hiểm để kiểm tra
tình trạng tài chính và sức khoẻ của họ, phản ánh sai tình trạng sức khoẻ và
khả năng/ tình trạng tài chính của khách hàng trong báo cáo đại lý, chuyển về
công ty giấy yêu cầu bảo hiểm không đúng chữ ký của khách hàng, không
hướng dẫn khách hàng kê khai đầy đủ, trung thực giấy yêu cầu bảo hiểm.

Ngoài ra, nhiều đại lý cũng đã giải thích chưa đầy đủ, không rõ điều khoản
của hợp đồng, thậm chí thông đồng với khách hàng, cố tình làm sai lệch hồ sơ
giải quyết quyền lợi bảo hiểm, gây hậu quả xấu, ảnh hưởng đến hình ảnh, uy
tín của doanh nghiệp bảo hiểm.
14


Tình trạng các nhân viên bảo hiểm do vô tình hay cố ý ghi sai ngày tham
gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm, hoặc đại lý bảo hiểm thông đồng
với khách hàng, thậm chí, họ có thể vạch “đường đi nước bước” cho khách
hàng lợi dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định để trục lợi… Hiện tượng
khai sai, khai khống tai nạn của người tham gia bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm có hành vi thông đồng với những người liên quan như: y, bác sĩ, công
an, những người làm chứng trong các vụ tai nạn… đang khá phổ biến ở Việt
Nam.
Ngoài ra, có khá nhiều trường hợp khách hàng khi biết được tình trạng
sức khỏe của mình không tốt (bệnh tật có thể gây tử vong cao) mới đi mua
bảo hiểm nhân thọ để mong người thân nhận được tiền bảo hiểm sau khi mình
qua đời. Nếu Công ty bảo hiểm không kịp thời phát hiện thì rất dễ gây nguy
hai đến lợi ích của Công ty.
b, Trong hoạt động đầu tư, Công ty bảo hiểm có thể gặp phải những rủi
ro như:
+ Rủi ro lãi suất.
+ Rủi ro thị trường.
+ Rủi ro tỷ giá.
+ Rủi ro tín dụng.
* Rủi ro lãi suất trong hoạt động đầu tư của Công ty bảo hiểm nhân thọ
được hiểu là: Bởi vì các công ty bảo hiểm có một khối lượng lớn các chứng
khoán dài hạn có lãi suất cố định nên giá trị thị trường của các danh mục tài
sản có thể rất nhạy cảm với những biến động lãi suất. Khi lãi suất tăng, các

công ty bảo hiểm nhân thọ không có khả năng đảm bảo đủ vốn với những mức
lãi suất đó vì quỹ của công ty bị chôn trong các trái phiếu dài hạn.

15


* Rủi ro thị trường: Khi nền kinh tế suy giảm thì giá trị các danh mục
cổ phiếu hay bất động sản mà công ty bảo hiểm nhân thọ nắm giữ cũng bị suy
giảm theo. Điều này khiến cho Công ty bảo hiểm gặp phải thiệt hại.
* Rủi ro tỷ giá: Điều này xảy ra khi Công ty bảo hiểm mua Trái phiếu
bằng ngoại tệ. Trong trường hợp ngoại tệ mất giá, thì đương nhiên phần thiệt
hại do chênh lệch tỷ giá Công ty bảo hiểm sẽ phải gánh chịu.
- Rủi ro tín dụng : Trái phiếu công ty, các khỏan vay cầm cố, các chứng
khoán Chính phủ và bất động sản được nắm giữ trong danh mục tài sản của
các công ty bảo hiểm nhân thọ đều chịu rủi ro tín dụng.
2.2.2 Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là việc xác đinh mức độ rủi ro các các loại rủi ro. Các
công ty bảo hiểm nhân thọ phân tích đánh giá, nhận xét về mức độ tốt, xấu,
lớn nhỏ, tính nghiêm trọng của các dấu hiệu rủi ro đã được xác định và giải
thích khả năng ảnh hưởng của nhứng rủi ro đó đến hoạt động của công ty.
Hoặc các công ty bảo hiểm nhân thọ có thể đánh giá bằng số liệu cụ thể về
mức độ rủi ro của từng loại rủi ro đã được nhận diện.
Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải thường xuyên đánh giá khả
năng thanh toán, chỉ tiêu nguồn vốn, quỹ điểu chỉnh trên công nợ, chỉ tiêu nợ
phí trên nguồn vốn, quỹ ; tỷ lệ sinh lời đầu tư..
2.2.3 Kiếm soát rủi ro
Các công ty bảo hiểm nhân thọ thực hiện chiến lược kiểm soát rủi ro bao
gồm :
+ Các chiến lược giảm ảnh hưởng hoặc giảm khả năng xảy ra
+ Chiến lược phòng ngừa rủi ro

+ Chiến lược chuyển giao rủi ro
+ Chiến lược tránh rủi ro
16


* Né tránh rủi ro
- Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chấm dứt hoặc không tham gia vào
các haọt động, các công việc, các dự án có mức độ rủi ro quá cao
- Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ từ chối bảo hiểm cho những hợp đồng
bảo hiểm rủi ro lớn, không đủ điều kiện
- Chỉ nhận bảo hiểm cho những đối tượng quy định cụ thể cho từng
nghiệp vụ bảo hiểm, tương ứng với nó là phạm vi bảo hiểm
- Không đầu tư vào các lĩnh vưc có rủi ro cao : để đảm bảo khả năng sinh
lời nguồn vốn nhàn rỗi, doanh nghiệp chỉ tham gia đầu tư vào lĩnh vực có độ
rủi ro vừa phải hoặc độ an tòan cao.
Đối với những chính sách đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ, các
công ty phải đảm bảo ít nhất 1 trong các mục tiêu sau và nguyên tắc sau:
- Các tài sản đầu tư tài chính phải đảm bảo mức độ rủi ro thua lỗ thấp
nhất đến mức chấp nhận được
- Danh mục đầu tư phải được đa dạng hóa ở mức đủ để làm giảm bớt hơn
nữa rủi ro thua lỗ và có tính thanh khỏan cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán
bồi thường.
- Cơ cấu của danh mục đầu tư phải tương ứng với tính chất các trách
nhiệm để đảm bảo khả năng đáp ứng các thanh khoản theo hợp đồng cho
người tham gia bảo hiểm.
- Phải thực hiện các quy định của nhà nước về quản lý hoạt động đầu tư:
+ Danh mục đầu tư: Là danh mục các loại đầu tư mà công ty bảo hiểm
nhân thọ được phép thực hiện. Danh mục mà công ty bảo hiểm nhân thọ nắm
giữ có độ rủi ro và tính thanh khỏan chấp nhận được. Theo thông tư số 72/TC
BTC ngày 28-8-2001 của Bộ tài chính thì danh mục đầu tư gồm có : Mua


17


công trái, tín phiếu kho bạc nhà nước, góp vốn liên doanh, gửi ngân hàng và
các tổ chức tín dụng, cho vay thế chấp.
+ Những giới hạn tối đa, tối thiểu với các loại đầu tư. Những giới hạn tối
đa được áp dụng đối với những loại đầu tư bị coi là có mức độ rủi ro cao ví
dụ: Cổ phiếu công ty, bất động sản và cho vay. Mức giới hạn tối đa và tối
thiểu với các loại đầu tư thường được ấn định bằng một tỷ lệ phần trăm chứ
không phải bằng một con số cụ thể. Theo thông tư trên thì mức giới hạn tối đa
là 35% tổng vốn dự phòng nghiệp vụ.
Những giới hạn tối thiểu cũng phải được áp dụng theo quy định của pháp
luật nhất là đầu tư vào chứng khoán.
+ Những hạn chế đối với 1 khỏan đầu tư : Luật bảo hiểm không chỉ hạn
chế đối với từng loại hình đầu tư mà còn hạn chế đối với mỗi khỏan đầu tư.
+ Duy trì tỷ lệ hợp lý giữa các khoản đầu tư và nghĩa vụ của công ty bảo
hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Yêu cầu này được xuất phát từ nguyên
tắc mà theo đó các công ty bảo hiểm phải luôn đảm bảo phần chênh lệch giữa
tài sản nợ nằm trong giới hạn nhất định
+ Giới hạn hoạt động đầu tư ra nước ngòai.
Ngoài ra các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng phải đảm bảo các nguyên
tắc sau :
- Nguyên tắc an tòan : nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu tư và bảo
tòan nguồn vốn sử dụng do hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro
Khi tiến hành các hoạt động đầu tư công ty bảo hiểm nhân thọ cần chú ý
đến tát cả những rủi ro để hoạt động đầu tư hiệu quả hơn, trứớc những rủi ro
đó thì việc đảm bảo an tòan vốn là rất quan trọng, nó đảm bảo khả năng thanh
toán của doanh nghiệp bảo hiểm, tạo lòng tin từ khách hang từ đó tăng them
uy tín cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu công ty bảo hiểm phải đa

dạng hóa danh mục đầu tư của mình nhằm phân tán rủi ro.
18


- Nguyên tắc sinh lời
Lợi nhuận luôn là mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư. Với công ty
bảo hiểm thì lợi nhuận là vô cùng cần thiết vì nó giúp công ty tăng cường sức
mạnh tài chính, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Lợi nhuận cao thì rủi ro
cũng tăng theo. Vì vậy cần phải đảm bảo nguyên tắc an tòan vừa đem lại mức
lợi nhuận mong muốn.
- Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên
Việc xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm có thể diễn ra bất ngờ ngoài
dự tính, đồng thời trong quá trình hoạt động thường có các khiếu nại từ phái
người bảo hiểm nên các công ty bảo hiểm phải dữ lại một tỷ lệ đầu tư nhất
định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để đảm bảo thanh toán
ngay khi cần thiết.
Trong quá trình kinh doanh thì bản thân các công ty bảo hiểm cũng có thể
gặp phải rủi ro gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của công ty. Vì vậy
công ty bảo hiểm phải trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc để không những đảm
bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà còn bảo về quyền lợi cho người
tham gia bảo hiểm. Theo luật kinh doanh bảo hiểm các công ty bảo hiểm phải
trích 5% lợi nhuận sau thuế để lập quỹ dự trữ bắt buộc.
+ Lãi năm trước chưa sử dụng và lợi nhuận để lại:
Vào cuối năm tài chính, lợi nhuận sau thế của công ty được sử dụng để
trích lập các quỹ khen thưởng, đầu tư phát triển…phần còn lại sẽ được bổ
sung vào nguồn vốn đầu tư của công ty
Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm còn có các
quỹ đầu tư hình thành từ lợi tức để lại để đảm bảo cho nhưng cam kết có chia
lãi
+ Dự phòng nghiệp vụ bảo hiềm


19


Dự phòng nghiệp vụ là quỹ bắt buộc công ty bảo hiểm phải thực hiện
cam kết trong mọi tình huống. Quỹ dự phòng có vai trò điều chỉnh thu cho và
lợi nhuận của công ty bảo hiểm, đảm bảo công ty luôn trong tình trạng phát
triển ổn định.
Quỹ dự phòng nghiệp vụ của công ty bảo hiểm gồm:
+ Dự phòng toán học
+ Dự phòng chi trả
+ Dự phòng đảm bảo cân đối
+ Dự phòng chia lãi
Khi khả năng thanh toán không được đảm bảo, DNBH phải lập và báo
cáo ngay với Bộ Tài chính phương án tài chính để bổ sung phần thiếu hụt.
Phương án tài chính phải được thực hiện trong 90 ngày kể từ ngày phát hiện
có sự thiếu hụt khả năng thanh toán.
- Đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Theo pháp luật về KDBH tại VN hiện nay, một DNBH được coi là đủ
khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và
có biên khả năng
thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu. Biên khả
năng thanh toán là khoản chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải
trả của DNBH tại
thời điểm xác định khả năng thanh toán. Theo Thông tư 125/2012-BTC,
khi xác định biên thanh toán, tùy thuộc vào tính thanh khoản của từng loại tài
sản hay khoản phải thu mà được tính toàn bộ hay loại trừ một phần (theo tỷ lệ
%) hoặc loại trừ toàn bộ giá trị hạch toán.
Theo quyết định số 153/2003/QĐ- BTC “ Chỉ tiêu khả năng thanh toán
được tình bằng tỷ lệ giữa nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh toán

của doanh nghiệp và biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định hiện
20


hành. Nguồn vốn, quỹ để xác định biên khả năng thanh toán là nguồn vốn,
quỹ trừ đi số vốn góp vào doanh nghiệp bảo hiểm khác và không có khả năng
thu hồi.
Khả năng thanh toán = nguồn vốn, quỹ xác định biên khả năng thanh
toán/ biên khả năng thanh toán tối thiểu
Biên khả năng thanh toán tối thiểu bằng tổng 4% dự phòng nghiệp cụ và
0.1% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro ( đối với hợp đồng có thời hạn dưới 5 năm),
hoặc 0.3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro ( đối với hợp đồng trên 5 năm).
2.2.4 Tài trợ rủi ro
Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thường tiến hành các công cụ vốn
dự phòng để tài trợ cho những rủi ro gặp phải.gồm có: a) DP toán học; b) DP
phí chưa được hưởng ; c) DP bồi thường; d) DP chia lãi; e) DP bảo đảm cân
đối; f) Các loại DP áp dụng riêng cho loại hình bảo hiểm liên kết đầu tư và
hưu trí;
Mỗi loại DPNV có nhiều phương pháp trích lập. Đối với DP phí chưa
được hưởng là các phương pháp trích lập theo tỷ lệ phần trăm (%), trích lập
theo hệ số 1/8 hoặc 1/24 hoặc 1/365; đối với DP bồi thường là các phương
pháp thống kê, theo từng hồ sơ, theo nhịp độ bồi thường. Trong bảo hiểm
nhân thọ, DP toán học có thể áp dụng phương pháp DP phí thuần hoặc DP phí
Zillmerized,... DNBH phải tuỳ thuộc vào đặc tính của loại nghiệp vụ, các điều
kiện mọi mặt về trình độ công nghệ bảo hiểm để lựa chọn phương pháp thích
hợp. DNBH không được thay đổi phương pháp trích lập DPNV trong năm tài
chính. Trong trường thay đổi phương pháp trích lập DPNV cho năm tài chính
kế tiếp DNBH phải đề nghị và được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản
trước khi áp dụng.


21


2.3 Ví dụ về quản trị rủi ro trong hoạt động công ty bảo hiểm Bảo
Việt nhân thọ
2.3.1 Nhận diện rủi ro
Hoạt động của Bảo việt nhân thọ cũng chịu sự tác động của rủi ro sau :
a.

Rủi ro bảo hiểm

b.

Rủi ro tài chính như : rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất,

rủi ro thanh khỏan và rủi ro thị trường
2.3.2 Quản lý rủi ro bảo hiểm
Bảo Việt nhân thọ quản lý rủi ro bảo hiểm của mình bằng hạn mức khai
thác bảo hiểm, các quy trình thủ tục phê duyệt cho ácc giao dịch có liên quan
đến sản phẩm mới hoặc các giao dịch vượt quá han mức, đa dạng hóa rủi ro,
đưa ra nguyên tắc định giá, nguyên tắc tái bảo hiểm và giám sát các vấn đề
nảy sinh
Bảo việt Nhân thọ sử dụng nhiều phương pháp để đánh giá và giám sát
rủi ro bảo hiểm đối với các loại rủi ro cụ thể và rủi ro chhung. Các phương
pháp này bao gồm mô hình đo lường rủi ro nội bộ, các phân tích về độ nhạy,
phân tích tình huống. Các lý thuyết xác suất được áp dụng để xác định mức
phí bảo hiểm và danh mục các loại sản phẩm bảo hiểm có thể áp dụng.
Quy trình xây dựng các giả định của Bảo Việt nhân thọ đưa ra nhằm ước
tính thận trọng và ổn định về kết quả tương lai. Hoạt động kiểm tra hàng năm
được thực hiện đảm bảo mức chên lệch giữa giả định áp dụng và ước tính khả

thi nhất với kết quả tương lai nằm trong giới hạn chấp nhận được.
Các giả định cơ bản trong sử dụng tính toán dự phòng cho các hợp đồng
dài hạn gồm:
- Bảng tỷ lệ tử vong
- Bảng phân loại bệnh tật

22


- Lãi suất : Bảo Việt nhân thọ sử dụng tỷ lệ lãi suất cho nhóm bảo hiểm
truyền thống, cụ thể là 5.3% đối với sản phẩm tham gia chia lãi và 2.05% với
sản phẩm không chia lãi.
Bảo Việt Nhân thọ cũng thực hiện chính sách quản lý rủi ro thông qua tái
bảo hiểm, chuyển giao 1 phần rủi ro của hợp đồng bảo hiểm cho công ty nhận
tái bảo hiểm cố định. Mức giữ lại phụ thuộc vào khả năng tài chính, mức độ
rủi ro của đối tượng bảo hiểm.
Hoạt động quản lý rủi ro bảo hiểm đặt ra, Bảo Việt nhân thọ đã thiết lập
và áp dụng đầy đủ các quy trình đánh giá rủi ro trước khi chấp nhận bảo hiểm,
quy trình chuyển giao rủi ro bảo hiểm ( tái bảo hiểm), quy trình giám định tổn
thất và quy trình giải quyết bồi thường.
Đối với hoạt động khai thác bảo hiểm, Bảo Việt nhân thọ đa dạng hóa
loại hình rủi ro, áp dụng tiêu chí lựa chọn rủi ro. Bảo Việt nhân thọ tăng cường
đánh giá rủi ro tích tụ và đưa ra các quy định về chấp nhanạ bảo hiểm đối với
các nghiệp vụ khác nhau, các địa phương khác nhau để phân tán rủi ro, tránh
tích tụ rủi ro.
Đối với rủi ro được chấp nhận bảo hiểm, Bảo Việt nhân thọ đã xác định
tỷ lệ phí bảo hiểm áp dụng đối với từng nhóm rủi ro dựa trên kinh nghiệm tổn
thất và dự báo, xu thế của rủi ro, lạm phát, mức độ cạnh tranh, các quy định
của phảp luật
Việc giám định tổn thất và giải quyết bồi thường đã được thực hiện theo

2 cấp. Những vụ tổn thất lớn có tính chất phức tạp đều đã được xử lý và bồi
thường tập trung.
Dự phòng tổn thất chưa giải quyết của Bảo Việt Nhân thọ được trích lập
cho các tổn thất đã thông báo hoặc yêu cầu đòi bồi thường nhưng đến cuối
năm chưa giải quyết.
2.3.1 Quản lý rủi ro tài chính
23


a. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng của Bảo việt nhân thọ có thể phát sinh từ hoạt động tín
dụng bảo hiểm, hoạt động đầu tư tài chính ( tiền gửi, trái phiếu và các công cụ
tài chính khác), hoạt động cho vay của ngân hàng và hoạt động kinh doanh
khác.
Tín dụng bảo hiểm : Tình trạng người tham gia bảo hiểm chưa thực hiện
được đầy đủ và đúng hạn việc đóng phí bảo hiểm. Để giảm thiểu rủi ro này,
Bảo Việt Nhân thọ đã ban hành và yêu cầu tuân thủ chặt chẽ quy trình gia hạn
đóng phí bảo hiểm. Những người tham gia bảo hiểm bị đánh giá tín dụng thấp,
không có khả năng đóng phí sẽ bị chấm dứt hiệu lực hợp đồng và tiếp tục theo
dõi công nợ để làm các thủ tục đòi hoặc xóa nợ. Đối với các khoản phí không
đóng đúng thời hạn, Bảo Việt Nhân thọ sẽ theo dõi và trích lập dự phòng như
quy định của nhà nước .
Đối với các hợp đồng nhượng tái bảo hiểm, sau khi phân bổ trách nhiệm
đối với tổn thất cho các nhà nhận tái bảo hiểm, Bảo Việt Nhân thọ cũng chú
trọng kiểm soát rủi ro này khi chỉ nhượng tái bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm
được xếp hạng bởi các tổ chức hàng đầu thế giới. Đối với các nhà nhận tái bảo
hiểm trong nước không được xếp hạng tín dụng, Bảo Việt Nhân thọ cũng có
những đánh giá riêng và theo dõi chặt chẽ diễn biến khả năng tài chính.
Các khỏan đầu tư tiền gửi : Để phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng
từ hoạt động đầu tư tài chính, Bảo Việt Nhân thọ đã xây dựng và triển khai mô

hình đánh giá tín dụng nội bộ chi tiết. Hội đồng quản lý rủi ro của Công ty đã
xác định hạn mức tín dụng tại các Ngân hàng mà Công ty gửi và hạn mức này
được rà soát lại định kỳ 6 tháng.
Đầu tư trái phiếu : Bảo Việt Nhân thọ đầu từ cả vào trái phiếu doanh
nghiệp và trái phiếu Chính phủ. Rủi ro chính của hoạt động đầu tư trái phiếu
doanh nghiệp là khả năng thanh tóan của tổ chức phát hành tại thời điểm
24


thanh toán trái tức và gốc trái phiếu. Trong trường hợp tổ chức phát hành mất
khả năng thanh toán thì Bảo Việt Nhân thọ sẽ tiến hành xừ lý tài sản đảm bảo.
Trái phiếu Chính phủ ít rủi ro hơn và đang chiếm mức độ lớn trong danh mục
đầu tư.
Bảng 1 : Phân loại chất lượng tín dụng toàn bộ tài sản tài chính có liên
quan đến rủi ro tín dụng ngày 31/12/2012

Bảng 2 : Phân loại chất lượng tín dụng toàn bộ tài sản tài chính có liên
quan đến rủi ro tín dụng ngày 31/12/2012

25


×