Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

một số câu hỏi và tình huống của pháp luật dân sự đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.31 KB, 33 trang )

CHỦ ĐỀ 1.
MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ TÌNH HUỐNG CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Câu hỏi 1. Năng lực pháp luật của cá nhân được hiểu như thế nào?
Trả lời:
Cá nhân là một trong các chủ thể của quan hệ dân sự. Để tham gia vào các
quan hệ dân sự, cá nhân phải có tư cách chủ thể hay năng lực chủ thể, được tạo
thành bởi năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân được quy định tại Điều 14 Bộ luật dân
sự năm 2005:

“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân
sự và nghĩa vụ dân sự.
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có được từ khi người đó sinh ra và chấm
dứt khi người đó chết”.
Nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ mà pháp luật dân sự quy định cho cá nhân. Các quyền và nghĩa vụ dân sự
của cá nhân được ghi nhận ở Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Bộ luật
dân sự năm 2005 và nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Theo quy định của pháp luật dân sự cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự sau
đây:
- Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản;
- Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản;
- Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp do
pháp luật quy định (Điều 16 Bộ luật dân sự năm 2005).
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng, là tiền đề, là thành phần
không thể thiếu được của cá nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự, là một mặt của năng lực chủ thể.




Câu hỏi 2. Năng lực hành vi dân sự là gì? Phân biệt năng lực hành vi dân sự
của người chưa thành niên với năng lực hành vi dân sự của người thành niên?
Trả lời

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17 Bộ luật dân sự năm
2005).
Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự của mỗi chủ thể thì
năng lực hành vi dân sự là khả năng hành động của chính chủ thể để thực hiện quyền
và nghĩa vụ của họ. Ngoài ra, năng lực hành vi dân sự còn bao hàm cả năng lực tự
chịu trách nhiệm dân sự khi vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự là hai thuộc tính tạo thành tư
cách chủ thể độc lập của cá nhân trong các quan hệ dân sự.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân không giống nhau mà phụ thuộc vào lứa
tuổi, thể chất của mỗi cá nhân vì những cá nhân khác nhau, có nhận thức khác nhau
về hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định cụ thể về năng lực hành vi dân sự của người thành niên và năng lực hành vi dân
sự của người chưa thành niên như sau:

- Đối với người thành niên:
Người thành niên là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Theo quy định của pháp
luật dân sự: Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp bị
Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
Mất năng lực hành vi dân sự là trường hợp người bị bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nếu có yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.

Hạn chế năng lực hành vi dân sự là trường hợp người nghiện ma túy hoặc = các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì có thể bị Tòa án ra quyết


định tuyên bố là người hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan.
- Đối với người chưa thành niên:

+ Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổikhi xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật
có quy định khác.

+ Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có tài
sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
+ Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự.
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp
luật xác lập, thực hiện.

Tình huống 3. Sau giờ học, Huyền và Ngọc - hai em học sinh lớp 6 trao đổi với
nhau về các quy định của pháp luật dân sự. Huyền cho rằng mình có quyền thực hiện
các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi của
mình. Còn Ngọc chưa hiểu rõ lắm các quy định đó. Em muốn hỏi ý kiến của Huyền có
chính xác không?
Trả lời
ý kiến của Huyền là chính xác.
Theo quy định của pháp luật dân sự (Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm
2005) người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện

các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Giao dịch này thường là các giao dịch có giá trị nhỏ, mục đích là để phục vụ nhu
cầu sinh hoạt, học tập, vui chơi hàng ngày trong cuộc sống, được người đại diện của
họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của người đại diện. Ví dụ
như: mua đồ dùng học tập, sách vở, đồ chơi...


Câu hỏi 4. Quyền nhân thân là gì? Theo quy định của Bộ luật Dân sự, cá nhân
có những quyền nhân thân nào?
Trả lời

“Quyền nhân thân” là thuật ngữ pháp lý để chỉ những quyền dân sự gắn với bản
thân mỗi con người và đời sống riêng tư của họ mà không thể chuyển giao cho người
khác,
Điều 24 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển
giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được ghi nhận trong pháp luật
dân sự và chủ yếu tập trung trong Bộ luật dân sự.
Quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền dân sự cơ bản của con
người được pháp luật bảo hộ. Việc tôn trọng quyền nhân thân của người khác là nghĩa
vụ của mọi người và cũng là nghĩa vụ của chính người đó. Khi thực hiện quyền nhân
thân của mình về nguyên tắc không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác. Bộ luật dân sự quy định 26 quyền nhân thân của cá nhân từ Điều 26 đến
Điều 51, bao gồm:
- Quyền đối với họ, tên (Điều 26)
- Quyền thay đổi họ, tên (Điều 27)
- Quyền xác định dân tộc (Điều 28)
- Quyền được khai sinh (Điều 29)

- Quyền được khai tử (Điều 30)
- Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31)
- Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32)
- Quyền hiến bộ phận cơ thể (Điều 33)
- Quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34)
- Quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35)
- Quyền xác định lại giới tính (Điều 36)
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37)


- Quyền bí mật đời tư (Điều 38)
- Quyền kết hôn (Điều 39)
- Quyền bình đẳng vợ chồng (Điều 40)
- Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình (Điều 41)
- Quyền ly hôn (Điều 42)
- Quyền nhận, không nhận cha, mẹ (Điều 43)
- Quyền được nhận làm con nuôi (Điều 44)
- Quyền đối với quốc tịch (Điều 45)
- Quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở (Điều 46)
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47)
- Quyền tự do đi lại, cư trú (Điều 48)
- Quyền lao động (Điều 49)
- Quyền tự do kinh doanh (Điều 50)
- Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 51)
Câu hỏi 5. Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân được Bộ luật dân sự 2005

quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 25 của Bộ luật dân sự 2005, khi quyền nhân thân của cá
nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền sử dụng các phương thức sau để bảo vệ:

- Tự mình cải chính
- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
- Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm bồi thường thiệt hại.

Tình huống số 6. Khi sinh Hận, bố em đi làm xa, bỏ mặc mẹ con em, mẹ em
buồn chán, đặt tên con là Hận và cho mang họ của mẹ. Khi đi học, do bị bạn bè trêu
chọc nên nhiều lần em về xin mẹ được đặt tên khác. Lúc này bố em cũng đã trở về
nhận lỗi và đoàn tụ gia đình, nên bố mẹ em cũng muốn đổi họ của em từ họ của mẹ


sang họ của bố và đổi tên khác dễ nghe hơn cho con gái. Xin hỏi em có được thay đổi
họ, tên không? Pháp luật dân sự quy định về vấn đề này như thế nào?
Trả lời
Hận có quyền được thay đổi họ, tên. Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật dân sự
năm 2005, cá nhân có quyền thay đổi họ, tên của mình trong các trường hợp sau:
- Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn,
ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
- Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi
hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ
yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
- Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho
con;
- Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
- Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của
mình;
- Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
- Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của

người đó.
Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự được xác lập theo họ, tên cũ.

Câu hỏi 7. Xin cho biết các quy định về quyền được khai sinh của cá nhân?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 29 Bộ luật dân sự năm 2005 thì cá nhân khi sinh ra có
quyền được khai sinh.
Quyền được khai sinh là một trong những quyền quan trọng của mỗi cá nhân để
khẳng định sự tồn tại của cá nhân đó trong một Nhà nước và được nhà nước công
nhận là một công dân của Nhà nước đó. Quyền được khai sinh là cơ sở pháp lý quan


trọng để cá nhân thực hiện các quyền khác như quyền có họ tên, có quốc tịch và các
quyền dân sự khác.
Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá
nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc;
quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người
đó.
Để thực hiện quyền được khai sinh đối với trẻ em pháp luật về quản lý và đăng
ký hộ tịch quy định trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách
nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc
những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.

Thẩm quyền đăng ký khai sinh:
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc đăng ký khai
sinh cho trẻ em; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì Ủy ban nhân
dân cấp xã, nơi cư trú của người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của người mẹ và người cha,
thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc

đăng ký khai sinh.
Trường hợp không thực hiện việc đăng ký khai sinh trong thời hạn quy định thì
phải đăng ký theo thủ tục đăng ký quá hạn.
Thẩm quyền đăng ký khai sinh quá hạn quy định như sau :
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh thực hiện việc
đăng ký khai sinh quá hạn.
Trong trường hợp người đã thành niên đăng ký khai sinh quá hạn cho mình, thì
có thể đăng ký tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh theo
quy định hoặc tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó cư trú.
Khi đăng ký khai sinh quá hạn cho người đã có hồ sơ, giấy tờ cá nhân như: Sổ
hộ khẩu, Giấy chứng minh nhân dân, học bạ, bằng tốt nghiệp, lý lịch cán bộ, lý lịch
đảng viên, mà trong các hồ sơ, giấy tờ đó đã có sự thống nhất về họ, tên, chữ đệm;
ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch, quê quán, thì đăng ký đúng theo nội dung


đó. Trường hợp họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán
trong các hồ sơ, giấy tờ nói trên của người đó không thống nhất thì đăng ký theo hồ
sơ, giấy tờ được lập đầu tiên. Trong trường hợp địa danh đã có thay đổi, thì phần khai
về quê quán được ghi theo địa danh hiện lại.
Phần khai về cha mẹ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được ghi
theo thời điểm đăng ký khai sinh quá hạn.

Tình huống 8. Để kỷ niệm năm học cuối cùng ở Trung học cơ sở, Quyên và các
bạn rủ nhau đi chụp ảnh trong công viên. Trong lúc nhóm bạn đang vui đùa chụp ảnh
thì có một cô phóng viên đến xin được chụp ảnh cả nhóm để đưa lên báo. Nghe thế
cả nhóm bạn của Quyên rất vui. Trong lúc nói chuyện, Quyên nghe cô phóng viên nói
mỗi người đều có quyền đối với hình ảnh của mình, nên Quyên muốn được biết về nội
dung của quyền này?
Trả lời
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình là quyền nhân thân nằm trong

nhóm các quyền dân sự của cá nhân.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh được quy định tại Điều 31 Bộ luật dân sự
năm 2005. Nội dung quyền bao gồm :
- Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình.
- Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý, trong trường
hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải được cha,
mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý.
Để bảo vệ quyền của cá nhận đối với hình ảnh của mình, Pháp luật nghiêm cấm
việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của
người có hình ảnh.

Câu hỏi 9. Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể của
cá nhân dược pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời
Quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thểcủa cá nhân
được quy định tại Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:


- Cá nhân có quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể.
- Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì người phát
hiện có trách nhiệm đưa đến cơ sở y tế; cơ sở y tế không được từ chối việc cứu chữa
mà phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện có để cứu chữa.
- Việc thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một người, việc gây
mê, mổ, cắt bỏ, cấy ghép bộ phận của cơ thể phải được sự đồng ý của người đó; nếu
người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự hoặc là bệnh nhân bất tỉnh thì
phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ của người đó
đồng ‎ý; trong trường hợp có nguy cơ đe dọa đến tính mạng của bệnh nhân mà không
chờ được ý kiến của những người trên thì phải có quyết định của người đứng đầu cơ
sở y tế.
- Việc mổ tử thi được thực hiện trong các trường hợp:

+ Có sự đồng ý của người quá cố trước khi người đó chết;
+ Có sự đồng ý của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người giám hộ
khi không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết;
+ Theo quyết định của tổ chức y tế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
trường hợp cần thiết.

Câu hỏi 10. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín được Bộ luật Dân
sự 2005 quy định như thế nào?
Trả lời
Theo Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2005, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá
nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Danh dự của cá nhân thể hiện sự coi trọng của dư luận xã hội đối với cá nhân
đó, dựa trên những giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp. Nhân phẩm của cá nhân là
những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân đó. Uy tín cá nhân thể hiện sự tín
nhiệm và mến phục của cộng đồng hoặc một bộ phận dân cư đối với cá nhân đó.
Mỗi cá nhân đều có quyền được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ về danh dự,
nhân phẩm, uy tín. Đồng thời, mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác.


Tình huống 11. Giờ ra chơi, Thủy thấy Lan bạn học cùng lớp có thư gửi về từ
Trường Sa. Hôm nay Lan lại nghỉ học. Lan vẫn hay tâm sự với Thủy là bố Lan công
tác ở ngoài đó, Lan rất yêu bố và thường xuyên mong thư của bố. Thủy háo hức định
mở bức thư ra đọc xem có chuyện gì hay không, để còn thông báo cho Lan. Song một
người bạn khác đã can ngăn Thủy không nên làm như thế vì mọi người có quyền bí
mật đời tư. Điều đó đúng hay không?
Trả lời
Ý kiến của người bạn là hoàn toàn chính xác vì mỗi người có quyền bí mật đời
tư. được quy định tại Điều 73 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005.

Điều 73 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Thư tín,
điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ
ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm
quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”.
Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
”...Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân
được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác
của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Tình huống 12. Khi mẹ Minh sinh được em Thịnh là con trai, bố mẹ Minh rất
hạnh phúc. Song từ đó, Minh, vì là con gái, nên không còn được bố mẹ yêu thương,
chăm sóc như trước đây. Đặc biệt, nhiều hôm, mẹ Minh còn bắt Minh nghỉ học phụ
mẹ, trông em khi em ốm. Minh rất buồn. Thấy Minh gày gò và ốm yếu, hay nghỉ học
cô giáo Minh đã hỏi chuyện và đến nhà động viên bố mẹ Minh cho Minh tiếp tục đi học
và quan tâm chăm sóc cho em. Xin hỏi pháp luật quy định thế nào về quyền được
hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình ?
Trả lời:


Quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình được quy
định tại Điều 41 Bộ luật dân sự năm 2005, theo đó
Các thành viên trong gia đình có quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau
phù hợp với truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam.
Con, cháu chưa thành niên được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ,
ông bà; con, cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà.
Đối với người chưa thành niên, được chăm sóc, nuôi dưỡng nhằm đáp ứng nhu
cầu về vật chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể có, với mức sống ngày càng được

nâng cao là quyền của trẻ em và là mục tiêu phấn đấu chung của gia đình, Nhà nước
và xã hội.
Điều 12 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 cụ thể hóa quyền
của trẻ em do Hiến pháp năm 1992 ghi nhận trẻ em có “quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức”.
Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định rõ về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ
trong việc chăm sóc, giáo dục con tại các Điều 34, 37 như sau:
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập
và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành
người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
- Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc
phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được
xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con
học tập.
- Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,
hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và
các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con.

Tình huống 13. Do bác ruột của T không có khả năng sinh nở nên muốn nhận T
làm con nuôi để sau này có người phụng dưỡng. Nhà T lại đông con cái, kinh tế có


phần khó khăn, nên bố mẹ T cũng đã cân nhắc và suy nghĩ. Xin hỏi T có quyền được
nhận làm con nuôi hay không?
Trả lời:
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con
nuôi và người được nhận làm con nuôi, nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con
nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình phù

hợp với đạo đức xã hội.
Điều 44 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về quyền được nuôi con nuôi và
quyền được nhận làm con nuôi như sau:
Quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi của cá nhân được
pháp luật công nhận và bảo hộ.
Việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi được thực hiện theo quy định của
pháp luật.
Điều 8 Luật nuôi con nuôi quy định về người được nhận làm con nuôi gồm :
- Trẻ em dưới 16 tuổi.
-. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
+ Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
+ Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người
là vợ chồng.
Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi quy định : Việc nhận nuôi con nuôi phải
được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc
mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì
phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người


giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được
sự đồng ý của trẻ em đó.
Như vây, T có quyền được bác nhận làm con nuôi. Việc nhận con nuôi cần có
sự đồng ý của T.

Tình huống 14. Ngày chủ nhật, bố mẹ có việc đi vắng nên dặn dò em K 12 tuổi

phải ở nhà vừa học bài vừa trông nhà. Bỗng nhiên có một người lạ gõ cửa tự xưng là
nhân viên truyền hình cáp, đề nghị em K mở cửa cho vào nhà kiểm tra đường dây
truyền hình cáp của gia đình. Em K không đồng ý và nói người đó phải chờ bố mẹ về
vì mỗi cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Xin hỏi, ý kiến của em K có
chính xác hay không?(bỏ)
Trả lời:
Ý kiến của em K hoàn toàn chính xác. Theo quy định tại Điều 46 Bộ luật dân sự:
cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Việc vào chỗ ở của một người phải
được người đó đồng ý. Chỉ trong trường hợp được pháp luật quy định và phải có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được tiến hành khám xét chỗ ở của
một người; việc khám xét phải theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

Tình huống 15. H rất yêu văn học, thời gian rảnh rỗi em thường mua sách báo
đọc rồi còn làm thơ, viết văn và tích cực tham gia các hoạt động sáng tạo nghệ thuật
do nhà trường phát động. Mẹ em lo sợ em lơ là học tập nên không ủng hộ em sáng
tác. Trong khi đó bố em cho rằng. Nếu em học tập tốt bố em sẽ ủng hộ em viết văn,
làm thơ và giúp em gửi bài đăng báo thiếu niên vì đó là quyền mà pháp luật quy định
cho mỗi cá nhân. Xin hỏi ý kiến của bố em có đúng hay không?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 51 Bộ luật dân sự năm 2005, cá nhân có quyền tự do
nghiên cứu khoa học – kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp
lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo khác.
Quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Không ai được cản trở, hạn chế quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo của cá nhân.


Vì thế, H có quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo nghệ thuật. Ý kiến của bố H hoàn
toàn chính xác.


Tình huống 16. Bố mẹ M sống ở quê. Sau khi học hết cấp 2, M thi đỗ vào
trường chuyên của tỉnh và phải chuyển lên sống ở thành phố cùng gia đình người dì
ruột. Để thuận lợi cho việc làm hồ sơ giấy tờ nhập học và quá trình học tập sau này,
bố mẹ M đã đồng ý cho M khai báo nơi cư trú của mình là nhà của người dì ruột. Điều
đó có đúng pháp luật hay không không? Nơi cư trú của người chưa thành niên được
pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 13 Luật Cư trú năm 2006,
thì nơi cư trú của người chưa thành niên được quy định như sau:
- Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ
có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha
hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống.
- Người chưa thành niên có thể có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ
nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy, M có thể khai báo nơi cư trú của mình là nhà người dì ruột nếu đã
được bố mẹ M đồng ý.

Câu hỏi 17. Pháp luật quy định việc giám hộ cho người chưa thành niên như thế
nào?
Trả lời:
Giám hộ là chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự nhằm mục đích thực hiện
việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
Theo quy định tại Điều 58 Bộ luật dân sự năm 2005:
“Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được

pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự (sau đây gọi
chung là người được giám hộ)”.
Như vậy, chế độ giám hộ là bắt buộc đối với người chưa thành niên bao gồm:



- Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc
cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà
án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục
người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu;
- Những người chưa đủ 15 tuổi thuộc các trường hợp trên theo quy định phải có
người giám hộ.

Tình huống 18. Em K bị mất cả bố lẫn mẹ khi em vừa học xong cấp 2. Em có
một người chị gái lớn hơn 10 tuổi, song do hoàn cảnh chị gái lấy chồng xa, kinh tế khó
khăn nên ông, bà nội của em đứng ra nuôi dưỡng và chăm sóc em. Xin hỏi ông, bà
nội của em có phải là người giám hộ đương nhiên của em không? Pháp luật quy định
như thế nào về người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật dân sự năm 2005 về người giám hộ đương
nhiên của người chưa thành niên như sau:
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha
và mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi
dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ
hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và
nếu cha, mẹ có yêu cầu, được xác định như sau:
- Trong trường hợp anh ruột, chị ruột không có thoả thuận khác thì anh cả hoặc
chị cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ
điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ;
- Trong trường hợp không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có
đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám
hộ; nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người
giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì là người giám hộ.
Việc cử người giám hộ cho người chưa thành niên được quy định: trong trường
hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám

hộ đương nhiên như quy định trên thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú


của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức
đảm nhận việc giám hộ.
Như vậy, ông, bà nội của em T là người giám hộ đương nhiên của T.

Câu hỏi 19. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ cho người chưa thành niên
được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, quyền và nghĩa vụ của người giám
hộ đối với người được giám hộ là người chưa thành niên được quy định như sau:

* Về quyền của người giám hộ, Điều 68, Điều 69 quy định:
- Sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những
nhu cầu cần thiết của người được giám hộ;
- Được thanh toán các chi phí cần thiết cho việc quản lý tài sản của người được
giám hộ;
- Đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
- Người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài
sản của chính mình. Người giám hộ được thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản
của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi, cho
thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch khác đối với tài
sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát
việc giám hộ. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng
cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có
liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch
được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát
việc giám hộ.


* Về nghĩa vụ của người giám hộ, Điều 65 quy định:
Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi:
- Chăm sóc, giáo dục người được giám hộ;


- Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người chưa đủ mười lăm tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự;
- Quản lý tài sản của người được giám hộ;
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

Về, nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi, Điều 66 quy định:
- Đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp
pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự
mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự;
- Quản lý tài sản của người được giám hộ;
- Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

Câu hỏi 20. Đại diện là gì? Người đại diện của người chưa thành niên gồm
những ai?
Trả lời:

Đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh một người khác (gọi
là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền
đại diện.
Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
thông qua người đại diện. Cá nhân không được để người khác đại diện cho mình, nếu
pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó.

Quan hệ đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền.
Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự do
người đại diện xác lập, thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp
pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập,
thực hiện.
Theo quy định của pháp luật, có hai loại đại diện:


- Đại diện theo pháp luật;
- Đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên bao gồm:
- Cha, mẹ đối với người chưa thành niên;
- Người giám hộ đối với người được giám hộ:
Đại diện theo ủy quyền: là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền của người đại
diện và người được đại diện. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 143 Bộ luật dân sự năm 2005 thì người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ
trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở
lên xác lập, thực hiện.

Tình huống 21. Em D là học sinh lớp 7 muốn hỏi pháp luật quy định quyền sở
hữu được xác lập và chấm dứt trong những trường hợp nào? Trong trường hợp em vô
tình nhặt được một vật do người khác bỏ quên mà em không biết địa chỉ của người đó
thì vật đó có đương nhiên thuộc quyền sở hữu của em hay không?
Trả lời:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền

chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.

Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu được
xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
- Được chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền;
- Thu hoa lợi, lợi tức;
- Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
- Được thừa kế tài sản;


- Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị
đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di
chuyển tự nhiên;
- Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công
khai phù hợp với thời hiệu quy định của pháp luật;
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

Theo quy định tại Điều 171 Bộ luật Dân sự năm 2005, quyền sở hữu chấm dứt
trong các trường hợp sau đây:
- Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác;
- Chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình;
- Tài sản bị tiêu huỷ;
- Tài sản bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu;
- Tài sản bị trưng mua;
- Tài sản bị tịch thu;
- Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di
chuyển tự nhiên mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều kiện do
pháp luật quy định; tài sản mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu theo quy

định của pháp luật.
- Các căn cứ khác do pháp luật quy định.
Theo khoản 2 Điều 239 Bộ luật Dân sự năm 2005, về việc xác lập quyền sở hữu
đối với vật không xác định được chủ sở hữu quy định như sau:
Người phát hiện vật không xác định được ai là chủ sở hữu phải thông báo hoặc
giao nộp cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc công an cơ sở gần nhất để
thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.
Việc giao nộp phải được lập biên bản, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người
giao nộp, người nhận, tình trạng, số lượng, khối lượng tài sản giao nộp.
Uỷ ban nhân dân hoặc công an cơ sở đã nhận vật phải thông báo cho người phát
hiện về kết quả xác định chủ sở hữu.


Trong trường hợp vật không xác định được ai là chủ sở hữu là động sản thì sau
một năm, kể từ ngày thông báo công khai, mà vẫn không xác định được ai là chủ sở
hữu thì động sản đó thuộc sở hữu của người phát hiện theo quy định của pháp luật;
nếu vật là bất động sản thì sau năm năm, kể từ ngày thông báo công khai vẫn chưa
xác định được ai là chủ sở hữu thì bất động sản đó thuộc Nhà nước; người phát hiện
được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Trường hợp D vô tình nhặt được vật do người khác bỏ quên mà D không biết địa
chỉ của người đó thì vật đó không đương nhiên thuộc quyền sở hữu của em mà phải
tuân theo các quy đinh pháp luật nêu trên.

Tình huống 22. Bé Quân 11 tuổi là con trai của anh chị Quỳnh. Buổi chiều chủ
nhật được nghỉ học Quân đã cùng bạn bè xuống đường đá bóng, chơi đùa rất vui vẻ.
Trong lúc thể hiện chân sút với các bạn, trái bóng của Quân đã bay thẳng vào cửa
kính nhà bà Kim làm kính vỡ tan. Bà Kim phải đi thay cửa kính mới hết 2.000.000
đồng. Bà yêu cầu gia đình của Quân phải bồi thường thiệt hại mà Quân đã gây ra. Xin
hỏi, trách nhiệm bồi thường của Quân được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:

Do Quân dưới 15 tuổi nên việc bồi thường thiệt hại cho bà Kim sẽ do bố mẹ
Quân chịu trách nhiệm.
Điều 606 Bộ luật dân sự quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của cá nhân như sau:
- Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
- Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì
cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi
thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định bồi thường thiệt hại do người dưới
mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học,
bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý do pháp luật quy định.


Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có
người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi
thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường.

Tình huống 23. Trong buổi đi dã ngoại do nhà trường tổ chức, V – 14 tuổi đã
nghịch ngợm bẽ gãy một số cây cảnh và làm đổ một số hiện vật ở nơi đến thăm quan
nên bị Ban quản lý di tích yêu cầu phải bồi thường. Xin hỏi trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp này thuộc về ai?
Trả lời:
Việc bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra trong thời gian
trường học trực tiếp quản lý được quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2005 như

sau:
- Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại thì
trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
- Trong các trường hợp quy định nêu trên, nếu trường học, bệnh viện, tổ chức
khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hình vi dân sự phải bồi thường.
V – 14 tuổi đã nghịch ngợm bẽ gãy một số cây cảnh và làm đổ một số hiện vật ở
nơi đến thăm quan bị Ban quản lý di tích yêu cầu phải bồi thường, trong trường hợp
này, cha, mẹ hoặc người giám hộ của V có trách nhiệm bồi thường.

Câu hỏi 24. Di chúc là gì? Người chưa thành niên có quyền lập di chúc hay
không? Di chúc thế nào được coi là hợp pháp?
Trả lời:


Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho
người khác sau khi chết.
Theo quy định tại Điều 647, Khoản 2 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2006, người
chưa thành niên có quyền lập di chúc:
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Tuy nhiên, di chúc của người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối,
đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc
không trái quy định của pháp luật.

Câu hỏi 25. Người chưa thành niên có quyền được hưởng thừa kế mà không

phụ thuộc vào nội dung của di chúc hay không?
Trả lời:
Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc như sau:
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của
một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường
hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di
sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản hoặc họ
là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luât :
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Như vậy, người chưa thành niên có quyền được hưởng thừa kế mà không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc và họ sẽ được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật.
CHỦ ĐỀ 2.


MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ TÌNH HUỐNG CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN

Câu hỏi 1. Xin cho biết quan điểm: “Việc làm là tất cả các hoạt động tạo ra thu
nhập và công dân có thể làm bất cứ việc gì mà mình muốn miễn là tạo ra thu nhập” có
đúng không?
Trả lời:
Quan điểm trên là không chính xác
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Bộ luật Lao động năm 2012:Việc làm là hoạt

động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.
Như vậy, trong khái niệm trên, việc làm có hai đặc tính cơ bản:
Một là, dưới khía cạnh kinh tế, việc làm là hoạt động của con người tạo ra thu

nhập
Hai là, dưới khía cạnh pháp luật, việc làm là những hoạt động hợp pháp, không
bị pháp luật cấm. Một số hoạt động tạo ra thu nhập nhưng lại vi phạm pháp luật thì
không được coi là việc làm, ví dụ: buôn bán ma túy, buôn lậu..
Về quyền tự do lựa chọn việc làm của công dân: pháp luật lao động quy định
người lao động có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, tự do lựa
chọn nơi làm việc và làm việc cho bất kỳ người sử dụng nào mà pháp luật không cấm.
Như vậy, công dân có quyền tự do lựa chọn việc làm trong khuôn khổ pháp luật

Câu hỏi 2. Theo quy định của pháp luật, người lao động có những quyền và
nghĩa vụ gì?
Trả lời:
a) Theo Điều 5 của Bộ luật Lao động năm 2012, khi tham gia quan hệ lao động,
người lao động có các quyền sau đây:
- Người lao động được tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng
cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;
- Người lao động được hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ
sở thoả thuận với người sử dụng lao động;


- Người lao động được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an
toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được
hưởng phúc lợi tập thể;
- Người lao động được thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề
nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với
người sử dụng lao động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của
người sử dụng lao động;
- Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy
định của pháp luật;

- Người lao động có quyền đình công.
b) Đồng thời, người lao động có các nghĩa vụ sau đây:
- Thực hiện hợp đồng lao động và các thỏa thuận khác với người sử dụng lao
động
- Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động, tuân theo sự điều hành hợp
pháp của người sử dụng lao động;
- Thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo
hiểm y tế.

Tình huống 3. Nam cho rằng: “Người chủ sử dụng lao động đã bỏ tiền ra để
thuê người lao động làm việc cho mình nên xét về mặt pháp luật, người sử dụng lao
động có nhiều quyền hơn người lao động” Xin hỏi: Nam nhận định như vậy có đúng
không?
Trả lời: Nam nhận định như vậy là không đúng vì:
Theo Điều 7 của Bộ luật Lao động năm 2012 thì “Quan hệ lao động giữa người
lao động hoặc tập thể lao động với người sử dụng lao động được xác lập qua đối thoại,
thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc tự nguyện, thiện chí, bình đẳng, hợp tác,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau.”
Xét về khía cạnh pháp luật, người lao động và người sử dụng lao động bình
đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Hai bên giao kết hợp đồng lao động với nhau


dựa trên nguyên tắc Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực và tôn
trọng quyền và lợi ích của nhau.
Khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động và người sử dụng lao động
phải có hợp đồng lao động, trong đó thỏa thuận với nhau về công việc, thời giờ làm
việc, mức lương....
Hợp đồng lao động sẽ là căn cứ để xác định quyền lợi và nghĩa vụ của người lao
động và người sử dụng lao động trong quá trình làm việc. Người sử dụng lao động
cũng không được phép vi phạm hợp đồng lao động để xâm phạm đến quyền lợi của

người lao động.
Câu hỏi 4. Hợp đồng lao động là gì? Việc giao kết hợp đồng lao động phải tuân

theo những nguyên tắc gì. Hợp đồng lao động có thể thỏa thuận bằng lời nói được
không?
Trả lời:
Theo Điều 15 của Bộ luật Lao động năm 2012 thì hợp đồng lao động là sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều
kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Việc giao kết hợp đồng lao động phải tuân theo các nguyên tắc được quy định
tại Điều 17 của Bộ luật Lao động năm 2012 như sau:
- Tự nguyện: người lao động và người sử dụng lao động tự nguyện giao kết hợp
đồng, không bên nào được ép buộc hoặc cản trở bên nào
- Bình đẳng: Người lao động và người sử dụng lao động bình đẳng với nhau
trước pháp luật.
- Thiện chí, hợp tác: Người lao động và người sử dụng lao động phải có thái độ
thiện chí, hợp tác với nhau;
- Trung thực: Người lao động và người sử dụng lao động phải trung thực với
nhau, không bên nào được lừa dối bên nào
Việc giao kết hợp đồng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội
Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì việc giao kết
hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người


×