Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Trình bày quan điểm của đảng về xây dựng nền văn hóa việt nam trong thời kì đổi mới quan điểm nào là quan trọng nhất vì sao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.73 KB, 20 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC NGOẠI NGƯ

Môn học: Đường lối Cách Mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giảng viên: Lê Thị Hòa
Nhóm thực hiện bài tập: Nhóm 5


NHÓM 5
I.

Danh sách thành viên
Họ và tên

II.

Lớp

Câu hỏi bài tập môn Đường lối Cách Mạng của ĐCS Việt Nam

Câu 1: Trình bày quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kì
đổi mới? Quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Câu 2: Tìm hiểu một vấn đề nóng trong sinh viên hiện nay mà em quan tâm?


Câu 1: Trình bày quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kì
đổi mới? Quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao?
Trả lời:
Quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới


Văn hóa là 1 khái niệm rất rộng và có thể được định nghĩa theo rất nhiều cách. Theo
nghĩa rộng thì “Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng
đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước.” hoặc có
thể định nghĩa theo nghĩa hẹp như “Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội” hay “Văn
hóa là bản sắc của một dân tộc”, …

Trước thời kỳ đổi mới, cụ thể là từ những năm 1943, Đảng và nhà nước ta đã có
những quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hóa mới.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những chủ trương, đường lối xây
dựng hệ thống chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền
văn hoá Việt Nam vừa mang tính dân tộc, vừa hiện đại, mang tính chất xã hội chủ nghĩa.
Văn hoá luôn được xác định là một mục tiêu, thậm chí là mục tiêu bao trùm của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời là động lực, nền tảng
vững chắc nhất của cách mạng.
Trong Đề cương văn hóa năm 1943, Đảng ta đã đề ra ba nguyên tắc vận động văn hóa là
dân tộc, khoa học, đại chúng để phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, chống lại
các xu hướng phản dân tộc, phản khoa học, phản lại nhân dân lao động. Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định văn hóa là một mặt trận để kháng chiến và kiến quốc. Tư tưởng văn hóa
hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành động
lực thúc đẩy cuộc kháng chiến chống xâm lược thắng lợi.
Có thể coi Đề cương chính là cương lĩnh văn hoá của Đảng trong cách mạng giải phóng
dân tộc, là phương hướng chỉ đạo hoạt động văn hoá, nghệ thuật trong quá trình đấu tranh
giành và bảo vệ chính quyền, kháng chiến chống thực dân Pháp và cả những năm sau đó,


khi vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, vừa kháng chiến chống đế quốc Mỹ
xâm lược.
Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó có 2
nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội

Đồng chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hoá
Đường lối văn hoá kháng chiến dần hình thành trong chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ra
ngày 25/11/1945 của Ban thường vụ trung ương Đảng, trong bức thư về "Nhiệm vụ văn
hoá Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay" của đồng chí
Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16/11/1946 và tại báo cáo "Chủ nghĩa
Mác và văn hoá Việt Nam" trình bày tại Hội nghị văn hoá
toàn quốc lần thứ hai tháng 7/1948.

Trong những năm 1955 – 1986, Đảng ta liên tục có những đóng góp tích cực
cho công cuộc đổi mới và xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
Trong văn kiện Đại hội III của Đảng (9/1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hoá có
nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Đảng xác định văn hoá - tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó
chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) xác định "Xây dựng con người
mới, xây dựng nền văn hoá mới, tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường
lối chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng, tiến hành đấu
tranh chống tư tưởng văn hoá phản động của chủ nghĩa thực dân và của giai cấp bóc lột".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) chỉ rõ nền văn hoá mới là nền
văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu
sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V cũng trình
bày rất đầy đủ về khái niệm "Con người mới xã hội chủ nghĩa" và đưa ra phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hoá".


Cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước được khởi xướng tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), Đảng dần đi tới những nhận thức
mới, quan điểm mới về văn hoá.
Việc coi trọng các chính sách đối với văn hoá, đối với con người thực chất là trở về tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở cho những nhận thức mới, quan điểm mới về
văn hoá của Đảng. Về vai trò của văn hoá, Đại hội VI đánh giá "không hình thái tư tưởng
nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh,
tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người". Đại hội VI cũng đề
cao vai trò của văn hoá trong đổi mới tư duy, thống nhất về tư tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ đã
không còn phù hợp, thiết lập cơ chế mới; khẳng định đồng thời với xây dựng kinh tế,
phải coi trọng các vấn đề văn hoá, tạo ra môi trường văn hoá thích hợp cho sự phát triển.
Cương lĩnh năm 1991 lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hoá Việt Nam có đặc trưng
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội VII đến đại hội X và nhiều Nghị quyết Trung
ương tiếp theo đã xác định văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Trong đó Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) của Đảng khẳng định: khoa học
và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên
trình độ tiên tiến của thế giới.
Do đó phải coi sự nghiệp giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội.

Nghị quyết Trung Ương 5 khoá VIII (7/1998) có nêu ra 5 quan điểm cơ bản
chỉ đạo và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Các quan điểm này được bổ sung, phát triển, thể hiện trong
Văn kiện Đại hội lần thứ IX và Hội nghị lần thứ mười khoá IX của Đảng. Đây là
những tư tưởng, lý luận quan trọng của Đảng về lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi
mới, cần được triển khai sâu rộng trong toàn bộ đời sống xã hội. Năm quan điểm đó
là:
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này xác định vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay. Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị;
xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục đích cuối cùng là văn hóa. Trong mỗi



chính sách kinh tế – xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả
năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn
đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong đó
phải giải quyết hài hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, đảm bảo cho đất nước phát
triển bền vững và lâu dài.
Quan điểm này chỉ rõ về chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với
sự phát triển xã hội:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Theo Unessco: Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của
cuộc sống diễn ra trong quá khứ cũng như trong hiện tại; nó cấu thành một hệ thống các
giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong
mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế
hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc;
đồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành viên
xã hội bằng môi trường xã hội – văn hóa. Tóm lại, văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc vượt
qua mọi khó khăn để phát triển.
Vì vậy, chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành
động lực phát triển kinh tế – xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi
sự xâm nhập của tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây
dựng gia đình văn hóa,…
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển:
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự phát
triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái mới, nhưng lại

không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn bằng cách phát huy cội
nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia dân tộc là văn hóa.
Động lực của sự phát triển kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa
đang được phát huy (hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng


cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế – xã hội càng hiện thực và bền vững bấy
nhiêu).
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt, văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt,
cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật,
nâng cao tay nghề,…mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,
của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất, sùng bái tiền tệ,…
Nền văn hóa Việt Nam đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước
ta hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong vấn đề bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn chế lối sống
chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên,
ô nhiễm môi trường sinh thái.
Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có chừng mực, hài hòa, nó đưa ra mô hình
ứng xử thân thiện giữa con người với thiên nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và
tương lai
Văn hóa là một mục tiêu của phát triển:
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 1991-2000, Đảng ta xác định: “Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người”. Đồng thời, nêu rõ yêu
cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo
vệ môi trường”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới bảo đảm phát triển
bền vững, trường tồn.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ trương
phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế – xã hội.

Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người
và xây dựng xã hội mới:
Việc phát triển kinh tế – xã hội cần đến nhiều nguồn lực, trong đó, tri thức của con người
là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn
lực khác sẽ không được sử dụng có hiệu quả nếu không có những con người đủ trí tuệ và
năng lực khai thác chúng.


Vì những điểm trên, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải
chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời,
phải chú trọng khai thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã
hội, nhất là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn
hóa… Như vậy, văn hóa không phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là nguyên
nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Quan điểm này xác định phương hướng và đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam mà
chúng ta tập trung xây dựng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Trình độ tiên tiến của nền
văn hóa phải thống nhất với bản sắc văn hóa dân tộc và khẳng định tầm vóc, vị thế của
văn hóa dân tộc trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu vì con
người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu hiện và các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam được vun đắp trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá

nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; đó là lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị
trong lối sống,…Bản sắc dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo. Bản sắc dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ
bản thuộc về sức mạnh tiềm tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy
nhất, tính thống nhất, tính nhất quán trong quá trình phát triển.
Bản sắc dân tộc là sức sống bên trong của dân tộc, là quá trình dân tộc thường xuyên tự ý
thức, tự khám phá, tự vượt qua chính bản thân mình, biết cạnh tranh và hợp tác để tồn tại
và phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy, cách
sống, cách dựng nước, cách giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, nghệ thuật,


…nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc, nó là cốt lõi của nền
văn hóa. Hệ giá trị là những gì mà nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể chế xã hội và thể chế
chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh tế thế giới, quá
trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa, văn minh
nhân loại.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong mọi
hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, giáo
dục, đào tạo,…sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm vừa
hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc
tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại,
song phải luôn phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc

Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa quyện

bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc sống trên cùng lãnh thổ Việt
Nam. Mỗi thành phần dân tộc có truyền thống và bản sắc của mình, cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam có nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm cả tính đa dạng – đa dạng
trong sự thống nhất. Không có sự đồng hóa hoặc thôn tính, kỳ thị bản sắc văn hóa của các
dân tộc.
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về đảm bảo
tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Tính thống nhất của
nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại
đoàn kết của các dân tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống
nhất ở việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc xây
dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng
đồng các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm
bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên
đất nước ta có 54 dân tộc với các đặc trưng văn hóa khác nhau. Các giá trị và các đặc
trưng văn hóa đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, làm phong phú cho nền văn
hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất quốc gia.


Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Quan điểm này xác định vai trò chủ thể xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa. Mọi
người dân Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh đều có vinh dự, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ tham gia xây dựng và
phát triển nền văn hóa nước nhà.
Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân. Giai cấp công nhân,
nông dân, trí thức là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong xây dựng và phát triển văn hóa.
Họ là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí
thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa.

Đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ gắn bó với nhân dân lao động, được Đảng, Nhà nước và
nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự
nghiệp phát triển của nền văn hóa dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Để xây dựng đội ngũ trí thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục – đào tạo cùng với khoa học
và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu.
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) khẳng định: cùng với giáo dục – đào tạo,
khoa học và công nghệ được coi là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế –
xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành,
các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố quốc phòng và an ninh,
là nền tảng và là động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
Phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn
dân.

Thứ năm, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.


Quan điểm này nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Văn hóa là một mặt trận, đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận đó. “Mặt trận” là
nơi đoàn kết thống nhất ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ
và các nhà hoạt động văn hóa vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới do
Đảng đề ra. “Mặt trận” là nơi đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định
cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành mạnh.
Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ thù, đặc biệt là âm
mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch quốc tế trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải đi đôi với “chống” và lấy “xây” làm trọng tâm. Quan

điểm này cũng nhấn mạnh đến tính đặc thù của việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bảo
tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới
tích cực và tiến bộ, loại bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho
các giá trị văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến
bộ, văn minh, nhân bản là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi hỏi nhiều
thời gian và cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh nóng vội, chủ
quan duy ý chí. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn hóa là một sản phẩm hàng hóa
đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng hóa thông thường khác. Đây là phương tiện
để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi dân tộc. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
cần có giải pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát triển nền văn hóa của dân tộc mình, chống
nguy cơ bị đồng hóa về văn hóa.

Trong số 5 quan điểm trên, quan điểm 2 “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng
là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.” quan trọng hơn những quan điểm
còn lại vì:
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân
tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Văn hóa đã trở thành nền tảng quan
trọng tạo nên nguồn sức mạnh to lớn giúp dân tộc Việt Nam chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược, khắc phục mọi khó khăn, thử thách trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đại hội
lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) của Đảng Cộng sản đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó Cương lĩnh đã xác định nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là
mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.


Nền văn hóa tiên tiến đó chính là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin

và Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát
triển toàn diện của đất nước.
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa có sự thống nhất hữu cơ
giữa tính tiên tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc:
Nền văn hóa tiên tiến đó chính là nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mac-Lenin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
toàn diện của đất nước.
Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc là nền văn hóa gìn giữ và phát huy được những giá
trị bền vững, tinh hoa của văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên
qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, không nên đồng
nhất bản sắc dân tộc với “cái cũ”, “cái nguyên gốc” do dân tộc tạo ra mà nó bao hàm cả
các giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại được dân tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến
nó thành nguồn lực bên trong để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do đó, xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc, việc xây dựng và
phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu cầu tất yếu đặt ra.

Đến nay:
Trong những năm tiếp theo, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thường xuyên quan tâm, chỉ
đạo xây dựng một nền văn hóa Việt Nam theo định hướng đã đề ra. Hội nghị lần thứ 10,
Ban Chấp hành Trung Ương khóa IX năm 2004 đã ra Kết luận về Tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung Ương 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới. Đại hội lần thứ X của Đảng năm
2006 nêu rõ: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội,
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Quán triệt quan điểm của Đảng về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, những năm gần đây, nền văn hóa dân tộc đã đạt được những


bước phát triển đáng kể: các giá trị văn hóa của hơn 50 dân tộc được kế thừa và phát
triển; giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng; một số nét mới trong
chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước được hình thành; nhiều di sản văn
hóa được giữ gìn, tôn tạo; các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”,
“lá lành đùm lá rách” phát triển rộng khắp…, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh
thần lành mạnh, đa dạng của quần chúng nhân dân, góp phần tích cực vào công cuộc đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, mặt trái của cơ chế thị trường, xu
thế xâm lăng văn hóa đã tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Công tác quản lí các lĩnh vực hoạt động văn hóa, tư tưởng
còn những biểu hiện buông lỏng, né tránh. Một số lĩnh vực: báo chí - xuất bản, văn học nghệ thuật, giáo dục - đào tạo bị khuynh hướng “thương mại hóa” chi phối, hoạt động xa
rời tôn chỉ, mục đích. Những yếu tố tiêu cực này đặt nền văn hóa Việt Nam đối mặt nguy
cơ phai nhạt bản sắc dân tộc, thoát li nền tảng hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, từng bước bị thay thế bằng các hệ tư tưởng tư sản, hình thành quan
điểm, tư tưởng, lối sống theo kiểu phương Tây...
Và đứng trước tình hình đó, mỗi người dân Việt Nam và đặc biệt là thế hệ thanh niên, trí
thức trẻ càng phải nhận thức được vai trò của bản thân trong xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng đã đề ra. Chúng ta
hãy cố gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt để mỗi người đều trở thành một bông hoa
đẹp có ích, qua đó thể hiện được bản sắc văn hoá dân tộc trong từng lời nói, hành động.
Làm được điều đó có nghĩa là chúng ta đã góp phần xây dựng hình ảnh đất nước Việt
Nam thân thiện và đẹp đẽ trong mắt bạn bè quốc tế.
Câu 2: Tìm hiểu một vấn đề nóng trong sinh viên hiện nay mà em quan tâm?
Trả lời:
Thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tâm lí sính bằng cấp trong sinh viên
1. Thực trạng hiện nay.
Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, đại đa số học sinh lớp 12 đều hướng đến học Đại

học, cao đẳng, chỉ có một phần rất nhỏ đi học nghề. Theo thống kê năm 2016, có
890.000/900.000 thí sinh đăng kí dự thi kì thì THPT quốc gia (chiếm trên 98% tổng số thí
sinh trên cả nước)1


Sau khi tốt nghiệp cử nhân cũng có rất nhiều sinh viên học lên cao học để lấy bằng thạc
sĩ, tiến sĩ. Theo báo Dân trí số ra ngày 31/5/2016, cả nước có gần 225.000 cử nhân và
thạc sĩ thất nghiệp.
Một bộ phận sinh viên học nhiều bằng, nhiều ngành. (Đại học quốc gia Hà nội có
chương trình học bằng kép cho sinh viên)
2. Nguyên nhân
Do ảnh hưởng của cơ chế hành chính bao cấp, nhiều người hướng tới làm việc trong các
cơ quan nhà nước, mà tấm bằng thạc sĩ hay tiến sĩ là một yếu tố được cho là cực kì thiết
yếu và quan trọng. Theo TS.Nguyễn Tiến Luận - Chủ tịch HĐQT trường Đại học Nguyễn
Trãi thì: “Bây giờ ở Việt Nam bằng cấp đang bị xã hội hóa, quy trình đào tạo và cấp bằng
ở nhiều nơi còn dễ dãi, cho nên mới xảy ra thực trạng bằng cấp cao nhưng năng lực
thấp”.3
Phân luồng còn bất cập. Định hướng chọn ngành, chọn nghề chưa đúng đắn, hầu hết sinh
viên đều muốn học để có được tấm bằng là chủ yếu chứ chưa tự ý thức được là học cho
bản thân mình và cho tương lai của đất nước. Cũng chính vì thế mà bằng thì có nhưng kĩ
năng và kiến thức thì còn nhiều khiếm khuyết.
Người Việt Nam trọng lí thuyết mà thường bỏ quên mất thực hành, điều này dẫn đến tâm
lí càng sở hữu nhiều bằng cấp đông nghĩa với việc trình độ chuyên môn càng cao.
Tâm lí có bằng cấp để cho “oai”, để, cho không thua kém người khác, để chạy đua với
thời đại.
Nguồn thu nhập cũng là 1 yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sinh viên, sở hữu nhiều bằng
sẽ tạo cho sinh viên có được nhiều cơ hội việc làm và chất lượng công việc tốt hơn là
những sinh viên chỉ có 1 tấm bằng hoặc không có bằng.
Ở nhiều nơi tiêu chí tuyển dụng đầu tiên đó chính là tấm bằng đại học, cao đẳng, chưa kể
đến các chứng chỉ kèm theo như chứng chỉ ngoại ngữ, tin học,. . . điều này vô hình chung

khiến sinh viên đều phải đi học thêm để có nhiều bằng.
3. Hệ quả
Tâm lý sính bằng cấp của người Việt, cụ thể hơn là sinh viên đã dẫn đến không ít những
hệ lụy xấu, ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của xã hội. Trong đó có bốn hệ quả
nghiêm trọng sau:


Thứ nhất, việc sính bằng cấp làm mất đi giá trị thực chất của bằng cấp với những thuộc
tính cao quý của nó. Bằng cấp từ lâu đã được coi như thứ để đánh giá khả năng và năng
lực của một người bởi để có được một tấm bằng đẹp không phải dễ dàng. Từ xa xưa, để
đỗ đạt, có bằng cấp đẹp, người học phải chăm chỉ tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu chuyên
sâu. Nhưng giờ đây, để có bằng đại học là việc vô cùng dễ dàng. TS Nguyễn Tiến Luận –
Chủ tịch HĐQT Trường ĐH Nguyễn Trãi khi đánh giá về câu chuyện bằng cấp tại Việt
Nam trong những năm gần đây có chia sẻ: “Bây giờ ở Việt Nam bằng cấp đang bị xã hội
hóa, quy trình đào tạo và cấp bằng ở nhiều nơi dễ dãi, cho nên mới xảy ra thực trạng
“bằng cấp cao nhưng năng lực thấp”. Nếu bằng cấp đẹp không đi đôi với khả năng thực
tiễn của người sở hữu nó, bằng cấp cũng chỉ đơn giản là một tờ giấy vô giá trị.
Thứ hai, từ việc bằng cấp không còn thực sự phản ánh đúng năng lực thực sự của chủ sở
hữu dẫn đến “thừa bằng cấp, thiếu trình độ”, nạn sính bằng cấp dần phá hoại nền kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước.
Về kinh tế, xã hội: tình trạng thất nghiệp lên đến con số báo động của các cử nhân, thạc sĩ
ở Việt Nam. Theo số liệu thống kê, Quý 1/2016 cả nước có 225.000 người có trình độ cử
nhân, thạc sĩ thất nghiệp. Nguyên nhân dễ thấy nhất là do việc sở hữu tấm bằng cử nhân,
thậm chí là bằng thạc sĩ ở Việt Nam giờ đây là điều quá dễ dàng. Tuy nhiên, bằng cấp
không đồng nghĩa với việc có trình độ. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã từng đánh
giá, năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất Châu Á do lao động chưa
qua đào tạo và thiếu kỹ năng mềm. Cụ thể, năng suất lao động của người Singapore năm
2013 cao gấp 15 lần năng suất lao động của người Việt Nam. Thậm chí, năng suất lao
động của người Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 so với Malaysia và 2/5 so với Thái Lan - hai
quốc gia thu nhập trung bình khác thuộc khối ASEAN. Như một vòng luẩn quẩn ở Việt

Nam, người học nghề ngày càng ít, người vào đại học ngày càng tăng đã dẫn đến tình
trạng "thừa thầy, thiếu thợ". Nói chính xác thì nước ta đang thừa lao động có “bằng cấp
cao”, nhưng lại thiếu lao động có “trình độ cao”. Do đó, các nhà tuyển dụng thường
không đánh giá cao người lao động có bằng cấp ở Việt Nam. Nguyên nhân thứ hai là do
chính người cử nhân, thạc sĩ. Khi có tấm bằng trên tay, họ thường có xu hướng “ảo
tưởng” về trình độ của mình. Đã có không ít trường hợp người lao động nghỉ việc vì cho
rằng mình phải kiếm được nhiều tiền hơn thế, phải được làm công việc nhàn hạ hơn thế;
lí do là mình có tấm bằng đại học trong tay. Đó là một quan điểm sai lệch khiến tình trạng
thất nghiệp của cử nhân, thạc sĩ ngày càng gia tăng, ảnh hưởng đến nền kinh tế của đất
nước. Mà theo quy luật, một quốc gia có nhiều người thất nghiệp thì không thể coi là một
quốc gia hạnh phúc được.
Luôn gắn liền với kinh tế - xã hội, ngay cả chính trị cũng ảnh hưởng bởi vấn nạn này. Với
tâm lí chung là cần người lao động thực sự có năng lực, có trình độ chứ không chỉ đơn


thuần có “lí thuyết suông”, các doanh nghiệp tư nhân hay các công ty nước ngoài thường
chọn lựa nhân sự rất kỹ. Bên cạnh các bằng cấp chuyên môn người ta còn phỏng vấn,
kiểm tra trực tiếp và có thời gian thử việc và ký hợp đồng theo từng giai đoạn. Cùng với
việc trả lương cao và tạo điều kiện để bồi dưỡng, nâng cao năng lực và trình độ của nhân
viên ở các công ty này, nạn chảy máu chất xám tại chỗ sẽ xảy ra: những người giỏi, tâm
huyết sẽ hoặc đang làm việc cho cơ quan nhà nước sẽ tìm nơi làm việc mới; những sinh
viên tốt nghiệp hạng hai hạng ba… lại đảm nhận những công việc trong các cơ quan, xí
nghiệp nhà nước. Còn chưa kể còn có nhà giáo mất phẩm chất dẫn đến mua bán chữ
nghĩa, kinh doanh điểm chác, khiến nhiều kẻ vô tài, không có năng lực nhân cơ hội “mua
bằng” và xin vào làm ở nhà nước, nắm chức vụ quan trọng. Những người như vậy không
phải là ít, phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu: “Tình trạng chạy công chức
vẫn diễn ra do chế độ thi cử đầu vào bất cập. Trong bộ máy chúng ta có tới 30% số công
chức không có cũng được, bởi họ làm việc theo kiểu sáng cắp ô đi, tối cắp về, không
mang lại bất cứ thứ hiệu quả công việc nào”. Điều đáng nói ở đây không chỉ là hàng
nghìn con người đang ăn bám vào đồng lương nhà nước, mà nguy hiểm hơn là họ không

có năng lực thực sự thì sẽ làm cho nền hành chính trì trệ thêm. Họ chính là gánh nặng mà
hàng triệu người dân đang phải gánh.
Thứ ba, vấn nạn xấu này còn làm lệch hướng đào tạo, số lượng không đồng bộ với chất
lượng. Hiện nay có nhiều trường chạy theo số lượng đào tạo mà coi nhẹ chất lượng.
Trong cơ chế tự chủ tài chính nửa vời như hiện nay đã dẫn tới đa số các trường đại học
chạy theo số lượng quy mô đào tạo để có nguồn tài chính bù đắp các khoản chi thường
xuyên. Hệ quả là một số trường công đua nhau tuyển giảng viên để tăng số lượng theo
quy chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà coi nhẹ chất lượng giảng dạy, để từ đó có điều
kiện tuyển số lượng sinh viên mà không quan tâm tới nhu cầu của xã hội và chất lượng
đào tạo, dẫn đến lượng sinh viên tốt nghiệp trong tình trạng thiếu trình độ, kỹ năng cần
thiết. Về chương trình đào tạo Chương trình đào tạo đại học của các trường đại học
thường xây dựng chưa được công phu, chưa đáp ứng nhu cầu của người sử dụng lao
động, chưa xuất phát từ điều kiện thực tiễn của nền kinh tế có nhiều biến động. Thông
thường xây dựng chương trình đào tạo còn mang tính chủ quan, chưa thông qua kết quả
khảo sát, nghiên cứu của các chuyên gia và doanh nghiệp... Nhiều trường đại học sử dụng
chương trình còn sao chép của các trường khác, sau đó cắt bớt tỷ lệ % số tiết theo chủ
quan của người xây dựng. Với xu hướng chạy theo số lượng mà bỏ quên chất lượng như
này, đất nước Việt Nam sẽ ngày càng tụt hậu cùng với căn bệnh xã hội không đáng có
này.
Hệ quả cuối cùng - cũng là hệ quả quan trọng nhất là hệ quả lên tâm lý của chính sinh
viên, học sinh. Kéo theo từ việc các trường thi nhau đào tạo lấy số lượng mà coi nhẹ chất


lượng, nhiều sinh viên với tâm lý “học chỉ để có tấm bằng” sẽ coi thường việc học tập,
xem nhẹ việc thủ đắc kiến thức chuyên môn, ngành nghề. Về thực trạng của sinh viên
hiện nay kỹ năng mềm còn hạn chế, kiến thức cơ bản chưa vững. Do vậy chất lượng của
sinh viên có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất khoảng 20% là các sinh viên tích cực,
chăm chỉ trong học tập và có thái độ nghiêm túc; Nhóm thứ 2 khoảng 30% là các sinh
viên học bình thường; Nhóm thứ 3 khoảng 50% là sinh viên học đối phó và lười học. Thế
nhưng kết quả cấp bằng của một số ngành đưa ra con số đáng kinh ngạc, khoảng 70%

bằng giỏi, điều này không những phản ánh không thật về chất lượng đào tạo mà còn ảnh
hưởng tới uy tín của Nhà trường. Có một số giảng viên lâu năm khi nói về quan hệ thầy trò hiện nay như sau: “Cơ chế thị trường làm cho thầy sợ trò”, quan niệm này khi phân
tích ra là đúng với một số trường, sợ sinh viên bỏ học, Nhà trường mất thu nhập, do vậy
thầy cho điểm cao không đúng kiến thức tích lũy của trò. Từ đó, việc “sính bằng cấp”
góp phần làm nản lòng những nhà giáo dục có tâm huyết, những công dân nặng lòng với
sự nghiệp đào tạo và cả người học chân chính. Chăm chỉ hay lười nhác, chơi bời hay
nghiên cứu, tâm huyết hay vì tiền,… nếu tất cả chỉ đem những ý nghĩa y hệt nhau thì sẽ
không ai còn đủ ý chí, đủ tâm huyết để cố gắng trong công cuộc xây dựng đất nước giàu
mạnh hơn nữa.
4. Liên hệ 1 số quan điểm của những nhà tỷ phú nổi tiếng
“Vấn đề của xã hội hiện nay là mọi người vẫn giữ quan điểm sai lầm rằng ai cũng phải
vào đại học". Peter Thiel, đồng sáng lập PayPal và từng đỡ đầu cho Facebook .
“Tất cả những đồng tiền tiết kiệm của cha mẹ tôi – những người thuộc tầng lớp lao động
bình dân, đều được dồn để chi trả học phí ở trường đại học… Và tại đây, tôi chỉ biết
phung phí những đồng tiền mà cha mẹ tôi dành dụm cả đời mới có được. Vì vậy, tôi
quyết định bỏ học và tin rằng mọi thứ sẽ tốt cả thôi”. Steve Jobs, cố lãnh đạo Apple, đọc
diễn văn tại trường đại học Stanford.
"Tôi là một người gây ảnh hưởng xấu. Đó là lý do tại sao tôi được mời đến dự lễ tốt
nghiệp của các bạn. Nếu tôi phát biểu tại lễ nhập học của các bạn, có lẽ số người dự buổi
lễ tốt nghiệp hôm nay sẽ ít hơn". Bill Gates, người sáng lập tập đoàn Microsoft, phát biểu
tại lễ phát bằng của đại học Harvard.
5.Đề xuất một số biện pháp cho tình trạng sính bằng cấp ở sinh viên.
Trong những năm trở lại đây vấn đề sính bằng cấp đã trở thành một trong những vấn nạn
hàng đầu của xã hội Việt Nam. Tâm lý chuộng bằng cấp đã ăn sâu vào tâm lý con người
Việt Nam, biến xã hội Việt Nam vốn luôn mang nặng tâm lý “Hư văn, khoa cử, quan
trường”- trích lời GS Phạm Minh Hạc – Nguyên bộ trưởng Bộ giáo dục Việt Nam thành


một xã hội sính bằng cấp, chê học nghề, ngày càng thừa thầy thiếu thợ. ( Theo một thống
kê gần đây của một trường Đại học cho biết: 70% sinh viên ra trường phải đào tạo lại

trong 100 sinh viên ra trường thì chỉ 1 sinh viên đạt chất lượng, hay ở một hội chợ tuyển
dụng lao động, 1000 hồ sơ dự tuyển chỉ lấy được 7 người…)
Do đó ta có thế thấy rằng tâm lý chuộng bằng cấp không chỉ ăn sâu vào suy nghĩ mà nó
còn đang từng bước ảnh hưởng đến cuộc sống của con người, cũng như toàn bộ xã hội
Việt Nam. Vì vậy muốn giải quyết được “đại dịch” này thì chúng ta không còn cách nào
khác ngoài việc phải cải tạo tâm lý xã hội. Vậy thế nào là cải tạo tâm lý xã hội? Cải tạo
tâm lý xã hội có thể hiểu nôm na là việc chúng ta thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá của
con người về một vấn đề của xã hội. Trong trường hợp cụ thể của tâm lý sính bằng cấp
thì việc cải tạo tâm lý xã hội chính là việc thay đổi cách đánh giá của mọi người về vấn
đề bằng cấp: từ trọng bằng cấp sang trọng thực, từ coi khinh học nghề sang coi trọng mọi
hình thức lao động trong xã hội, tìm ra định hướng đúng đắn cho bản thân mỗi cá nhân,
không còn coi Đại học hay bằng cấp là con đường duy nhất để xây dựng sự nghiệp.
Tuy nhiên ở một xã hội Việt Nam mà tâm lý chuộng bằng cấp đã ăn sâu vào gốc rễ, tồn
tại trong mọi ngóc ngách xã hội thì việc cải tạo tâm lý xã hội quả thật là không hề đơn
giản. Theo lời GS. Phạm Minh Hạc – Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam thì cải
tạo tâm lý xã hội phải là “một cuộc vận động mạnh mẽ”. Nó cần được diễn ra với sự vào
cuộc của đông đảo các thành phần trong xã hội, từ các cơ quan quản lý, tới các nhà khoa
học, phương tiện truyền thông,… Cải tạo tâm lý xã hội phải được thực hiện một cách bền
bỉ, kiên trì với sự hợp tác của nhiều cơ quan chức năng và nhiều đối tượng mà trong đó
đối tượng chính là học sinh, sinh viên. Một số biện pháp cụ thể để cải tạo tâm lý xã hội:
Thứ nhất, đối với các cơ quan chức năng: sử dụng quyền hạn và tầm ảnh hưởng của mình
để hỗ trợ thay đổi tâm lý xã hội. Nhất là các cơ quan Giáo dục cần phải chú ý tới việc đào
tạo nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu sử dụng hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục
thông qua việc xác định rõ giáo dục đại học phải gắn với nhu cầu doanh nghiệp, tránh đào
tạo thừa, đào tạo không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, hu danh; thực hiện chọn lọc khi
thực hiện xã hội hóa đầu tư cho giáo dục, xem lại chất lượng đào tạo của các trường học,
đặc biệt là các trường tư đang mọc lên ngày càng nhiều cùng với chất lượng đào tạo đáng
lo ngại của nó ( không đào tạo được nguồn nhân lực có đầy đủ tri thức, kĩ năng đáp ứng
cho xã hội; đào tạo các ngành không đúng chuyên môn của trường,….)
Thứ hai, đối với các trường học: Để đoạn tuyệt tâm lý hư danh, sính bằng cấp thì các

trường học ở mọi bậc học phải chuyển hẳn sang dạy và học thật, thi thật theo năng lực để
hình thành và phát triển năng lực sống thực ở thế hệ trẻ, để họ có thể tránh ỷ lại vào bằng
cấp dùng chính thực lực của bản thân để tạo lập cuộc sống tốt đẹp, xây dựng cộng đồng


xã hội. Ngoài ra, việc hạn chế đầu vào và đầu ra ở các trường Đại học Cao đẳng, chỉ
tuyển những người có năng lực theo học thực sự cũng như chỉ cho phép các đối tượng đạt
được đầy đủ yêu cầu đào tạo được ra trường cũng trở nên vô cùng quan trọng. Thực hiện
được điều này sẽ giúp hệ thống giáo dục trở nên hài hòa, có sự liên thông giữa các hệ đào
tạo và giúp tận dụng được mọi nguồn lực trong xã hội, xóa bỏ tình trạng thừa thầy thiếu
thợ, cử nhân có bằng cấp sau khi ra trường thất nghiệp hàng loạt.
Thứ ba, đối với học sinh, sinh viên- các đối tượng chính của cuộc vận động tâm lý xã hội.
Để cải tạo tâm lý xã hội trong học sinh, sinh viên thì việc tổ chức các buổi tư vấn tâm lý,
hướng nghiệp là không thể thiếu. Thông qua các buổi tư vấn, hướng nghiệp như vậy thì
học sinh, sinh viên có thể tìm ra con đường phù hợp cho bản thân cũng như môi trường
phù họp nhất để phát triển. Từ đó, thay vì đổ xô vào các trường Đại học, Cao đẳng thì
một bộ phận học sinh, sinh viên có thể tham gia học nghề hoặc tham gia vào những công
việc có ích nhưng đang khan hiếm nhân lực trong xã hội. Qua đó, góp phần cải tạo xã hội
Việt Nam, giúp Việt Nam ngày càng phát triển. (Theo kết quả của một cuộc điều tra thì ở
một số nước đã phát triển thì việc tư vấn tâm lý, phân luồng nghề nghiệp được diễn ra rất
sớm. Cụ thể: ở Đức học sinh được phân luồng và định hướng nghề nghiệp từ rất sớm,
ngay cuối tiểu học và đầu cấp hai. Hay ở Pháp, có hội đồng ở từng quận, xã để hướng
nghiệp cho học sinh, được làm ngay từ lớp 7…)
Cuối cùng, để giải quyết vấn nạn bằng cấp đặc biệt là trong học sinh, sinh viên thì việc
tham gia của truyền thông và các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài là hết sức
cần thiết. Với vai trò truyền bá thông tin đến mọi nhà thì truyền thông cũng như các
phương tiện thông tin đại chúng sẽ là người bạn đồng hành không thể thiếu của cuộc vận
động thay đổi tâm lý xã hội. Truyền thông sẽ là mũi nhọn giúp đầy lùi, bài trừ, xóa bỏ
tâm lý sính bằng cấp trong mọi ngóc ngách của xã hội cũng như trong suy nghĩ của mọi
người. Sử dụng truyền thông cùng các hình thức như tuyên truyền, thông báo, tọa

đàm….được tin tưởng sẽ đem lại hiệu quả lớn trong việc xóa bỏ tâm lý sính bằng cấp
trong học sinh, sinh viên nói riêng cũng như mọi người Việt Nam nói chung.
Chuộng bằng cấp đã không còn là một vấn đề mới nhưng lại vô cùng gây nhức nhối trong
xã hội Việt Nam. Từ những giải pháp kể trên, nhóm 5 không tham vọng có thể giải quyết
triệt để được vấn đề chuộng, sính bằng cấp trong xã hội mà chỉ hy vọng tâm lý sính,
chuộng bằng cấp sẽ phần nào dần dần được xóa bỏ trong xã hội mà trước hết là trong giới
học sinh sinh viên rồi từ đó dần dần góp phần khiến xã hội Việt Nam từ một xã hội
chuộng bằng cấp sang một xã hội chuộng thức lực.



×