Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

tình trạng mất cân bằng giới tính ở việt nam thừa nam thiếu nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.89 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HCM

MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Lớp: D03
Gv: Nguyễn Thanh Minh
CHỦ ĐỀ: TÌNH TRẠNG MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH Ở
VIỆT NAM- THỪA NAM THIẾU NỮ


MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
Lớp: D03
Gv: Nguyễn Thanh Minh
CHỦ ĐỀ:TÌNH TRẠNG MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH
Ở VIỆT NAM-THỪA NAM THIẾU NỮ



Mất cân bằng giới tính và thực trạng

I.

1. Mất cân bằng giới tính

2.

-Tỉ số giới tính khi sinh là số trẻ trai sinh ra còn sống so với 100 trẻ
gái sinh ra còn sống trong 1 khoảng thời gian nhất định thường là 1
năm tại 1 quốc gia, 1 vùng hay 1 tỉnh. Bình thường tỉ số này dao
động từ 103-108.
_ Mất cân bằng giới tính khi sinh( MCB GTKS) là số trẻ trai sinh
ra còn sống cao hơn hoặc thấp hơn ngưỡng bình thường so với 100


trẻ gái. MCB GTKS xảy ra khi tỉ số giới tính nam khi sinh lớn hơn
108 hoặc nhỏ hơn 103 so với 100 trẻ nữ.
_ Tình trạng thừa nam thiếu nữ là một dạng của mất cân bằng giới
tính khi sinh mà tỉ số nam giới nhiều hơn so với 100 nữ giới.
Thực trạng
-

-

Tình trạng mất cân bằng giới tính ở Việt Nam ngày càng tăng.
Năm 2000, tỉ lệ này là 107,3 bé trai trên 100 bé gái thì đến năm
2012 con số này tăng lên 112,3 bé trai/100 bé gái, đến 6/2014 tỉ
lệ tăng lên 114 bé trai/100 bé gái. Và hiện nay đã có 55/63 tỉnh
thành có tỉ số giới tính khi sinh trên 108 bé trai trên 100 bé gáiđây là con số hết sức báo động.
Trong những năm qua công tác DS-KHHGĐ tỉnh Phú Thọ đã
đạt thành tựu quan trọng từng bước kiềm chế gia tăng mức sinh,
duy trì mức sinh thay thế đã đạt được.Công tác DS-KHHGĐ đã
góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
kinh tế-xã hội của tỉnh, nâng cao mức sống người dân, cải thiện
tình trạng sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, nâng cao chất
lượng dân số. Tuy nhiên công tác DS-KHHGĐ cả nước cũng
như ở tỉnh đang đối mặt với các nguy cơ, thách thức đó là: Mức
sinh chưa ổn định, tình trạng sinh con thứ 3 trở lên một số nơi


-

có chiều hướng gia tăng, mất cân bằng giới tính khi sinh đang ở
mức báo động. Tỷ số giới tính khi sinh được tính bằng số trẻ em
sinh là trai/100 bé gái. Chỉ số này được coi bình thường trong

khoảng 103-107 nam/100 nữ. Duy trì chỉ số này trong giới hạn
trên sẽ đảm bảo sự cân bằng trong phát triển tự nhiên và xã hội,
của một quốc gia, địa phương. Mất cân bằng giới tính khi sinh
thường xảy ra ở các quốc gia thực hiện chính sách dân số hạn
chế sinh đẻ, gia đình ít con (1-2 con) như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ, và một số nước vùng trung á như Azecbaizan, Ac
mênia... Từ cuối những năm 70 khi xuất hiện máy siêu âm, kỹ
thuật chọc ối, xét nghiệm máu, gen... đã giúp cho các cặp vợ
chồng biết đựơc giới tính thai nhi. Những năm 1990, tỷ số giới
tính khi sinh của Trung Quốc, Hàn Quốc đã lên tới 115. Từ năm
2000 đến nay Hàn Quốc đã cơ bản khống chế được tình trạng
mất cân bằng giới tính khi sinh và đưa về đúng quy luật sinh sản
tự nhiên trong khi Trung Quốc vẫn tăng lên 122,8 năm 2010.
Tính đến năm 2005 đã có 12 nước vùng lãnh thổ xảy ra tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.
Năm 2000, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam vẫn ở mức
bình thường nhưng trong 5 năm gần đây từ 2006 đã có biểu hiện
tăng đạt mức 110,6 năm 2009, tương đương mức năm 1990 của
Trung Quốc. Mất cân bằng giới tính khi sinh đang là tình trạng
phổ biến ở các địa phương trong cả nước. Vùng thành thị cao
hơn nông thôn, cao nhất vùng đồng bằng sông Hồng 115,3, sau
đó vùng Đông Nam bộ 111, Đồng bằng sông Cửu Long 109,9,
bắc trung bộ và Duyên hải miền trung 109,7, trung du miền núi
phía bắc 108,5, thấp nhất vùng Tây nguyên 105,5. Trong nhóm
10 tỉnh có tỷ số giới tính cao Hưng Yên là tỉnh có tỷ số cao nhất
130,7 và 10 tỉnh có tỷ số thấp, thấp nhất là Bắc Cạn 102. Tỷ số
giới tính khi sinh theo lần sinh có xu hướng tăng ở lần sinh thứ


-


-

nhất 110,2, lần 2 là 109, lần 3 là 115,8. Tỷ số giới tính khi sinh
tăng tỷ lệ thuận với trình độ học vấn người mẹ. Theo các nhóm
kinh tế - xã hội thì nhóm giàu nhất tỷ số giới tính khi sinh 112,9,
nhóm trung bình 112,8, nhóm nghèo nhất 105,2.
Tỉnh Phú Thọ mất cân bằng giới tính khi sinh đang ở mức cao,
xảy ra ở tất cả các huyện, thành thị trong tỉnh. Theo kết quả
Tổng điều tra Dân số và nhà ở 1/4/2009 tỷ số giới tính khi sinh
cao hơn trung bình cả nước. Theo báo cáo của hệ thống dân số
các huyện, thành, thị về số trẻ em sinh trong 5 năm 2006-2010
cho thấy tất cả các đơn vị đều có tỷ số giới tính khi sinh cao trên
mức bình thường. Tỷ số giới tính khi sinh bình quân 5 năm của
toàn tỉnh 118,3, các huyện có tỷ số cao là Thanh Ba 128,1;
Thanh Thủy 127; Cẩm Khê 125; Yên Lập 120. Tỷ số giới tính
khi sinh 8 tháng năm 2011 toàn tỉnh vẫn cao 115,3. Qua khảo
sát ở 09 xã thuộc 03 huyện cho thấy tỷ số giới tính khi sinh ngay
từ con thứ nhất đã rất cao có nơi trên 200, xu hướng lựa chọn
giới tính thai nhi xuất hiện ngay lần sinh thứ nhất. Đây là điều
cảnh báo của nguy cơ mất cân bằng giới tính nghiêm trọng sẽ
diễn ra trong tương lai ở các địa phương trong tỉnh. Tình hình
đặc biệt đáng lo vì mức độ gia tăng này diễn ra trong thời gian
ngắn, chỉ có 5 năm, Quỹ dân số LHQ cho biết và họ cảnh báo
rằng sự mất cân bẳng đó sẽ dẫn tới một số vấn đề xã hội trong
những năm tới.
Hồi tháng Năm năm 2009, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân
đã cảnh báo tình trạng mất cân bằng giới tính tại Việt Nam có
thể khiến khoảng 3 triệu nam giới khó tìm được vợ vào năm
2030.


VD:


_Hiện nay, đa số các trường mẫu giáo trên cả nước có số lượng bé
trai nhiều hơn bé gái. Tại Yên Bái, thăm một lớp mẫu giáo thuộc
trường Tiểu học & Trung học cơ sở Văn Lãng( huyện Yên Bình),
dễ nhận thấy số bé trai nhiều hơn bé gái, trong tổng số học sinh của
trường thì tỉ lệ bé trai chiếm trên 60%. Đây không phải là trường
hợp cá biệt mà hiện nay ở nhiều trường học, cấp học toàn tỉnh, tỉ lệ
học sinh nam vẫn nhiều hơn so với tỉ lệ học sinh nữ.

Tỉ lệ bé trai hiện nay cao hơn so với bé gái. Ảnh cô và trò
trường mầm non xã Minh Quân, huyện Trấn Yên trong giờ học.

Tỉ số giới tính của trẻ em mới sinh ( Số bé trai/ 100 bé gái)
Năm
2000
2001
2002
2003

Tỉ lệ( số bé trai/ 100 bé gái)
107,3
109,0
107,0
104,0


2004

2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

I.

108,0
105,6
109,8
111,6
112,1
110,5
111,2
111,9
112,3
113,8

Nguyên nhân

Lựa chọn giới tính

Ông Bruce Campbell, Đại diện UNFPA tại Việt Nam, cho biết những
nước châu Á khác cũng có vấn đề về mất cân đối giới tình nhưng là
trong một thời gian dài hơn rất nhiều.


"Hơn 30 năm, tỉ lệ sinh giới khi sinh của Trung Quốc lên mức 130
(nam so với 100 nữ) và Nam Hàn là 116, và những con số này đang
giảm xuống," ông nói.

"Việt Nam đi từ mức bình thường là 105 lên 110.6 trong vòng 5 năm
qua."


Việt Nam đã cấm việc phá thai vì lý do lựa chọn giới tính từ năm
2003 trong một nỗ lực để giải quyết tình trạng mất cân đối này, tuy
nhiên tình trạng này vẫn chưa chấm dứt.

"Trên thế giới, ở các nước hiện tượng mất cân đối tỉ lệ giới tính khi
sinh gia tăng chọn lựa giới tính trẻ sơ sinh thường có ba nguyên nhân
chính. Một là thích có con trai. Đây là một khía cạnh rất cơ bản của
văn hóa và xã hội ở nhiều nước. Thứ nhì là sức ép về sinh sản, làm
sao để có gia đình ít con hơn, nhất là tại châu Á, và thứ ba là việc có
luật và khoa học kỹ thuật để có thể lựa chọn con trai," ông Campbell
giải thích.

"Và tại Việt Nam là sự kết hợp của cả ba yếu tố đó."
Cụ Thể:

_ Phong tục tập quán, tâm lý xã hội truyền thống, tư tưởng nho
giáo phải có con trai nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên ăn sâu
vào tiềm thức người dân.
_Do áp lực sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con nhưng các
cặp vợ chồng mong muốn trong số đó nhất thiết phải có con trai
vì vậy đã tìm các dịch vụ y tế, xã hội để lựa chọn giới tính khi

sinh.
_ Do tính chất công việc phải đòi hỏi lao động cơ bắp của con
trai, trụ cột về lao động.


_Do chế độ an sinh chưa đảm bảo, hiện nay có khoảng 70% dân
số sống nông thôn không có lương hưu bảo hiểm tuổi già, họ
cần con trai để phụng dưỡng chăm sóc.
_Trách nhiệm đó chủ yếu thuộc về con trai vì họ sẽ cảm thấy lo
lắng và không an tâm trong tương lai nếu chưa có con trai. Do
chính sách đối với nữ giới chưa thoả đáng, bình đẳng giới có
mặt chưa được quan tâm đầy đủ
_. Nguyên nhân trực tiếp là lạm dụng tiến bộ khoa học công
nghệ để thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi ngay từ trước
lúc mang thai như chế độ ăn uống, ngày phóng noãn, trong
thụ thai chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ
tinh, siêu âm bắt mạch chọc hút dịch ối...nạo phá thai.
II.

Ảnh Hưởng

“ Hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt
Nam đã được tổ chức UNFPA cảnh báo: nếu xu hướng này lặp lại
ở Việt Nam và lan rộng diễn ra với tốc độ nhanh sẽ trở thành vấn
đề nghiêm trọng trong tương lai, ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu
giới tính và nhân khẩu học. Cũng theo dự báo của tổ chức UNFPA
nếu tiếp tục tăng như vậy các năm tiếp theo sẽ tác động nặng nề
đến thế hệ nam thanh niên được sinh ra sau năm 2005 vì khi bước
vào độ tuổi lập gia đình vào những năm 2030 thì nhóm nam giới
này sẽ dư thừa so với phụ nữ cùng lứa tuổi 10%. Nếu không có can

thiệp hiệu quả để giảm mất cân bằng giới tính khi sinh thì sau 20
năm nữa Việt Nam sẽ có 4,3 triệu thanh niên ít có cơ hội lấy được
vợ trong nước. Dù làm tốt can thiệp để giảm mất cân bằng giới tính
khi sinh thì con số đó cũng còn tới 2,3 triệu. Cũng theo cách tính
toán nêu trên đến năm 2030 tỉnh Phú Thọ cũng sẽ có khoảng từ 3,1


vạn đến 4,2 vạn nam giới không có phụ nữ cân đối. Mất cân bằng
giới tính khi sinh sẽ tạo sự khan hiếm phụ nữ trong tương lai gây
thêm áp lực về kết hôn độ tuổi trẻ hơn, tảo hôn, tăng nhu cầu mại
dâm buôn bán phụ nữ, bạo hành giới là nguy cơ mà phụ nữ và các
em gái phải đối mặt.”
(tríchTrang Báo mạng Sở Y Tế
Phú Thọ)

1/ Đối với Xã Hội
_Nhà Nước tốn kém chi phí đầu tư giường bệnh hoặc các chi
phí đầu tư nguồn lực về chăm sóc khoẻ,
_Số nam giới có cuộc sống độc thân gia tăng gây những bất ổn
về trật tự cộng đồng
_Gia tăng nạn mại dâm,tình trạng buôn bán phụ nữ,trẻ em, gia
tăng bạo lực
_Việc thiếu phụ nữ sẽ làm gia tăng áp lực buộc cac em gái phải
kết hôn sớm hơn & có thể bỏ học để lập gia đình.
2/ Đối với Gia Đình
_Hạnh phúc gia đình sẽ không được trọn vẹn nếu có nam giới ở
độ tuổi trưởng thành khó có cơ hội lấy được người vợ mong
muốn, phải sống độc thân. Điều này gây ra những lo lắng, căng
thẳng về tâm lý, mất nhiều thời gian hơn trong việc tìm vợ đối
với các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng đến hạnh phúc và

sự phát triển kinh tế gia đình.


_Tình trạng kết hôn sớm ở phụ nữ gia tăng ảnh hưởng tới giống
nòi,gây suy thoái thế hệ khi chưa đủ tuổi sinh sản
_Người phụ nữ trong gia đình bị sức ép phải sinh thêm con hoặc
phải nạo phá thai để lựa chọn giới tính cho con, ảnh hưởng đến
sức khoẻ phụ nữ và ảnh hưởng đến kinh tế gia đình trong việc
tiêu tốn chi phí chăm sóc sức khoẻ và bản thân người phụ nữ
cũng không thể có nguồn thu nhập khi đang có bệnh.
_Việc nạo, phá thai , đẻ nhiều, khiến người phụ nữ chịu sức ép
tinh thần rất lớn khi không sinh được con trai như mong muốn
và dẫn tới những hệ luỵ kéo dài trong tương lai.
3/ Đối với Kinh Tế
_ Tỉ lệ nam giới nhiều hơn nữ giới sẽ làm lực lượng lao động
nam tăng, lao động nữ sẽ ít. Điề nayd là nguyên nhân của việc
mất cân bằng giữa lực lượng lao động nam và nữ.
_Gia tăng tỉ lệ thất nghiệp ở nam giới.
_Thu nhập bình quân đầu người ở nam giới giảm


III.

Giải Pháp

_Chủ động tham mưu cho các cấp ủy đảng, chính quyền về các giải
pháp nhằm hạn chế mất cân bằng giới tính khi sinh tại địa phương.
_Tăng cường sự phối hợp liên ngành trong chỉ đạo triển khai thực
hiện các hoạt động tuyên truyền- giáo dục để nâng cao nhận thức, thái
độ và chuyển đổi hành vi của người dân, dần xóa bỏ quan niệm cũ

phải có con trai nối dõi tông đường.
_ Cung cấp thông tin về tình hình, hậu quả và giải pháp khắc phục
tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đến mỗi cấp ủy đảng, chính
quyền và mọi tầng lớp dân cư. Chú trọng giáo dục
DS/SKSS/KHHGĐ về giới tính, bình đẳng giới cho VTN/TN và nam,
nữ chuẩn bị kết hôn. Đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về các dịch vụ y
tế nói chung, chăm sóc SKSS/KHHGĐ nói riêng cho mọi đối tượng,
địa bàn.
_Đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành các quy định chính sách kinh
tế-xã hội ưu tiên quan tâm tới những gia đình sinh con một bề là gái.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát các cơ sở y tế công
lập và tư nhân trên địa bàn nhằm phát hiện ngăn chặn kịp thời những
hành vi vi phạm lựa chọn giới tính thai nhi khi sinh.
_ Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định của Pháp lệnh Dân số
về nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình
thức đã nêu trong điều 10 Nghị định số 104-CP ngày 16/9/2003 Nghị
định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp lệnh
Dân số./

_Tăng cường duy trì các hoạt động tuyên truyền giáo dục tư vấn
hướng tới cộng đồng,nhằm phòng ngừa hậu quả tình trạng “mất cân


bằng giới tính” đặc biệt là các cặp vợ chồng đang trong độ tuổi sinh
đẻ, các cặp vợ chồng có con gái đầu lòng. Đặc biệt là ở các vùng sâu
vùng xa.

_Nâng cao vai trò và vị thế của Phụ Nữ trong gia đình và xã hội thông
qua chính sách phát triển kinh tế- xã hội
_Thực hiện chính sách sinh từ 1 đến 2 con để đảm bảo nuôi dạy tốt

nhất, răn dạy ý thức trẻ em khi còn nhỏ để không còn tư tưởng sinh
con trai.



×