Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

giải pháp phát triển để phát triển kinh tế thị trường của đảng trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.69 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
ĐỀ 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA
ĐẢNG TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

MỤC LỤC
Tran
g
2

MỞ ĐẦU
1


NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC VÀ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

3

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
I.1. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng

3

thời kì đổi mới
I.2. Đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của

3

Đảng thời kì đổi mới


II. GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA ĐẢNG

5

TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

8
13
14

MỞ ĐẦU
Cùng với quy luật lịch sử của Việt Nam đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau.
Bên cạnh đó Việt Nam là một nước phải trải qua các cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài. Do
đó nền kinh tế Việt Nam cũng luôn thay đổi. Từ một nền kinh tế thấp chậm phát triển, đó là
nền kinh tế tự nhiên (hay còn gọi là nền kinh tế tự cung, tự cấp)... đến nền kinh tế kế hoạch
2


hoá (còn gọi là nền kinh tế quản lý tập trung),... và cho đến nay đã trở thành một nền kinh tế
chịu sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội.
Thực tế cho ta thấy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là
sản phẩm chủ quan của tư duy thuần túy mà là sự tổng kết từ thực tiễn, kế thừa và phát triển
các lý thuyết về kinh tế thị trường và là mô hình phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Để phát triển nền kinh tế thị trường chúng ta cần phải giải quyết rất nhiều vấn đề đi cùng với
nó. Qua nhiều năm đổi mới chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu điều đó chứng tỏ đường
lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn nhưng cũng còn không ít vấn đề
cấp thiết cần được giải quyết. Với chủ đề “ Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường của
Đảng trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế” em hi vọng có thể giải quyết được phần nào

những vấn đề, khuyết điểm còn tồn tại

NỘI DUNG
I. NHẬN THỨC VÀ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

3


I.1. Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng thời kì
đổi mới
I.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự
phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, là kết quả của quá trình phân công
lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng kiến rất nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã
hội rất khác nhau; đó là kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, kinh tế hàng hoá, đầu tiên là kinh tế
hàng hoá giản đơn, lạc hậu, sau đó đến kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa và tiếp đến là kinh
tế thị trường khi hệ thống thị trưòng được mở rộng và phát triển đồng bộ.
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện
trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Kinh tế thị trường là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hoá dựa trên sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, trong đó
từ sản xuất đến tiêu dùng đều thông qua thị trường –nghĩa là trong kinh tế thị trường , các
yếu tố “đầu vào” (những hàng hoá dịch vụ cần cho sản xuất) và “đầu ra” (những hàng hoá,
dịch vụ cần cho tiêu dùng) đều thông qua thị trường. Đồng thời trong kinh tế thị trường, các
quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Chính V.I.LêNin đã dùng khái niệm kinh tế tiền tệ để
nói đến trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá dưới chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị
trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân
tố, các mối quan hệ, môi trường, động lưc và các quy luật chi phối sự vận động của thị

trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường có cùng nguồn gốc và bản chất với nhau
nhưng khác nhau về trình độ phát triển.
Trong những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trường chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các
chế độ kinh tế – xã hội khác nhau. Tuy nhiên dù tồn tại dưới chế độ xã hội nào, kinh tế thị
trường vẫn mang những đặc trưng cơ bản sau:







Kinh tế thị trường vận động theo những quy luật vốn có :quy luật giá trị, quy luật
cung – cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh...
Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao trong sản xuất kinh doanh.
Giá cả được hình thành chủ yếu do thị trường tự quyết định, do đó nền kinh tế có khả
năng tự điều chỉnh cao.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là tất yếu đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải
có tính năng động cao, luôn cải tiến, đổi mới sản phẩm hàng hoá để tăng lợi thế cạnh
tranh trên thị trường.
Kinh tế thị truờng không phải là một nền kinh tế “đóng” mà là một nền kinh tế “mở”.
4




Kinh tế thị trường ngày nay đều có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Mức độ can thiệp
của nhà nước ở mỗi nước là rất khác nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của từng nước.


I.1.2. Kinh tế thị trường không những tồn tại mà còn cần thiết cho công cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường đã phát triển dưới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản đã biết
dùng kinh tế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nhưng kinh tế thị
trường là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, đó là sản phẩm của quá trình phát
triển lực lượng sản xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức
sản xuất. Ngày nay tất cả các nước đều phải xây dựng kinh tế thị trường, tuy nhiên trong chế
độ xã hội khác nhau thì kinh tế thị trường đươc sử dụng với mục đích khác nhau. Do đó xây
dựng và phát triển kinh tế thị trường là phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại.
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức xã hội, càng không phải là một chế độ xã hội,
một phương thức sản xuất, do đó nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà có đủ điều kiện
tồn tại dưới chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Thứ nhất, phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hoá
chẳng những không mất đi mà còn ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ở
nước ta hiện nay, sự phát triển phân công lao động xã hội ở nước ta thể hiện ở chỗ các
ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng và phong phú, chuyên môn hoá sâu trong từng đơn
vị kinh tế, từng địa phương trong cả nước đồng thời chất lượng hàng hoá ngày càng cao trên
thị trường.
Thứ hai, sự tách biệt về kinh tế biểu hiện ở nước ta đó là sự tồn tại và phát triển của
nhiều hình sở hữu tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể, đơn vị kinh tế. Do đó các
chủ thể kinh tế khi cần sản phẩm của nhau cũng tất yếu phải thông qua con đường thoả
thiận, trao đổi, mua bán- tức là vẫn sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ tính toán hiệu quả kinh
tế. Quan hệ hàng hoá-tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế quốc tế, đặc biệt phân
công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu.
Kinh tế thị trường không chỉ tồn tại khách quan mà còn cần thiết cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975),
mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp ở miền Bắc được áp dụng trên phạm vi cả
nước. Đặc trưng của cơ chế này là nhà nước giao kế hoạch cho các doanh nghiệp với một hệ
thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, nhà nước cung cấp vật tư tiền vốn cho các doanh nghiệp
sản xuát kinh doanh. Xí nghiệp sản xuất theo kế hoạch rồi giao nộp sản phẩm cho nhà nước,

lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù, làm triệt tiêu mất vai trò động lực của lợi nhuận. Nhà nước
đã đầu tư khá lớn, nhưng trong năm 5 đầu (1976-1980) tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
5


chạp, thậm chí có xu hướng giảm sút và bắt đầu rơi vào giai đoạn khủng hoảng. Nguyên
nhân là do việc phân phối bình quân làm cho nền kinh tế bị hiện vật hoá, các quan hệ hàng
hoá tiền tệ không còn được sử dụng.Trước những khó khăn đó Nhà nước đã tìm kiếm các
giải pháp cải tiến mà mốc lịch sử đánh dấu quá trình đổi mới kinh tế đất nước là đại hội VI
của Đảng năm 1986. Đảng ta chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường
đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác hiệu quả tiềm năng đất nước.Thực tiễn
những năm đổi mới đã chứng minh rằng việc đổi mới chính sách đó là hoàn toàn phù hợp.
I.2. Đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng thời
kì đổi mới
Với tư duy đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội VI của Đảng mở ra một bước ngoặt
và sự khởi đầu quan trọng của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Đại hội VI đã khẳng định việc giải phóng sức sản xuất, chủ trương bố trí lại cơ cấu
sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất
mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Đại hội xác định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp,
xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế,
nhằm tạo động lực thúc đẩy các đơn vị sản xuất, kinh doanh nâng cao năng suất lao động,
chất lượng và hiệu quả với cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chủ trương của Đại hội đề ra cần kết hợp hài hòa các lợi ích của người lao động, tập
thể và toàn xã hội, coi đó là động lực phát triển kinh tế, thực hiện phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng bảo đảm sự thống nhất hài

hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, thực hiện công bằng xã hội và khắc phục
xu hướng bình quân hóa trong phân phối. Tuy nhiên, Đại hội VI chưa đề cập đến phát triển
kinh tế thị trường, và bản thân tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế còn
nhiều hạn chế. Một điểm cần lưu ý là, mặc dù đã đặt ra sự thay đổi về cơ chế mới nhưng vẫn
nặng về tính kế hoạch thống nhất, “tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý
kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ” và “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền
tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới...”. Những hạn chế của Đại hội VI đã được khắc phục
một phần quan trọng tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, cụ thể:

6


Xác định chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tính dân chủ về kinh tế, bảo
đảm cho mọi người có điều kiện làm ăn theo pháp luật.
• Xác định các thành phần kinh tế vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với
nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật và xóa bỏ những định kiến, phân biệt đối
xử không đúng và hình thức độc quyền kìm hãm những xu thế ấy.
• Vị trí của các thành phần kinh tế được xác định lại: kinh tế quốc doanh có đủ lực
lượng chi phối thị trường nhưng không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành,
nghề; kinh tế tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của
nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội.


Đại hội VII của Đảng đã có bước phát triển mới trong nhận thức về mối quan hệ giữa
cơ chế thị trường, Nhà nước và doanh nghiệp. Tuy chưa khẳng định rõ “Nền kinh tế thị
trường”, nhưng đã xác định “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp
luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”. Trong cơ chế đó, “Phát huy thế mạnh của
các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc

dân thống nhất”, “Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình
đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp
hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất
kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế,
bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.
Về những yêu cầu của cơ chế thị trường, Đại hội nhấn mạnh: “Kiên trì vận dụng cơ
chế thị trường đối với giá hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng;
điều chỉnh từng bước mặt bằng giá và quan hệ tỷ giá cho phù hợp với sự thay đổi giá quốc tế
đối với các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu...”.
Đại hội cũng chỉ rõ: “Thực tế cho thấy, bản thân nền kinh tế thị trường không phải là
liều thuốc vạn năng. Hơn nữa, cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường
cũng là môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tệ nạn xã hội. Để hạn chế
và khắc phục những hậu quả tiêu cực ấy, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát
huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh
tế, xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công
cụ khác”.
Cùng với những nhận thức mới về kinh tế thị trường, Đại hội VII yêu cầu “Phải giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên
tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy bén nắm bắt cái mới. Đổi
7


mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực
hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức,
bước đi và biện pháp thích hợp”, “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định
hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh
đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của mình”.
Đại hội VII xác định công bằng xã hội phải được thực hiện trong cả phân phối tư liệu
sản xuất và kết quả sản xuất; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm
nghèo; quan hệ giữa người giàu và người nghèo; chính sách đền ơn đáp nghĩa và điều tiết
thu nhập... Những quan điểm đó được triển khai trên thực tế đã tác động tích cực đến việc
thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và tăng cường đồng thuận xã hội.
Đến Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4-2001), khái niệm kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chính thức được thể hiện trong các văn kiện, đồng thời khẳng định phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là
mô hình tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là mô
hình kinh tế vừa có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc điểm
riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Kế thừa tư duy lý luận của Đại hội IX, Đại hội X của Đảng đã làm rõ thêm một bước
nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trên các phương diện: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta; nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước; phát triển đồng bộ và
quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành
mạnh. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... Giải quyết tốt các vấn đề xã hội
vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,
hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua
phúc lợi xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã tiếp tục quán triệt quan điểm trên đây, đồng thời
nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền
kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”.
8



Bên cạnh những thành tựu, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Kinh tế phát triển chưa
bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp,
các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc…”, đồng thời nhấn mạnh: “Thể chế kinh tế thị
trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển”. Chính vì thế, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện về mặt lý luận cũng như liên hệ
với thực tiễn trong bối cảnh hiện nay về những vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa lại càng cấp thiết.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA ĐẢNG TRONG
THỜI KÌ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong đổi mới .Tuy vậy cũng cần phải có
những phương hướng để phát triển nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay,giai
đoạn hội nhập mở cửa với các nước trên thế giới. Những giải pháp cụ thể đó là:
Thứ nhất
Cần khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế thị trường và mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không đối lập nhau, có những mâu thuẫn phát sinh
trong quá trình phát triển nhưng điều đó hoàn toàn theo quy luật khách quan và có những
phương thức giải quyết.
Chúng ta xem kinh tế thị trường là phương tiện để đạt được mục đích khi phát triển
nó theo một định hướng và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, nhằm phát huy tất cả
những mặt tích cực và hạn chế những khuyết tật của nó. Chính vì vậy, việc hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội XI của Đảng xác định là
một trong ba khâu đột phá chiến lược và đó cũng chính là khung pháp lý cho sự phát triển
nền kinh tế.
Thứ hai
Những đặc trưng và tiêu chí của kinh tế thị trường nói chung đã được thể hiện trong
nhiều học thuyết kinh tế, trong thực tiễn phát triển và cả ở sự công nhận của cộng đồng
quốc tế. Do đó trong quá trình phát triển, có thể tham khảo những đề xuất sau đây của
WTO, EU và Mỹ:



Những tiêu chí của WTO: thương mại không phân biệt đối xử; tự do hóa thương mại và
gia nhập thị trường; bảo đảm tính minh bạch, tiên liệu được trong chính sách thương
mại; bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, chống bóp méo giá cả, chống bán
phá giá; thúc đẩy phát triển và cải cách kinh tế, tạo điều kiện cho chính phủ khắc phục
các dạng “thất bại” của thị trường thông qua ưu đãi thuế quan và thực hiện các dạng trợ
cấp được phép.
9






Những tiêu chí của EU: mức độ ảnh hưởng (thấp) của chính phủ đối với việc phân bổ
các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp, bất kể là trực tiếp hay gián tiếp; nhà
nước không được can thiệp, bóp méo hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến quá
trình tư nhân hóa; không sử dụng hệ thống thương mại phi thị trường (hàng đổi hàng) và
không áp dụng chế độ bao cấp; ban hành và thực thi luật doanh nghiệp bảo đảm tính
minh bạch, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện phù hợp cho quản lý doanh nghiệp;
ban hành và áp dụng một hệ thống luật thống nhất, hiệu quả và minh bạch bảo đảm tôn
trọng quyền sở hữu tài sản và bảo đảm sự vận hành của cơ chế phá sản doanh nghiệp;
tồn tại một khu vực tài chính đích thực, hoạt động độc lập với nhà nước, về mặt luật
pháp cũng như trên thực tế, chịu sự điều chỉnh của các quy định bảo lãnh đầy đủ, chịu sự
giám sát một cách thỏa đáng; tự do hóa thị trường để mở rộng cạnh tranh.
Những tiêu chí của Mỹ: mức độ chuyển đổi của các đồng tiền nước ngoài với bản tệ;
mức độ thỏa thuận về tiền lương giữa người lao động và nhà quản lý; mức độ tự do
trong hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài; mức độ sở hữu hoặc kiểm soát của
chính phủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; mức độ kiểm soát của chính phủ đối với

việc phân bổ các nguồn lực và đối với các quyết định về giá cả và sản lượng của các
doanh nghiệp; các yếu tố khác có liên quan như mức độ tự do hóa thị trường và thương
mại, nhà nước pháp quyền, chống tham nhũng v.v..

Với những tiêu chí trên đây, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã thể hiện được
tương đối đồng bộ, nhiều nước đã công nhận nước ta là nền kinh tế thị trường (trước hết là
các nước thành viên của ASEAN). Tuy đến nay EU, Nhật Bản và Mỹ vẫn chưa công nhận
Việt Nam là nền kinh tế thị trường, nhưng cùng với sự vận động thực tiễn nền kinh tế và
quan hệ ngày càng tốt hơn giữa nước ta với các nước, thời hạn trên chắc chắn sẽ được rút
ngắn.
Thứ ba
Cần xác định những nội dung quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối”. Do vậy, một số nội dung cần được làm rõ và phát triển trong nghiên
cứu:
Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa
dạng ngày càng phát triển.
• Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh


10











tranh lành mạnh, trong đó vai trò của kinh tế nhà nước cần được đầu tư nghiên cứu
thỏa đáng.
Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây
dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và
quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều
có người làm chủ cụ thể, mọi đơn vị kinh doanh đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh của mình.
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực
được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và theo
nguyên tắc thị trường; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu
quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và phân phối
thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật
chất.

Thứ tư
Tiếp tục đi sâu nghiên cứu và có những nhận thức hệ thống, bổ sung để ngày càng
toàn diện hơn về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị
trường ở nước ta.
Cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực
nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích
làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, tăng cường đồng thuận xã hội để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Phát huy quyền tự do

kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã
hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh. Trong đó kinh tế nhà
nước phải được chú trọng đặc biệt, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Phát triển kinh tế phải đồng hành với phát triển văn hóa,
xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Công bằng trong phân phối các yếu tố sản
xuất, tiếp cận các cơ hội kinh doanh và phân phối kết quả làm ra. Phát huy hiệu lực, hiệu quả
quản lý nền kinh tế của Nhà nước, chú trọng phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt trái, tiêu
cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế...
Sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau, trong đó
kinh tế thị trường đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng và những khả năng thích ứng với nhiều
biến thể của lịch sử. Tuy nhiên, những rủi ro tiềm ẩn của kinh tế thị trường là rất lớn, nguy
11


cơ của khủng hoảng, suy thoái của nó không phải âm ỉ như trong mô hình kinh tế kế hoạch
mà bùng phát và mang tính dây chuyền cao, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Sức tăng trưởng cao, đồng thời nguy cơ khủng hoảng và suy thoái lớn là những đặc tính cố
hữu của kinh tế thị trường, chỉ trong điều kiện xác định đúng đắn định hướng phát triển của
nó, dự đoán và có khả năng đối phó với những nguy cơ và ảnh hưởng của kinh tế thị trường
thì đất nước mới có thể đạt được những mục tiêu đặt ra./.
Thứ năm
Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ nghĩa
cá nhân.
Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trở thành một nhiệm vụ cấp bách
trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định:
"Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây
dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội"(4).
Do vậy, vấn đề này cần phải được nhìn nhận thẳng thắn, trực diện và thực hiện một chiến
lược triệt để phòng, chống tham nhũng một cách thật sự hiệu quả với sự tham gia của toàn

Đảng, toàn dân và các thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính
sách, giảm bớt và loại bỏ những kẽ hở; đồng thời luôn luôn giáo dục con người ý thức tôn
trọng pháp luật, thực hiện kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai đối
với những cán bộ, công chức tham nhũng.
Thứ sáu
Thực hiện sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển ở tất cả các giai
đoạn phát triển của kinh tế thị trường.
Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt vấn đề phân phối, đặc biệt chú trọng quản
lý thật tốt thu nhập cá nhân từ đó xây dựng cơ chế điều tiết phân phối thu nhập, hình thành
nên chính sách phân phối hợp lý, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ bảy
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để giữ vững an ninh quốc gia, ổn
định chính trị - xã hội.
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã nêu rõ: "...nhất thiết phải tăng cường tiềm
lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh"(5). Như vậy, để
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì lực lượng quốc phòng phải đủ mạnh, phải
là công cụ sắc bén để đủ sức mạnh chủ động đập tan mọi âm mưu phá hoại, xâm lược, chống
12


phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong bất cứ tình huống nào, tạo ra môi trường
kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi,...cũng là giữ vững định hướng XHCN.
Thứ tám
Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại phải:
Đa dạng hóa hình thức, đa phương hóa đối tác.
Quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, không phân biệt chế độ chính trị xã hội.
• Cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút rộng rãi vốn đầu tư nước ngoài, thu

hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý.



KẾT LUẬN
Quan điểm toàn diện với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một vấn đầ hết sức cần thiết đối với nước ta. Chúng ta nhận thức được rằng những
thành tựu chúng ta đạt được qua việc thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là sự nỗ lực vượt
bậc của Đảng, toàn dân ta. Đồng thời những khó khăn thách thức mà chúng ta gặp phải cũng
13


hết sức to lớn yêu cầu chúng ta phải tiếp tục cố gắng hơn nữa , nỗ lực hơn nữa để vượt qua.
Với thực tiễn đổi mới , trước hết là đổi mới tư duy nhận thức vè con đường xã hội chủ nghĩa
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này
trên thực tế đã trở thành nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa đảm bảo cho mọi hoạt động kinh tế,
văn hóa, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước .
Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình đi từ đơn giản toái phức tạp, từ chưa hoàn
thiện tới hoàn thiện. Hơn thế nữa chủ nghĩa xã hội lại là hiện tượng tương đói mới mẻ, đang
vận động hình thành tronh lịch sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tế nghiên cứu và tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận đó là một yêu cầu to lớn mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý
luận của Đảng hôm nay
Thực tế cho thấy rằng nhờ vận dụng quan toàn diện trong công việc hình thành đồng
bộ yếu tố thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế, nhất là công cụ về pháp luật
,công cụ kế hoạch…đã thu được một số thành tựu. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn các yếu tố thị
trường chưa đồng bộ,còn phức tạp . Điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện hơn các công cụ quản lý
xã hội, công cụ pháp luật , công cụ tài chính…

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam - PGS,TS. Đinh Xuân


Lý - CN. Nguyễn Đăng Quang
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Thống kê năm 1995.
14


3. Một số vấn đề lý luận kinh tế chính trị và phát triển kinh tế Việt Nam,NXB Chính trị
4.
5.
6.
7.

quốc gia 1997.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X ,XI.




15



×