Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Bài giảng quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 133 trang )

Chƣơng I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC, QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƢỚC VÀ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
A. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƢỚC VÀ NHÀ NƢỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƢỚC
1. Nguồn gốc của nhà nƣớc
Nguồn gốc của nhà nƣớc là câu hỏi đƣợc đặt ra từ rất xa xƣa, đã có nhiều nhà
triết học cố gắng tìm cách giải thích, nhƣng do hạn chế về lịch sử và thế giới quan,
những giải thích này đều không đi vào bản chất xã hội của quá trình hình thành nhà
nƣớc.
C Mác và F. Ănghen, với quan điểm duy vật lịch sử, là những ngƣời đầu tiên
chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc của nhà nƣớc. Các ông cho rằng nhà
nƣớc xuất hiện khi xã hội loài ngƣời đã phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà
nƣớc không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận động, phát triển và sẽ tiêu vong khi
những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập Chủ nghĩa Cộng sản khoa học
đã khẳng định: Trong xã hội nguyên thuỷ chƣa từng tồn tại nhà nƣớc. Thích ứng với
tình trạng kinh tế thấp kém, xã hội chƣa có sự phân hoá giai cấp, tồn tại các tổ chức thị
tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc trƣởng, tù trƣởng do các thành viên thị
tộc, bộ lạc bầu ra. Quyền lực của ngƣời đứng đầu cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức
mạnh đạo đức uy tín và chức năng lãnh đạo.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, quản lý xã hội chƣa mang tính chính trị,
ngƣời đứng đầu không phải là ngƣời cai trị. Họ không có đặc quyền, đặc lợi cá nhân.
Họ thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của nhân dân. Thể chế xã hội
trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự quản của nhân dân, mặc dù nhà nƣớc
chƣa ra đời nhƣng xã hội vẫn tồn tại trong vòng trật tự.
Sự phát triển của lực lƣợng sản xuất, trƣớc hết là công cụ lao động đã giúp cho
con ngƣời có thể sản xuất ra một lƣợng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cẩu
tối thiểu đối với sự tồn tại của mình. Sự dƣ thừa sản phẩm tƣơng đối chính là cơ sở
khách quan làm nảy sinh ở những ngƣời có quyền hành trong thị tộc bộ lạc, sự ham
muốn chiếm đoạt làm của riêng và họ đã sử dụng quyền lực trong tay để thực hiện


khát vọng đó. Đây chính là nguyên nhân thúc đầy sự phân hoá xã hội. Một khi các giai
cấp xuất hiện thì mối quan hệ bình đẳng trƣớc đây đã bị đảo lộn, sự đối kháng giai cấp
xuất hiện và ngày càng phát triển tăng lên.
Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối kháng, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử
loài ngƣời. Cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ là không những họ tiêu diệt nhau
mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để điều đó không xảy ra, một cơ quan đặc biệt ra đời đó là
nhà nƣớc – một thiết chế có tiền thân từ những tổ chức phi chính trị trong xã hội thị
tộc, bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, giờ đây đã biến
thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp – giai cấp chủ nô.
2. Bản chất của nhà nƣớc
Từ nguồn gốc xuất hiện của nhà nƣớc, ta thấy nhà nƣớc không phải là cơ quan
điều hoà mâu thuẫn các giai cấp đối kháng, mà ngƣợc lại, sự ra đời của nhà nƣớc làm
cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc hơn và không thể điều hoà đƣợc. Trong điều
kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì cuộc đấu tranh này ngày càng trở lên gay gắt, chế
độ nhân dân tự quản không còn phù hợp, nó phải đƣợc thay thế bằng nhà nƣớc.

1


Nhà nƣớc ra đời làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự”, duy
trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này đƣợc quyền bóc lột giai cấp khác. Do đó, nhà
nƣớc đƣơng nhiên là do giai cấp thống trị, có thế lực kinh tế lập ra. Trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, nhờ có nhà nƣớc, giai cấp chủ nô trở thành giai cấp thống trị cả về
chính trị.
Nhƣ vậy, nhà nƣớc là tổ chức chính trị của giai cấp đang thống trị về kinh tế,
nhằm bảo vệ trật tự đang có và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. “Nhà nƣớc
chẳng qua chỉ là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”(1).
Luận điểm này của C. Mác đã làm rõ bản chất của nhà nƣớc.
Nhà nƣớc có hai tính chất quan trọng là tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai
cấp là thuộc tính cơ bản, nó thể hiện bản chất của nhà nƣớc. Nhƣng với tƣ cách là bộ

máy thực thi quyền lực công cộng, nhằm duy trì trật tự và ổn định xã hội, nhà nƣớc
còn thể hiện tính xã hội. Bên cạnh việc chăm lo bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị,
nhà nƣớc cũng buộc phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết những vấn đề
mà đời sống cộng đồng, xã hội đặt ra để ổn định trật tự xã hội, duy trì sự thống trị của
giai cấp cầm quyền.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định về bản chất của nhà nƣớc nhƣ sau:
Nhà nƣớc là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là
công cụ chuyên chính giai cấp, với các chức năng quản lý xã hội đặc biệt, nhà nƣớc
vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa duy trì trật tự xã hội và phục vụ những
nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Đặc trƣng của nhà nƣớc
Khi so sánh nhà nƣớc với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản lý các
công việc chung của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thuỷ, cũng nhƣ khi so sánh với
các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp cho thấy nhà nƣớc có những đặc trƣng sau
đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc đƣợc hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống
thì nhà nƣớc hình thành trên cơ sở phân chia dân cƣ theo địa bàn lãnh thổ nơi mà họ
cƣ trú và đƣợc tổ chức thành các đơn vị hành chính. Việc phân chia này đảm bảo cho
hoạt động quản lý của nhà nƣớc tập trung thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác
biệt quan trọng giữa nhà nƣớc với các tổ chức thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ trƣớc đó.
Quyền lực nhà nƣớc về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống
trên địa bàn dân cƣ. Từ đó hình thành chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là
thuộc tính gắn liền với nhà nƣớc.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nƣớc đã lập ra những cơ quan hành chính
và các lực lƣợng thuần tuý trấn áp nhƣ quân đội, cảnh sát vũ trang, nhà tù… Những cơ
quan cƣỡng bức và cơ quan hành chính thực hiện chức năng cai trị, buộc mọi ngƣời

phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Khác với những ngƣời đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên
thủy thực hiện chức năng quản lý của mình bằng sức mạnh truyền thống, đạo đức, uy
tín, những ngƣời đại diện cho nhà nƣớc thực hiện quyền lực của mình bằng sức mạnh
cƣỡng bức của pháp luật. Nhà nƣớc ban hành pháp luật và sử dụng các thiết chế và
công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp thống trị đƣợc thực thi trong thực tế.

2


Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nƣớc đều từ xã hội mà ra, nhƣng
chúng ngày càng thoát ly khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khoá để tạo nguồn ngân sách nuôi bộ
máy nhà nước
Bộ máy nhà nƣớc bao gồm đông đảo viên chức và cả đội quân vũ trang đông
đảo – lớp ngƣời đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản
lý nhà nƣớc. Họ không thể tồn tại nếu không dựa vào nguồn nhân sách bằng thu thuế.
Nhà nƣớc là tổ chức duy nhất có tƣ cách là đại biểu chính thức của toàn xã hội
để sự quản lý xã hội, do đó nhà nƣớc cũng là tổ chức độc quyền thu thuế.
d. Nhà nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia
- Nhà nƣớc có chủ quyền quốc gia thể hiện ở quyền tự quyết nhà nƣớc về tất cả
các vấn đề thuộc chính sách đối nội và đối ngoại không phụ thuộc vào lực lƣợng bên
ngoài. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính không thể tách rời nhà nƣớc, trong các thiết
chế chính trị - xã hội, nhà nƣớc là một tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Quyền
lực nhà nƣớc có hiệu lực đối với tất cả các dân cƣ, các tổ chức trên lãnh thổ quốc gia.
Dấu hiệu chủ quyền quốc gia làm xuất hiện quan hệ về quốc tịch tức là quan hệ về
quyền và nghĩa vụ giữa cá nhân với một nhà nƣớc mà ngƣời đó với tƣ cách là công
dân.
4. Chức năng của nhà nƣớc
Chức năng của nhà nƣớc đƣợc thể hiện qua những hoạt động chủ yếu của nhà

nƣớc, thể hiện trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ đƣợc đặt ra trƣớc nhà nƣớc,
chức năng của nhà nƣớc phản ánh bản chất của nhà nƣớc.
Khi nghiên cứu tiếp cận nhà nƣớc từ góc độ khác nhau, ngƣời ta phân chức
năng của nhà nƣớc thành các loại khác nhau.
a. Nếu tiếp cận nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị thì nhà nước có hai
chức năng là: chức năng công cụ thống trị giai cấp và chức năng xã hội
+ Chức năng công cụ thống trị giai cấp là chức năng duy trì và bảo vệ sự thống
trị của giai cấp cầm quyền. Để bảo vệ quyền thống trị xã hội, giai cấp cầm quyền sẵn
sàng sử dụng mọi biện pháp để trấn áp những chống đối của các giai cấp khác.
+ Chức năng xã hội của nhà nƣớc là chức năng quản lý những hoạt động chung
của xã hội, đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong vòng trật tự nằm dƣới sự
quản lý của nhà nƣớc của giai cấp cầm quyền, cũng nhằm thoả mãn những nhu cầu
chung trong cộng đồng dân cƣ.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối cả
phƣơng hƣớng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nƣớc. Mặt khác, chức
năng xã hội lại là cơ sở của sự thống trị chính trị, vì sự thống trị chính trị chỉ có thể tồn
tại khi nhà nƣớc thực hiện đƣợc chức năng xã hội. Khi xã hội không có giai cấp thì
những nội dung thuộc chức năng xã hội do xã hội tự đảm nhiệm, tức là xã hội do nhân
dân tự quản.
b. Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động của quyền lực, thì nhà nước có hai chức
năng: đối nội và đối ngoại
+ Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nƣớc trong nội bộ
đất nƣớc, nhƣ bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ
và phát triển chế độ kinh tế, văn hoá theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nƣớc trong quan hệ với các quốc
gia khác. Nhà nƣớc thực hiện chức năng bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, bảo vệ

3



lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích của quốc gia khi lợi ích của quốc gia không
mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Trong
đó chức năng đối nội là chức năng chủ yếu vì nhà nƣớc ra đời và tồn tại do cơ cấu bên
trong của mỗi quốc gia quy định và sự thống trị giai cấp đƣợc thực hiện trƣớc hết ở địa
bàn quốc gia.
Chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, chức năng đối
ngoại luôn xuất phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và phục vụ cho chức
năng đối nội. Song việc thực hiện tốt các chức năng đối nội sẽ tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đối ngoại.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nƣớc sử dụng nhiều
phƣơng pháp hoạt động khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia,
mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhà nƣớc sử dụng các phƣơng pháp hoạt động khác nhau
để thực hiện các chức năng của mình. Thông thƣờng nhà nƣớc sử dụng hai phƣơng
pháp chính là giáo dục thuyết phục và cƣỡng chế. Cƣỡng chế là phƣơng pháp đƣợc các
nhà nƣớc bóc lột sử dụng nhƣ phƣơng pháp chủ yếu. Ngƣợc lại, trong các nhà nƣớc xã
hội chủ nghĩa giáo dục thuyết phục đƣợc coi là phƣơng pháp quan trọng, cƣỡng chế
chỉ đƣợc sử dụng kết hợp ở một mức độ nhất định để đảm bảo cho việc quản lý xã hội
có hiệu quả.
5. Các kiểu nhà nƣớc
Kiểu nhà nƣớc là khái niệm nói về bản chất và những dấu hiệu đặc trƣng của
nhà nƣớc. Cơ sở khoa học để xác định kiểu nhà nƣớc là học thuyết Mác – Lênin về
hình thái kinh tế xã hội. Theo C. Mác trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, tƣơng ứng với
một chế độ kinh tế có một kiểu nhà nƣớc nhất định, bởi vì nhà nƣớc bị chi phối bởi hai
yếu tố: kinh tế và quan hệ giai cấp.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã từng tồn tại các hình thái kinh tế xã hội:
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tƣ bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa – giai đoạn thấp
của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tƣơng ứng với các hình thái kinh tế
xã hội đó đã tồn tại của các kiểu nhà nƣớc: chủ nô, phong kiến, tƣ sản và kiểu nhà
nƣớc xã hội chủ nghĩa.

Mỗi kiểu nhà nƣớc chủ nô, phong kiến, tƣ sản có những đặc điểm riêng, nhƣng
chúng có điểm chung là những kiểu nhà nƣớc bóc lột, chúng tồn tại trên cơ sở của chế
độ tƣ hữu về tƣ liệu sản xuất. Các nhà nƣớc đó đều là công cụ để bảo vệ chế độ tƣ hữu
về tƣ liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Kiểu nhà nƣớc bóc lột tồn tại trong những mâu thuẫn đối
kháng, do đó sự thay thế kiểu nhà nƣớc này bằng một kiểu nhà nƣớc khác tiến bộ hơn
là một tất yếu khách quan, thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nƣớc đặc biệt, nhà nƣớc kiểu mới, nó tự
tiêu vong sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử và nhƣờng chỗ cho hình thức tổ chức và
quản lý xã hội cao hơn – xã hội tự quản lý.
6. Hình thức nhà nƣớc và chế độ chính trị
a. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nƣớc và những
phƣơng thức thực hiện quyền lực ấy của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thức nhà nƣớc: hình thức chính thể,
hình thức cấu trúc.
+ Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan tối
cao của nhà nƣớc và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình thức chính thể có
các dạng cơ bản:
4


– Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nƣớc tập
trung toàn bộ (hay một phần) vào tay nhà vua (quốc vƣơng, nữ hoàng…) là ngƣời
đứng đầu nhà nƣớc và đƣợc chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế hay truyền ngôi.
Trong thực tế tổ chức và hoạt động của chính thể quân chủ lại đƣợc chia thành: chính
the quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế.
* Chính thể quân chủ tuyệt đối là hình thức nhà nƣớc mà nhà vua – ngƣời đứng
đầu nhà nƣớc một mình nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nƣớc và có quyền lực vô
hạn.
* Chính thể quân chủ hạn chế là hình thức nhà nƣớc trong đó nhà vua – ngƣời

đứng đầu nhà nƣớc chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạnh đó còn có một cơ
quan quyền lực khác nữa nhƣ: hội đồng cố vấn, nghị viện…
– Chính thể cộng hoà là hình thức nhà nƣớc trong đó quyền lực tối cao của nhà
nƣớc thuộc về một cơ quan đƣợc dân cƣ bầu ra trong một thời gian nhất định, đó là
quốc hội, nghị viện… Chính thể cộng hoà cũng có hai hình thức biến dạng: cộng hoà
dân chủ và cộng hoà quý tộc.
– Hình thức cấu trúc của nhà nƣớc là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức của các đơn
vị hành chính lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà
nƣớc ở trung ƣơng và địa phƣơng. Có hai hình thức cấu trúc chủ yếu là hình thức nhà
nƣớc đơn nhất và hình thức nhà nƣớc liên bang.
* Nhà nƣớc đơn nhất là nhà nƣớc thống nhất có chủ quyền chung, có cơ quan
quyền lực và cơ quan quản lý thống nhất từ trung ƣơng đến cơ sở.
* Nhà nƣớc liên bang là nhà nƣớc có từ hai thành viên trở lên hợp thành. Nhà
nƣớc liên bang có hai cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính. Ngoài cơ quan quyền
lực và cơ quan hành chính chung cao nhất cho toàn liên bang, mỗi thành viên lại có cơ
quan quyền lực và hành chính của mình, có chủ quyền quốc gia chung của nhà nƣớc
liên bang, đồng thời mỗi thành viên còn có chủ quyền riêng nhất định.
Hình thức nhà nƣớc đƣợc quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nƣớc, tƣơng
quan lực lƣợng giữa các giai cấp và truyền thống lịch sử của đất nƣớc.
b. Chế độ chính trị là tổng thể những phƣơng pháp mà các cơ quan nhà nƣớc sử
dụng để thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Sử dụng phƣơng pháp và thủ đoạn nào để thực
hiện quyền lực nhà nƣớc, một mặt phụ thuộc vào bản chất của nhà nƣớc, mặt khác phụ
thuộc vào tƣơng quan lực lƣợng đấu tranh giai cấp ở từng nƣớc và từng giai đoạn lịch
sử quy định.
Nhìn chung giai cấp thống trị thƣờng sử dung hai phƣơng pháp chính là dân chủ
và phản dân chủ.
Những phƣơng pháp dân chủ có nhiều loại và thể hiện dƣới nhiều hình thức
khác nhau: dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp dân chủ rộng rãi hay dân chủ hạn
chế…
Những phƣơng pháp phản dân chủ thƣờng đƣợc các nhà nƣớc bóc lột sử dụng ở

những mức độ khác nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Khi những
phƣơng pháp này đã phát triển đến đỉnh cao thì trở thành những phƣơng pháp tàn bạo,
quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính ta luôn có quan hệ mật
thiết với nhau, tác động qua lại, phản ánh bản chất và mục đích của nhà nƣớc. Ở các
nhà nƣớc bóc lột trong một số trƣờng hợp ba yếu tố này không phù hợp với nhau. Thí
dụ: hình thức chính thể là cộng hoà dân chủ nhƣng chế độ chính trị thực chất lại là
phản dân chủ – điều này thƣờng gặp ở các nhà nƣớc tƣ sản. Ở nhà nƣớc xã hội chủ

5


nghĩa ba yếu tố trên luôn phù hợp với nhau, phản ánh đúng bản chất, chức năng của
nhà nƣớc kiểu mới.
7. Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa
Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuỳ theo
điều kiện và hoàn cảnh lịch sử mỗi nƣớc mà sự ra đời cũng nhƣ việc tổ chức nhà nƣớc
kiểu mới với những hình thức khác nhau, song bản chất của nó nhƣ Lênin chỉ rõ:
“Bƣớc chuyển từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không
đem lại rất nhiều hình thức khác nhau, nhƣng thực chất của những hình thức ấy tất
nhiên sẽ chỉ là một tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nƣớc nào cũng là nền chuyên
chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nhƣng sự thống trị chính trị của giai cấp công
nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị của các giai cấp
bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các
giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột. Trái lại, chuyên
chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức bóc
lột, bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân lao động, xây dựng một xã hội mới – xã hội
không còn ngƣời bóc lột ngƣời.

Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là
cần thiết vì thời kỳ này còn tồn tại các giai cấp khác nhau. Chuyên chính vô sản vì vậy
không chỉ là trấn áp bằng bạo lực đối với giai cấp bóc lột, mà còn là một tổ chức thông
qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nƣớc đó không giữ đƣợc bản
chất giai cấp công nhân của mình. Vì vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản đối với nhà nƣớc là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nƣớc không chỉ là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công nhân của
nhà nƣớc, mà còn là điều kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất dân chủ rộng rãi
của nhà nƣớc đó. Bản chất giai cấp công nhân và bản chất dân chủ là hai mặt thống
nhất của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa là nhà nƣớc đặc
biệt, nhà nƣớc quá độ, nhà nƣớc không còn nguyên nghĩa nhà nƣớc “nửa nhà nƣớc”.
Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện và tồn tại nhà nƣớc mất đi thì nhà
nƣớc sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa không phải bằng
con đƣờng “xoá bỏ” mà bằng con đƣờng “tự tiêu vong” và muốn cho nó nhanh chóng
đi đến chỗ tiêu vong phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của
nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài.
II. NHÀ NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nhà nƣớc là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa
Hệ thống chính trị ở nƣớc ta hiện nay đƣợc hình thành trong quá trình đấu tranh
cách mạng của nhân dân ta dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản việt Nam. Nhà nƣớc
ra đời sau cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945. Đó là hệ thống chính trị có tính chất dân
chủ nhân dân, sau khi thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, hệ thống
chính trị đó chuyển sang làm nhiệm vụ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nƣớc ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc và
các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lƣợng lãnh đạo hệ thống chinh trị, lực lƣợng
lãnh đạo nhà nƣớc và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nƣớc là yêu cầu khách

6


quan, là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho hệ thống chính trị và nhà nƣớc giữ đúng bản
chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và bảo đảm cho
con đƣờng phát triển của xã hội Việt Nam theo đúng con đƣờng xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là “cột trụ của hệ thống
chính trị”, là “công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nƣớc
pháp quyền của dân, do dân và vì dân”. Nhà nƣớc vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ
máy chính trị – hành chính, vừa là tổ chức quản lý văn hoá xã hội của nhân dân. Nhà
nƣớc thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật và thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại.
+ Các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị, các tổ chức xã hội – chính
trị, đại diện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc xây dựng thể chế chính trị,
xây dựng và quản lý nhà nƣớc tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích của mình. Liên
minh chính trị của các đoàn thể nhân dân, của cộng đồng xã hội của ta là Mặt trận Tổ
quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân, nới thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân.
Nhƣ vậy, hệ thống chính trị là một thể thống nhất, việc xây dựng và hoàn thiện
nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nƣớc nhất thiết phải đặt trong quan hệ với các tổ chức khác của hệ thống
chính trị. Việc đổi mới một cách căn bản tổ chức và phƣơng thức hoạt động của hệ
thống chính trị phải xác định rõ và giải quyết các mối quan hệ sau đây:
+ Mối quan hệ giữa Đảng và nhà nƣớc: Đảng cộng sản là đội tiên phong của
giai cấp công nhân lãnh đạo nhà nƣớc và toàn xã hội. Đảng lãnh đạo nhà nƣớc tức là
Đảng cầm quyền, nhƣng Đảng không phải là tổ chức quyền lực chính trị mang tính
pháp quyền, không phải là quyền lực nhà nƣớc. Đảng lãnh đạo nhà nƣớc bằng đƣờng
lối chủ trƣơng chính sách của Đảng và thông qua đội ngũ đảng viên của Đảng hoạt
động trong các cơ quan nhà nƣớc. Đảng lãnh đạo nhà nƣớc nhƣng hoạt động trong

khuôn khổ hiến pháp và pháp luật nhà nƣớc. Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật
đối với toàn xã hội, nhƣng hoạt động của nhà nƣớc đặt dƣới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong quan hệ giữa nhà nƣớc với các đoàn thể nhân dân và toàn thể nhân dân:
Nhà nƣớc là tổ chức công quyền và thực thi quyền lực chính trị. Nhƣng nhà nƣớc là
công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – nhà nƣớc của nhân dân, nhân dân
không chỉ làm chủ bằng nhà nƣớc (dân chủ đại diện) mà còn bằng các tổ chức và hoạt
động của các đoàn thể có tính chất tự quản (dân chủ trực tiếp). Vì vậy, nhân dân là chủ
thể của hệ thống chính trị và những tổ chức đại diện của các tầng lớp nhân dân tuy
không mang tính chất quyền lực nhà nƣớc nhƣng có vị trí và vai trò quan trọng tạo
thành “cơ sở chính trị vững chắc của chính quyền nhân dân”.
2. Bản chất của nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của nhà nƣớc ta là nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc có tính giai cấp,
nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật và nêu cao vai trò của pháp
chế.
Nhà nƣớc yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân phải tôn trọng và tuân thủ luật
pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc. Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân có bản chất khác hẳn với bản chất
nhà nƣớc của giai cấp bóc lột. Điều này đƣợc quy định một cách khách quan từ cơ sở
kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội.
7


Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân
đƣợc thể hiện bằng toàn bộ hoạt động của nhà nƣớc từ pháp luật, cơ chế chính sách
đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc. Các hoạt động này đều thể
hiện quan điểm của giai cấp công nhân nhằm từng bƣớc thực hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc.

Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc là
thống nhất. Sự thống nhất bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau khi giành đƣợc chính quyền thì nhân dân lao động
trở thành ngƣời chủ của đất nƣớc. Giai cấp công nhân muốn tự giải phóng mình phải
đồng thời giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Hơn nữa, khi chế độ công hữu về tƣ
liệu sản xuất chủ yếu đƣợc xác lập, nhân dân là ngƣời làm chủ những tự liệu sản xuất
chủ yếu đó thì đƣơng nhiên mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Vì vậy nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng
gắn bó chặt chẽ với dân tộc, nhân dân. Điều này đƣợc quán triệt, đƣợc cụ thể hoá, thể
chế hoá và thực hiện trên mọi lĩnh vực mọi tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc. Cũng
chỉ có nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, hoạt
động theo đƣờng lối, quan điểm của Đảng Cộng sản – đội tiên phong của giai cấp công
nhân mới là đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Tính nhân dân của nhà nước ta thể hiện: Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của ta là của dân, quyền lực thực sự ở “nơi dân” chính quyền do nhân dân lập
nên và nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa
thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cán bộ công chức nhà nƣớc là
công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
Tính dân tộc của nhà nước thể hiện ở chỗ: Trong tổ chức và hoạt động nhà
nƣớc ta kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và
con ngƣời Việt Nam. Nhà nƣớc có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi
mặt cho các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc,
coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đƣờng lối chiến lƣợc và là động lực to lớn
để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập tự chủ trong
quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
a. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã
hội

Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa. Ở
nƣớc ta, thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay đổi chủ thể quyền
lực nhà nƣớc. Nhân dân từ vị trí ngƣời nô lệ phụ thuộc bởi chế độ thuộc địa nửa phong
kiến trở thành ngƣời chủ đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp nƣớc ta ghi nhận: “công dân có quyền
tham gia quản lý nhà nƣớc và xã hội, thảo luận, kiến nghị với nhà nƣớc và địa phƣơng,
biểu quyết khi nhà nƣớc tổ chức trƣng cầu dân ý” (điều 53 Hiến pháp 1992). Đây là sự
bảo đảm bằng pháp luật khả năng nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc và quản lý xã
hội, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất.
Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lý nhà nƣớc và quản
lý xã hội qua việc ghi nhận quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội là cơ quan đại diện cao
nhất và Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện ở địa phƣơng (điều 54). Ghi
8


nhận quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nƣớc
và của các cá nhân trong bộ máy nhà nƣớc (điều 74). Những ngƣời làm việc trong cơ
quan bảo vệ pháp luật làm trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật
(điều 74).
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều kiện và
phƣơng tiện để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nƣớc và quản lý xã hội. Trong quá
trình phát triển xã hội các chức năng quản lý ngày càng đơn giản hơn và ngƣợc lại
trình độ dân trí ngày một nâng cao hơn, do vậy mọi ngƣời đều có thể làm đƣợc nó
không còn là chức năng riêng của một lớp ngƣời đặc biệt nữa, chức năng quản lý sẽ
đƣợc mọi ngƣời thay nhau đảm nhiệm.
b. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nó đƣợc thể hiện trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc.
Vai trò đó đã đƣợc ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất: bản Hiến pháp 1980 và

Hiến pháp 1992 (đều ở điều 4).
Đảng lãnh đạo nhà nƣớc trƣớc hết thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh
cƣơng lĩnh, chiến lƣợc, định ra các chủ trƣơng chính sách cho hoạt động của nhà nƣớc
và toàn xã hội để phát triển đất nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu
“dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tƣ tƣởng và tổ
chức, bằng vai trò gƣơng mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng xây dựng đƣờng
lối phù hợp với lợi ích của nhân dân, đƣợc nhân dân ủng hộ và thực hiện. Nhƣ vậy,
thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nƣớc là sự lãnh đạo chính trị mang tính
định hƣớng, tạo điều kiện để nhà nƣớc tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ, thực hiện chức
năng quản lý bằng những công cụ, biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nƣớc thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm quyền nên
Đảng ta lựa chọn những đảng viên ƣu tú của mình tham gia vào các cơ quan nhà nƣớc
trƣớc hết là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp bằng con đƣờng giới thiệu để
nhân dân lựa chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng là thƣớc đo uy tín và năng lực
của Đảng trƣớc xã hội và nhân dân. Đảng lãnh đạo nhà nƣớc nhƣng không “hoá thân
thành nhà nƣớc”, do vậy việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò
quản lý của nhà nƣớc là yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng và đấu
tranh chống lại những quan điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nƣớc, cần phải
cảnh giác trƣớc bọn cơ hội và các thế lực thù địch âm mƣu xoá bỏ sự lãnh đạo của
Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lêmn, đƣa đất nƣớc đi chệch khỏi mục tiêu chủ nghĩa
xã hội.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của nhà nƣớc ta. Nguyên tắc này đã đƣợc ghi ở điều 4 các bản Hiến pháp 1959,
1980 và 1992. Nguyên tắc tập trung dân chủ chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc. Một nhà nƣớc “của dân, do dân” đƣợc thể hiện từ mục đích đến tổ chức hoạt
động.
Bộ máy nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến pháp
bao gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện quyền lập

pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án nhân dân thực hiện quyền tƣ
pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhƣng ở mỗi
cơ quan nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện khác nhau.
9


Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng, các đại biểu
thƣờng cân nhắc đến:
– Lợi ích của cả nƣớc khi biểu quyết lựa chọn một phƣơng án trong nhiều
phƣơng án đƣợc đề xuất.
– Lợi ích của địa phƣơng, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ thể hiện
ý chí của cả nƣớc mà còn chú ý tới nguyện vọng của cử tri nơi đã bầu ra họ.
Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu quyết
theo nguyên tắc đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là
thiểu số phục tùng đa số trong mọi trƣờng hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập thể
quyết định theo đa số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá nhân của Thủ
tƣớng Chính phủ - ngƣời quyết định những vấn đề trong điều hành công việc thƣờng
xuyên của Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Chính phủ
vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, vừa đảm bảo sự quản lý của ngƣời đứng đầu Chính
phủ.
Đối với cơ quan tƣ pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung
dân chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội thẩm và các
thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử, quan hệ
giữa các cơ quan điều tra v.v…
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lý của
bộ máy nhà nƣớc ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các cơ quan trung
ƣơng cũng nhƣ ở địa phƣơng.
d. Nguyên tắc pháp chế
Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức và hoạt

động của nó phải tuân theo nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh
các quan hệ xã hội làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực
hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc, của các cơ quan đơn
vị, tổ chức và đối với công dân. Khi nói tới một trật tự pháp chế đòi hỏi phải có:
– Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Pháp luật phải đƣợc thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các cơ quan
nhà nƣớc, các tổ chức xã hội và công dân.
Nhƣ vậy, không phải cứ có nhà nƣớc, có pháp luật là có pháp chế, nhƣng pháp
luật lại đóng vai trò tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi vì pháp luật là thƣớc
đo, là tiêu chuẩn thẩm định trật tự xã hội và tình trạng pháp chế cụ thể trong từng thời
kỳ. Để nhận ra một xã hội có pháp chế trƣớc hết ngƣời ta xem xét pháp luật đã có hay
chƣa, có đầy đủ hay không? Pháp luật đƣợc thực hiện hay chỉ là hình thức; tính xã hội
của pháp luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Thứ nhất, nhà nƣớc phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và
có hệ thống. Nhà nƣớc và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống nhất giữa chủ thể và
phƣơng tiện. Để nhà nƣớc hoạt động đảm bảo nguyên tắc pháp chế, các văn bản luật
và các văn bản pháp quy để thi hành luật (văn bản dƣới luật) phải đƣợc ban hành kịp
thời và đồng bộ.
– Thứ hai, các cơ quan nhà nƣớc đƣợc lập ra và hoạt động trong khuôn khổ
pháp luật quy định về địa vị pháp lý, quy mô và thẩm quyền. Nguyên tắc này không
chấp nhận hai khả năng thƣờng xảy ra ở những nơi mà tình trạng pháp chế bị vi phạm:
10


khả năng thứ nhất là các hoạt động quản lý vƣợt thẩm quyền đƣợc giao, khả năng thứ
hai là buông lỏng, bỏ trống một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền đƣợc giao.
– Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nƣớc. Nhà nƣớc

thay mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhƣng nhà nƣớc cũng bị luật pháp điều chỉnh.
Nghĩa là: nếu cơ quan nhà nƣớc trong hoạt động phạm sai lầm, vi phạm pháp luật thì
phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó trƣớc pháp luật. Nhà nƣớc vì vậy vừa là
chủ thể của luật pháp nhƣng cũng vừa là đối tƣợng để luật pháp điều chỉnh. Đây là đòi
hỏi sự tôn trọng của nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của nhà
nƣớc ta, cũng là yêu cầu rất quan trọng trong quản lý hành chính, trong hoạt động của
các cơ quan tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc có mối quan hệ biện chứng
với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thực hiện tốt các nguyên tắc trên nhằm đảm bảo
cho nhà nƣớc ta là “Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân”
trong tổ chức và hoạt động.
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nƣớc ta gồm có: Quốc hội, Ủy
ban Thƣờng vụ Quốc hội; Chủ tịch nƣớc; Chính phủ; Toà án nhân dân và Viện Kiểm
sát nhân dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
a. Quốc hội
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao
nhất của nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến pháp 1992);
Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra bằng chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín; Quốc hội thống nhất mọi quyền lực (thống nhất ba quyền lập
pháp, hành pháp và tƣ pháp). Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định những chính sách về đối nội, đối
ngoại, nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nƣớc, những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, về quan hệ xã hội và hoạt
động của công dân.
Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nƣớc. Hoạt
động cơ bản nhất, quan trọng nhất của Quốc hội là các kỳ họp Quốc hội. Đại biểu
Quốc hội về nguyên tắc cũng phải hoạt động thƣờng xuyên trong cả nhiệm kỳ, chịu sự
giám sát và có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn bất cứ lúc nào nếu tỏ ra không còn

xứng đáng. Quốc hội có các Hội đồng và Ủy ban. Trong điều kiện hiện nay ở các Hội
đồng và Ủy ban của Quốc hội có một bộ phận cán bộ làm việc theo chế độ chuyên
trách còn phần lớn đại biểu Quốc hội là kiêm nhiệm, phải dành thời gian để làm nhiệm
vụ đại biểu.
Ở nƣớc ta hiện nay, Quốc hội chƣa hoạt động thƣờng xuyên nên Quốc hội lập
ra Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ quan thƣờng trực
của Quốc hội do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội. Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội đƣợc giao một số quyền hạn theo quy định của Hiến pháp nhƣ: quyền
quyết định ra pháp lệnh do Quốc hội giao, quyền trong thời gian Quốc hội không họp
phê chuẩn đề nghị của Thủ tƣớng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tƣớng, Bộ trƣởng, các thành viên của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại
kỳ họp gần nhất; quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của
Chính phủ, Thủ tƣớng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao trái với hiến pháp và luật… Quyền quyết định trong thời gian Quốc hội không
11


họp tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nƣớc bị xâm lƣợc: quyền quyết định tổng
động viên hoặc động viên cục bộ.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nƣớc “là ngƣời đứng đầu nhà nƣớc thay mặt nƣớc Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp 1992). Chủ tịch
nƣớc do Quốc hội bầu ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nƣớc đƣợc quy định ở
điều 103 Hiến pháp 1992, theo đó ngƣời đứng đầu quốc gia là một cá nhân. Chủ tịch
nƣớc ký công bố các văn bản luật pháp (của Quốc hội) và pháp lệnh (của Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội) nhƣng Chủ tịch nƣớc có quyền đề nghị xem xét lại pháp lệnh của
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội và nếu không nhất trí thì trình ra Quốc hội quyết định.
Chủ tịch nƣớc đề nghị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tƣớng chính phủ, Chánh
án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch

nƣớc có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, cũng nhƣ xét thấy
cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Với quy chế của Hiến
pháp 1992 thiết chế Chủ tịch nƣớc cùng với thiết chế Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ
quan thƣờng trực của Quốc hội, vừa đảm bảo tính tập thể trong việc quyết định những
vấn đề trọng đại của đất nƣớc trong khi Quốc hội không họp, vừa đảm bảo vị trí của
ngƣời đứng đầu nhà nƣớc.
c. Chính phủ
Theo quan điểm quyền lực nhà nƣớc thống nhất và phân công ba quyền, thì
Quốc hợi là cơ quan quyền lực nhà nƣớc cao nhất và nắm quyền lập pháp. Dƣới quyền
lực tối cao và thống nhất đó của Quốc hội là những cơ quan quyền lực nhà nƣớc về
hành pháp và tƣ pháp. Chính phủ là cơ quan quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ
gồm có Thủ tƣớng, các Phó Thủ tƣớng, các Bộ trƣởng và các thành viên khác. Chính
phủ do Quốc hội bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp
này Quốc hội bầu Thủ tƣớng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc và giao cho
Thủ tƣớng đề nghị danh sách các Bộ trƣởng và các thành viên khác của Chính phủ để
Quốc hội phê chuẩn.
Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội vừa là cơ quan hành chính
nhà nƣớc cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trƣớc Quốc hội và báo cáo công tác
với Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, Chủ tịch nƣớc và chịu sự giám sát của
Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ quốc hội. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tƣớng Chỉnh phủ.
Theo điều 112 Hiến pháp 1992 và chƣơng II Luật Tổ chức Chính phủ, thì thẩm
quyền của Chính phủ bao gồm:
– Quyền kiến nghị lập pháp: Dự thảo các văn bản luật trình Quốc hội, và dự
thảo pháp lệnh trình bày Ban Thƣờng vụ Quốc hội. Dự thảo kế hoạch nhà nƣớc, ngân
sách, các chính sách lớn về đối nội, đối ngoại của nhà nƣớc trên cơ sở đƣờng lối của
Đảng để trình Quốc hội.
– Quyền lập quy: Ban hành các văn bản pháp quy có giá trị pháp lý trong cả
nƣớc.
– Quyền quản lý và điều hành toàn bộ công việc của đất nƣớc: Xây dựng kinh
tế, văn hoá, xã hội theo đúng đƣờng lối của Đảng, pháp luật của nhà nƣớc và hệ thống

pháp quy của Chính phủ.
– Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức cơ quan quản lý nhà
nƣớc, thành lập các cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan giúp Thủ tƣớng, lãnh đạo Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng, chỉ đạo việc tổ chức các cơ quan
chuyên môn ở địa phƣơng.
– Quyền hƣớng dẫn, kiểm tra hội đồng nhân dân các cấp.
12


Chính phủ hoạt động bằng các hình thức cơ bản sau:
Một là: Hoạt động tập thể là các phiên họp của Chính phủ.
Hai là: Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tƣớng và các Phó Thủ tƣớng là những
ngƣời giúp Thủ tƣớng theo sự phân công của Thủ tƣớng, khi Thủ tƣớng vắng mặt thì
một Phó Thủ tƣớng đƣợc Thủ tƣớng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính
phủ.
Ba là: Hoạt động của Bộ trƣởng với tƣ cách là thành viên của chính phủ đứng
đầu một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.
d. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức thực hiện
quyền tư pháp
– Cơ cấu tổ chức toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa
phƣơng, Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Toà án nhân dân là cơ quan
xét xử của nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (điều 127 – Hiến pháp 1992).
Trong hệ thống toà án thì Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nƣớc
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Có chức năng và quyền giám đốc việc xét xử
của Toà án nhân dân địa phƣơng và Toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của Toà án
đặc biệt và các Toà án khác, trừ trƣờng hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà
án đó. Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo cáo
công việc trƣớc Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm
báo cáo công tác trƣớc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
Nguyên tắc hoạt động của Toà án là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật” (điều 130 – Hiến pháp 1992) và “Toà án nhân dân xét
xử công khai, trừ trƣờng hợp do luật định. Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa
số” (điều 131 – Hiến pháp 1992).
– Cơ cấu tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp “Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phƣơng, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, thực hiện quyền công tố, đảm bảo
cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (điều 137 – Hiến pháp
1992).
Để đảm bảo cho pháp luật đƣợc thi hành nghiêm minh, thống nhất, Viện Kiểm
sát nhân dân đƣợc tổ chức thành một hệ thống. Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân
cấp dƣới chịu Sự lãnh đạo của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; các Viện
trƣởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trƣởng, các Phó Viện
trƣởng, kiểm sát viên nhân dân địa phƣơng và Viện Kiểm sát quân sự do Viện trƣởng
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trƣớc Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách
nhiệm báo cáo trƣớc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội và Chủ tịch nƣớc. Viện trƣởng các
Viện Kiểm sát nhân dân địa phƣơng chịu trách nhiệm báo cáo trƣớc Hội đồng nhân
dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phƣơng và trả lời chất vấn của Hội đồng nhân
dân.
e. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân địa phƣơng là “cơ quan quyền lực Nhà nƣớc ở địa phƣơng;
đại diện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phƣơng
bầu ra, chịu trách nhiệm trƣớc nhân dân địa phƣơng và cơ quan nhà nƣớc cấp trên”
(điều 118 – Hiến pháp 1992). Hội đồng nhân dân địa phƣơng phải chấp hành Hiến
13



pháp, luật, các quy định và nhiệm vụ của cấp trên giao cho và vận dụng phù hợp với
điều kiện địa phƣơng tự quyết định những vấn đề thuộc quyền lợi của nhân dân địa
phƣơng trong phạm vi đƣợc phân cấp theo luật định. Vì vậy, Hội đồng nhân dân phải
đặt dƣới sự giám sát, hƣớng dẫn của Quốc hội, sự hƣớng dẫn kiểm tra của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân nhân theo quy định của Hiến pháp do Hội đồng nhân dân bầu
ra, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nƣớc ở địa
phƣơng, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà
nƣớc cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (điều 123 – Hiến pháp 1992).
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nƣớc hoạt động thƣờng xuyên, thực
hiện chức năng quản lý nhà nƣớc ở địa phƣơng, vừa do Hội đồng nhân dân cùng cấp,
vừa do Ủy ban nhân dân cấp trên giao cho và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Chính
phủ.
B. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
I. KHÁI NIỆM QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
Để nắm vững nội hàm khái niệm quản lý hành chính nhà nƣớc chúng ta lần lƣợt
nghiên cứu các khái niệm quan trọng sau đây:
1. Quản lý
Quản lý là khái niệm đƣợc xem xét theo hai góc độ:
+ Theo góc độ chính trị – xã hội, quản lý đƣợc hiểu là sự kết hợp giữa tri thức
với lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có cơ chế quản lý phù hợp. Cơ chế đúng,
hợp lý thì xã hội phát triển, ngƣợc lại thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren.
+ Theo góc độ hành động, quản lý đƣợc hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Theo C. Mác, quản lý (quản lý xã hội) là chức năng đƣợc sinh ra từ tính chất xã
hội hoá loa động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều
thông qua hoạt động của con ngƣời và thông qua quản lý (con ngƣời điều khiển con
ngƣời). Ngƣời viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến
hành trên quy mô tƣơng đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều
hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận
động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của
nó. Một ngƣời độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần

phải có nhạc trƣởng” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, T.23, trang 480).
Từ phân tích cơ sở lý luận trên, ta có thể đi đến định nghĩa nhƣ sau:
Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tƣợng quản lý
nhằm chỉ huy điều hành, hƣớng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hƣớng
đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý là một yếu tố không thể thiếu đƣợc trong đời sống xã hội. Xã hội phát
triển càng cao thì vai trò của quản lý càng lớn, phạm vi càng rộng và nội dung càng
phong phú, phức tạp.
2. Quản lý nhà nƣớc
Quản lý nhà nƣớc ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nƣớc, là sự quản lý của
Nhà nƣớc đối với xã hội và công dân. Quản lý nhà nƣớc là sự chỉ huy, điều hành xã
hội để thực thi quyền lực Nhà nƣớc; là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ
máy nhà nƣớc có trách nhiệm quản lý công việc hàng ngày của nhà nƣớc, do các cơ
quan nhà nƣớc (lập pháp,hành pháp và tƣ pháp) có tƣ cách pháp nhân công pháp (công
quyền) tiến hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nƣớc đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các
quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
Cần lƣu ý phân biệt hai khái niệm “Quản lý nhà nƣớc” và “Nhà nƣớc quản lý”:
14


+ “Quản lý nhà nƣớc” là dạng quản lý xã hội thực thi quyền lực Nhà nƣớc;
dạng quản lý này đƣợc thể hiện trong các cơ quan hành chính Nhà nƣớc. Điều 12,
Hiến pháp 1992 đã ghi: “Nhà nƣớc quản lý xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng
cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, quản lý nhà
nƣớc tƣơng đồng với khái niệm quản lý quốc gia (Govermance), nghĩa là: quản lý nhà
nƣớc một cách hợp lý, có hiệu quả, công khai, minh bạch và có sự tham gia của các
chủ thể liên quan.
+ “Nhà nƣớc quản lý” là nói đến các chủ thể quản lý; đó là hệ thống tổ chức của
các cơ quan nhà nƣớc, trong đó có các cơ quan hành chính Nhà nƣớc.

3. Hành chính nhà nƣớc
Hành chính là một hoạt động xã hội rộng và rất phức tạp.
Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con ngƣời đều mang tính xã hội; các cá
nhân luôn có quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động có từ hai ngƣời trở lên
để thực hiện một mục tiêu chung, mà nếu chỉ có một ngƣời không thể làm đƣợc, thì sẽ
xuất hiện yếu tố tổ chức và quản lý hoạt động. Hành chính là một dạng của sự quản lý
các hoạt động đó.
Thuật ngữ “hành chính” (Tiếng Anh là Administration).
+ Theo nghĩa rộng, hành chính là sự thi hành chính sách và pháp luật của Chính
phủ tức là hoạt động quản lý hành chính Nhà nƣớc. Quản lý hành chính nhà nƣớc là
một hình thức quản lý, mà chủ thể quản lý là Nhà nƣớc. Hành chính nhà nƣớc là một
bộ phận quản lý của Nhà nƣớc – nó là hoạt động của cơ quan hành pháp, thực thi
quyền hành pháp bằng quyền lập quy và quyền hành chính.
+ Theo nghĩa hẹp, hành chính là công tác hành chính của các cơ quan nhà nƣớc
ở địa phƣơng nhƣ: quản lý hộ khẩu, trật tự, an ninh công cộng, quản lý công văn giấy
tờ không thuộc văn bản pháp luật,… và có cả nghĩa thông thƣờng nhƣ hỗ trợ, dịch vụ
hành chính,…
Hành chính quan hệ mật thiết với quản lý, tổ chức, chính trị tạo nên các phạm
trù: hành chính và quản lý, hành chính và tổ chức, hành chính và chính trị, hành chính
và pháp luật.
Nhà nƣớc quản lý hành chính bằng pháp luật. Còn hành chính nhà nƣớc là
“hành pháp trong hành động”, là sự thực thi pháp luật trong quản lý, điều hành mọi
lĩnh vực đời sống của đất nƣớc.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hành chính là hoạt động quản
lý nhà nước, trong đó cơ quan quyền lực nhà nước tác động lên các đối tượng quản
lý (cơ quan, tổ chức, cá nhân) trong lĩnh vực hành pháp, nhằm thực hiện chức
năng đối nội và đối ngoại quản lý hành chính nhà nước do các cơ quan hành chính
Nhà nước thực hiện.
4. Nền hành chính nhà nƣớc
Nền hành chính nhà nƣớc (hành chính công) là tổng thể cơ chế đƣợc cấu thành

bởi 4 yếu tố sau đây:
1, Thể chế hành chính bao gồm: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các văn bản,
Quyết định, Nghị định, Thông tƣ của Chính phủ, Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, quy phạm
pháp luật của các cơ quan hành pháp và quản lý nhà nƣớc. Xây dựng thể chế của nền
hành chính nhà nƣớc dân chủ, thực hiện quyền lực nhà nƣớc thuộc về nhân dân, phục
vụ lợi ích và nguyện vọng của dân, thiết lập kỷ cƣơng Nhà nƣớc, ý thức và trật tự pháp
luật, cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính… Xây dựng thể chế quản lý kinh tế của
Nhà nƣớc phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa có sự quản

15


lý của Nhà nƣớc và tạo sự thích nghi về thể chế trong quan hệ đối ngoại, với luật pháp
và tập quán quốc tế.
2, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy nhà nƣớc từ trung ƣơng đến cơ sở.
Quy định thẩm quyền của từng cấp, từng cơ quan, mối quan hệ dọc, ngang, trung ƣơng
và địa phƣơng. Vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kết hợp quản lý
theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Các cơ quan trong hệ thống phải đủ mạnh về uy
tín, năng lực và phẩm chất để phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nƣớc.
3, đội ngũ cán bộ và công chức nhà nƣớc, chế độ công vụ và quy chế công
chức, các quy định về hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh và chế độ tiền lƣơng,
các quy chế bổ nhiệm, tuyển dụng, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen thƣởng, đãi ngộ… là
những cơ sở để nâng cao chất lƣợng công tác, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động
và làm căn cứ cho đào tạo và bồi dƣỡng đội ngũ công chức nhà nƣớc.
Thực tế hoạt động của nền hành chính nhà nƣớc xuất phát từ bản chất nhà nƣớc
pháp quyền, sống và làm việc theo khuôn khổ pháp luật để quản lý xã hội, đƣa đƣờng
lối chính sách của Đảng và Nhà nƣớc vào cuộc sống, là tạo lập môi trƣờng cho mọi tổ
chức và công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.
4, Các yếu tố về điều kiện
5. Quản lý hành chính Nhà nƣớc

Bộ máy Nhà nƣớc đƣợc cấu thành bởi ba tổ chức giữ ba quyền: quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tƣ pháp, trong đó quyền hành pháp là quyền chấp hành luật
(lập quy), tổ chức thực hiện luật (quản lý hành chính). Hai quyền này đều tập trung
vào Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nƣớc từ trung ƣơng đến địa
phƣơng, đƣợc thực hiện bằng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
Bộ máy hành chính Nhà nƣớc còn đƣợc gọi là bộ máy quản lý Nhà nƣớc.
Hành pháp mang tính quyền lực chính trị (quyền lực nhà nƣớc), còn quản lý
hành chính nhà nƣớc là “Hành pháp hành động”, là quyền thực thi quyền hành pháp.
Bản thân quản lý hành chính nhà nƣớc không chỉ là chính trị, mà còn là hành chính.
Ví dụ: Bộ trƣởng có vai trò:
– Là thành viên của Chính phủ (chính trị).
– Là ngƣời đứng đầu về quản lý hành chính nhà nƣớc của một bộ, ngành hay
lĩnh vực (quản lý hành chính).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân có vai trò:
– Là thành viên của Hội đồng nhân dân bầu ra để chấp hành các nghị quyết của
Hội đồng nhân dân (chính trị).
– Là ngƣời đứng đầu về quản lý hành chính nhà nƣớc ở địa phƣơng (quản lý
hành chính).
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản lý hành chính Nhà nƣớc nhƣ sau:
Quản lý hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức, và điều chỉnh bằng
quyền lực Nhà nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của công dân do
các cơ quan có tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lý
hành chính nhà nước tiến hành bằng những văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan
hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu
hàng ngày của nhân dân.
Nói một cách đơn giản hơn, quản lý hành chính nhà nƣớc là việc tổ chức thực
thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội bằng pháp
luật và theo pháp luật.
16



Nhƣ vậy, có thể thấy ba nội dung chính của khái niệm quản lý hành chính nhà
nƣớc:
Một là, quản lý hành chính nhà nƣớc với tƣ cách là quyền lực nhà nƣớc đƣợc
gọi là quyền quản lý hành chính, tức là “quyền hành pháp trong hành động”.
Hai là, quản lý hành chính nhà nƣớc với tƣ cách là hoạt động thực tiễn hàng
ngày, tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân
bằng việc ra các quyết định hành chính mang tính quy phạm hành chính, phục vụ cho
các nhà cầm quyền, các nhà lãnh đạo và quản lý đất nƣớc.
Ba là, quản lý hành chính nhà nƣớc, với tƣ cách là pháp nhân công pháp, chính
là hệ thống thiết chế tổ chức hành chính nhà nƣớc. Trong hệ thống này, đứng đầu là
Chính phủ và Thủ tƣớng Chính phủ, các bộ, các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc
trung ƣơng, các cấp quản lý hành chính nhà nƣớc địa phƣơng và các tổ chức công
quyền khác có chức năng tổ chức và điều hành các quá trình kinh tế kỹ thuật, văn hoá,
xã hội, quốc phòng, an ninh, nội vụ, ngoại giao… và các hoạt động của tổ chức và
công dân.
II. NHỮNG TÍNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Nền hành chính nhà nƣớc có các tính chất sau đây:
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Xét trên góc độ nhà nƣớc, các nhà cầm quyền của một quốc gia có hai loại
nhiệm vụ: Nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ hành chính.
Nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ định hƣớng cho sự phát triển xã hội, đƣa ra
đƣờng lối, chính sách. Chính trị biểu hiện ý chí Nhà nƣớc dƣới sự lãnh đạo của Đảng
cầm quyền.
Nhiệm vụ hành chính là việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Những vấn đề cơ bản về chính tri ở nƣớc ta hiện nay là:
a) Kiên trì chủ nghĩa Mác –Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định

về nguyên tắc và chiến lƣợc cách mạng với tính linh hoạt, sáng tạo trong sách lƣợc,
nhạy cảm nắm bắt cái mới của thời đại.
b) Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, chống
chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa, chống diễn biến hoà bình.
Đảng Cộng sản việt Nam là trung tâm lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức chính trị xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tham gia và giám sát
quản lý nhà nƣớc, tập thể lao động và công dân tham gia đóng góp ý kiến.
2. Tính pháp luật (pháp quyền XHCN)
Với tƣ cách là cơ quan quyền lực nhà nƣớc, hành chính nhà nƣớc mang tính
cƣỡng chế, yêu cầu mọi tổ chức xã hội, cơ quan nhà nƣớc và công dân phải tuân thủ
các mệnh lệnh hành chuẩn đảm bảo và giữ vững kỷ cƣơng, trật tự xã hội.
Tính pháp luật đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải đảm bảo tính
quyền uy, nghĩa là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng quyền lực, đồng thời phải
tạo dựng uy tín về chính trị về phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ.
Quyền uy là thể thống nhất giữa quyền lực và uy tín; các nhà quản lý hành
chính nhà nƣớc phải có quyền uy thì mới phát huy tính pháp luật trong quản lý hành
chính nhà nƣớc. Cá nhân và tổ chức nào vi phạm Pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm
và xử lý theo Pháp luật.
3. Tính thƣờng xuyên, ổn định và thích nghi
Nhiệm vụ hành chính nhà nƣớc là phục vụ công vụ và công dân. Do vậy, hoạt
động hành chính nhà nƣớc không đƣợc làm theo lối “phong trào”, “chiến dịch”. Đội
17


ngũ công chức phải ổn định và có năng lực, phẩm chất đạo đức ngang tầm nhiệm vụ
trong mọi thời kỳ phát triển của đất nƣớc.
Nhà nƣớc là một sản phẩm xã hội, đời sống xã hội biến chuyển không ngừng,
do đó, nền hành chính nhà nƣớc cũng phải thích nghi với hoàn cảnh thực tế xã hội
trong từng thời kỳ, phải phù hợp với xu thế chung của thời đại.
4. Tính chuyên môn hoá nghiệp vụ cao

Đây là vấn đề quan trọng của một nhà nƣớc và của một nền hành chính nhà
nƣớc thể hiện trình độ khoa học, văn minh, hiện đại. Đối với các công chức nhà nƣớc,
kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý điều hành thực tiễn là tiêu chuẩn về trình độ
nghiệp vụ. Tính chuyên môn hoá nghề nghiệp ở trình độ cao là cơ sở để đảm bảo thực
hiện mục tiêu chiến lƣợc, hoạch định chính sách và chƣơng trình dài hạn.
5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Hành chính nhà nƣớc là hệ thống thông suốt từ trung ƣơng tới các địa phƣơng.
Mỗi cấp, mỗi cơ quan, mỗi công chức đều có thẩm quyền riêng và quyền lợi chính
đáng. Tính thứ bậc chặt chẽ đòi hỏi cấp dƣới phải phục tùng cấp trên, địa phƣơng phải
phục tùng trung ƣơng, cả nƣớc phục tùng Chính phủ trong việc thực hiện quyết định,
chỉ thị và chịu sự kiểm tra thƣờng xuyên của cấp trên, của thủ trƣởng. Bên cạnh tính
thứ bậc chặt chẽ, mọi hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc phải sát dân, sát cơ sở;
phải chủ động, sáng tạo, linh hoạt.
6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nƣớc chỉ có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công dân,
không theo đuổi mục tiêu doanh lợi. Các cơ quan, công chức đều phải thể hiện tính
công tâm, trong sạch, liêm khiết, thực hiện lời Bác Hồ dạy “Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tƣ”.
7. Tính nhân dạo
Bản chất nhà nƣớc ta là dân chủ, do dân, của dân và vì dân. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa đƣợc thể hiện trong luật pháp, cụ thể là trong pháp luật hành chính; những thể
chế, quy tắc, thủ tục hành chính phải xuất phát từ lợi ích của dân, từ tấm lòng thật sự
thƣơng dân, phải đơn giản, trong sáng, tôn trọng con ngƣời và đem lại sự thuận lợi cho
dân. Các cơ quan hành chính và công chức không đƣợc quan liêu, độc đoán, cửa
quyền, gây phiền hà, không đòi hối lộ, không tham nhũng.
So với nhiều nƣớc khác trên thế giới, quản lý nhà nƣớc ở nƣớc ta có ba giá trị
cốt lõi sau đây:
a) Quản lý nhà nƣớc đƣợc tiến hành trong điều kiện hệ thống trị một Đảng lãnh
đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Quản lý nhà nƣớc đƣợc thực hiện trong một cơ cấu quyền lực nhà nƣớc

thống nhất không phân chia, nhƣng có sự phân công hợp lý giữa ba quyền (lập pháp,
hành pháp, tƣ pháp).
c) Quản lý nhà nƣớc đƣợc thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.
III. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nƣớc là những tƣ tƣởng chỉ đạo hành động ,
là ý thức hành vi của tổ chức và hoạt động quản lý nhà nƣớc của các cơ quan và viên
chức quản lý nhà nƣớc. Nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nƣớc không phải do một
cơ quan nào, một ngƣời nào tự ý đặt mà nó đƣợc hình thành trên cơ sở thực tế khách
quan, trên kết quả nghiên cứu sâu sắc các điều kiện thực tế xã hội, bản chất chính trị,
xã hội trong thời gian, không gian và hoàn cảnh cụ thể.
1.Nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
18


Đảng ta đã xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc
quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn xã hội. Trong hệ thống chính trị ở nƣớc
ta, Đảng là ngƣời lãnh đạo để đảm bảo mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nƣớc, trƣớc hết là các cơ quan dân
cử (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp). Nhà nƣớc là công cụ của chế độ làm chủ
xã hội chủ nghĩa, đƣợc nhân dân trao cho quyền lực và chịu trách nhiệm trƣớc nhân
dân quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của
Nhà nƣớc là thể chế hoá quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhâ dân lao
động thành pháp luật và bảo vệ các quyền hạn và lợi ích ấy.
Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động quản lý Nhà nƣớc trƣớc hết phải thừa nhận sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản. Các nghị quyết của Đảng cộng sản, Ban chấp hành trung
ƣơng, Bộ chính trị, Ban bí thƣ... luôn luôn là nguồn quan trọng nhất để ban hành các
quyết định quản lý nhà nƣớc, đồng thời trong hoạt động của mình, quản lý hành chính
Nhà nƣớc phải tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao độn. Hoạt động
của quản lý nhà nƣớc phải là nguyện vọng và quyền lợi của giai cấp công nhân lao
động. Hoạt động quản lý nhà nƣớc một mặt phải dảm bảo quyền dân chủ thật sự của

nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân lao động, mặt khác phải bảo đảm quyền dân
chủ thật sự của nhân dân lao động trong việc tham gia quản lý nhà nƣớc, phải tạo điều
kiện cho nhân dân lao động hoàn thành các nhiệm vụ chính trị do Đảng, Nhà nƣớc đề
ra, để họ phát huy tinh thần sáng tạo ra lợi ích cho xã hội, cho nhà nƣớc và cho bản
thân họ, trong đó lợi ích của bản thân là động lực trực tiếp.
2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đảng và Nhà nƣớc đã chỉ rõ, tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất chỉ
đạo mọi hoạt động của tổ chức, sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của chúng ta.
Để thực hiện nguyên tắc này cần nắm vững một số vấn đề chủ yếu sau đây:
- Nhà nƣớc ta là nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Đó là Nhà nƣớc dân chủ
khác hẳn với Nhà nƣớc tƣ sản phong kiến. Nhà nƣớc ta lấy dân làm gốc, cho nên việc
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động là vấn đề cơ bản, phải đƣợc thể hiện
đầy đủ trong tổ chức quản lý nhà nƣớc.
- Nhà nƣớc phải giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản ở cấp trung
ƣơng, đồng thời phải giao quyền hạn và trách nhiệm giải quyết các vấn đề khác cho
địa phƣơng, các ngành, tức là thực hiện phân cấp quản lý, giao quyền đƣợc sáng tạo và
linh hoạt trong các tổ chức quản lý điều hành để thực hiện luật và văn bản quy phạm
pháp luật.
- Trong tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà nƣớc, hai mặt tập trung và
dân chủ là một thể thống nhất, không đối lập nhau, không hạn chế nhau.
- Đảng và Nhà nƣớc ta đang ra sức khắc phục bệnh quan liêu, hách dịch, cửa
quyền của một số cán bộ, công chức trong khi giải quyết công việc với công dân.
c). Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ (đặc biệt là trên lĩnh vực quản lý kinh tế)
- Nhà nƣớc ta là một thể thống nhất, bộ máy nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động
theo 4 cấp hành chính Nhà nƣớc và theo quy định thì cấp dƣới phải phục tùng cấp trên,
địa phƣơng phải phục tùng trung ƣơng. Đó là quản lý lãnh thổ của chính quyền địa
phƣơng.
- Các đơn vị thuộc các ngành kinh tế kỹ thuật đều phải nằm tập trung trên vùng
lãnh thổ nhất định. Đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng thời nó cũng

phải chịu sự quản lý lãnh thổ của chính quyền địa phƣơng trong một số mặt theo chế
độ quy định. Hai mặt đó tạo ra sự thống nhất giữa cơ cấu kinh tế ngành với cơ cấu
19


kinh tế lãnh thổ nói chung. Đó là căn cứ và lý do của nguyên tắc kết hợp quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ.
Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải phối
hợp, gắn bó với nhau trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Có trách nhiệm
chung trong việc hoàn thành kế hoạch nhà nƣớc của ngành cũng nhƣ của lãnh thổ, có
trách nhiệm, nghĩa vụ của từng bên và của cả hai bên theo luật định.
d). Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế
với chức năng quản lý kinh doanh của các tổ chức kinh tế
Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan hành chính nhà nƣớc không đƣợc can thiệp
sâu vào nghiệp vụ kinh doanh, phải tôn trọng tính độc lập và tự chủ của các đơn vị
kinh doanh; đồng thời nó cũng đòi hỏi các đơn vụ kinh doanh trong việc thực hiện nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của
nhà nƣớc, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh, mở cửa hội nhập...phải tuân theo pháp luật
và sự điều tiết bằng pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nƣớc.
e). Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý nhà nƣớc phải dựa trên cơ
sở pháp luật của nhà nƣớc; nguyên tắc này không cho phép các cơ quan nhà nƣớc
thực hiện việc quản lý nhà nƣớc một cách chủ quan, tuỳ tiện mà phải dựa vào pháp
luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc pháp chế. Để thực hiện
nguyên tắc này có 3 điều kiện: xây dựng và hoàn thiện pháp luật; giáo dục pháp luật
cho toàn dân; xử lý một cách nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI và thứ VIII đều nhấn mạnh: “Pháp luật phải
đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh, mội ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật... Bất cứ ai
xâm phạm pháp luật đều đƣa ra xét xử theo pháp luật, không đƣợc giữ lại để xử lý nội
bộ. Không xử lý theo kiểu phong kiến: dân thì chịu hình pháp, quan thì xử theo “lễ”...

Cấm bao che các hành động phạm pháp và ngƣời phạm pháp dƣới bất cứ hình thức
nào”.
g). Nguyên tắc công khai
Tổ chức và hoạt động quản lý nhà nƣớc phải công khai cho dân biết trên các
phƣơng tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...). Phải chú ý đến dƣ
luận xã hội, từ đó mà điều chỉnh kịp thời các quyết định quản lý, thực hiện tốt phƣơng
châm: dân biết, dân bàn, dân kiểm tra.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, tổ chức và hoạt động quản lý hành chính Nhà
nƣớc còn có các các nguyên tắc khác nhƣ: nguyên tắc tập trung và thống nhất của hệ
thống, nguyên tắc hai chiều trực thuộc, nguyên tắc lãnh đạo tập thể...
Do bản chất của nhà nƣớc, nền hành chính nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam có các nguyên tắc sau đây:
1. Dựa vào dân, do dân và vì dân.
2. Quản lý theo Pháp luật.
3. Tập trung dân chủ.
4. Kết hợp chế độ làm việc tập thể với chế độ một thủ trưởng.
5. Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ.
6. Phân biệt quản lý nhà nước với quản lýsản xuất kinh doanh.
7. Phân biệt hành chính điều hành với hành chính tài phán.
IV. NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1. Nội dung hoạt động chủ yếu của quản lý hành chính nhà nƣớc
20


Tất cả bốn cấp hành chính nhà nƣớc ở trung ƣơng và địa phƣơng đều có mục
tiêu, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, có cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ – công
chức tƣơng ứng.
Các cơ quan này thực hiện chức năng hành pháp trong hành động về các lĩnh
vực và các mặt công tác sau đây:

a. Quản lý hành chính nhà nước về kinh tế, văn hoá xã hội
Các cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc từ Chính phủ, các Bộ, các cơ quan
Chính phủ, các cấp chính quyền địa phƣơng và các cơ quan, tổ chức có tƣ cách pháp
nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lý hành chính nhà nƣớc, theo thẩm
quyền của từng cơ quan, thực hiện các chƣơng trình và lĩnh vực phát triển có mục tiêu,
chỉ tiêu và giải pháp do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra và
đƣợc Quốc hội ra nghị quyết từ 1996 đến 2000. Theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, các cơ quan hành chính nhà nƣớc phải thực hiện 11
chƣơng trình phát triển kinh tế văn hóa, xã hội. Đó là:
– Chƣơng trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
– Chƣơng trình phát triển công nghiệp;
– Chƣơng trình phát triển kết cấu hạ tầng;
– Chƣơng trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trƣờng, sinh thai;
– Chƣơng trình phát triển kinh tế dịch vụ;
– Chƣơng trình phát triển kinh tế đối ngoại;
– Chƣơng trình phát triển giáo dục và đào tạo;
– Chƣơng trình giải quyết các vấn đề văn hoá – xã hội;
– Chƣơng trình phát triển các vùng lãnh thổ;
– Chƣơng trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc;
– Chƣơng trình về xoá đói, giảm nghèo.
b. Quản lý hành chính nhà nước về an ninh, quốc phòng
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thƣờng
xuyên của Đảng, Nhà nƣớc và của toàn quân, toàn dân. Phải nắm vững tƣ tƣởng chỉ
đạo sau đây: kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lƣợc của cách mạng Việt Nam là xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; kết hợp quốc phòng và an
ninh với kinh tế, gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ trọng yếu thƣờng xuyên
(Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII – Đảng CSVN).
c. Quản lý hành chính nhà nước về ngoại giao
“Tiếp tục thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phƣơng
hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại; hợp tác nhiều mặt, song phƣơng và đa phƣơng

với các nƣớc, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thƣơng lƣợng (Nghị
quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII – Đảng CSVN).
d. Quản lý hành chính nhà nước về ngân hàng, tài chính ngân sách nhà nước,
kế toán, kiểm toán, quản lý tài sản công, thị trường chứng khoán
Bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp
phần khống chế và kiểm soát lạm phát; tạo vốn đầu tƣ phát triển; đổi mới chính sách
thuế theo hƣớng đơn giản, ổn định, công bằng; thực hiện chặt chẽ chế độ kế toán, kiểm
toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính (theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII).
đ. Quản lý hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên
và môi trường
21


Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ
tiên tiến trong tất cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng –
an ninh.
Nám bắt các công nghệ cao nhƣ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ mới trong chế tạo máy… Đánh giá chính xác tài nguyên
quốc gia và khai thác sử dụng, bảo vệ tài nguyên: Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ
bản về khoa học xã hội, khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên; thực hiện tốt chính
sách và cơ chế đồng bộ cho sự phát triển khoa học và công nghệ… (theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
e. Quản lý hành chính nhà nước về các nguồn nhân lực
Mở rộng các trƣờng lớp dạy nghề, các trƣờng cao đẳng và đại học để đào tạo
công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật (kỹ sƣ, công trình sƣ…), đội ngũ các nhà
quản lý doanh nghiệp giỏi. Nhanh chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên
của hệ thông hành chính các cấp; phát triển đào tạo sau đại học, xây dựng đội ngũ trí

thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá văn nghệ, quản lý kinh
tế, quản lý xã hội… đáp ứng sự nghiệp tiếp tục đổi mới đƣa đất nƣớc vào giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hoá (theo tinh thần Nghệ quyết Đại hội Đảng VIII).
g. Quản lý hành chính nhà nước về công tác tổ chức bộ máy hành chính Nhà
nước về quy chế, chế độ, chính sách về công vụ, công chức nhà nước
h. Quản lý hành chính nhà nước về phát triển công nghệ tin học trong hoạt
động quản lý hành chính
2. Quy trình của hoạt động quản lý nhà nƣớc
Để thực hiện các nội dung quản lý hành chính nhà nƣớc, các cơ quan quản lý
hành chính nhà nƣớc phải tuân thủ quy trình cơ bản. Quy trình là một quá trình gồm
nhiều giai đoạn trong mọi cấp độ tổ chức quản lý hành chính nhà nƣớc.
Quy trình này gồm bảy giai đoạn sau:
a. Lập kế hoạch
Giai đoạn này bao gồm từ việc điều tra cơ bản, quy hoạch (tổng thể và chuyên
ngành) và lập kế hoạch để thực hiện kế hoạch.
Không có quy hoạch thì không nên làm kế hoạch; nhất thiết phải tiến hành điều
tra cơ bản làm cơ sở xây dựng kế hoạch.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lƣợc phát triển kinh tế – xã hội đã đƣợc hoạch định
trong đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng và đƣợc Quốc hội nhất trí thông qua, Chính phủ,
các Bộ, các cơ quan của Chính phủ, các cấp chính quyền địa phƣơng, các cơ quan và
tổ chức công quyền khác nhau trong hệ thống quản lý hành chính nhà nƣớc phải thực
hiện giai đoạn đầu tiên này.
b. Tổ chức bộ máy hành chính
Xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả, xác định
quan hệ chỉ đạo và hợp tác phối hợp liên ngành, quản lý chặt chẽ sự hoạt động của bộ
máy.
c. Bố trí nhân sự
Sắp xếp đội ngũ cán bộ – công chức từ ngƣời chỉ huy, chuyên gia đến nhân
viên. Xây dựng hệ thống đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn và theo hành động thực tế để
cất nhắc, đề bạt, khen thƣởng, kỷ luật.

d. Ra quyết định hành chính
Từ việc phân tích và tổng hợp thông tin đã thu thập đƣợc để để xuất các phƣơng
án khác nhau và chọn lấy phƣơng án tốt nhất làm nội dung quyết định. Thẩm định lại
phƣơng án và ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nƣớc.
22


e. Điều hoà phối hợp
Chỉ đạo điều hành, phối hợp dọc, ngang.
Phân công đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp theo một cơ chế điều hoà phối hợp có
hiệu quả.
g. Lập ngân sách
Xây dựng và ra quyết định ngân sách nhà nƣớc từ các nguồn: ngân sách nhà
nƣớc, vốn doanh nghiệp nhà nƣớc tự tích luỹ để tái đầu tƣ, vốn tiết kiệm của dân, vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài.
h. Kiểm tra, tổng kết đánh giá
Kiểm tra định kỳ, đột xuất, xử lý kết quả đã kiểm tra để chỉ đạo kịp thời.
Tổng kết đánh giá thực tiễn để thấy việc đã làm đƣợc và chƣa làm đƣợc,
nguyên nhân? Tổng kết kinh nghiệm khái quát thành lý luận và tiếp tục ra quyết định
mới có hiệu lực cao hơn.
V. CÔNG CỤ (PHƢƠNG TIỆN), HÌNH THỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC
1. Các công cụ (phƣơng tiện) của quản lý hành chính nhà nƣớc
Một cơ quan hành chính đƣợc thành lập, để thực hiện chức năng. nhiệm vụ và
quyền hạn của mình, phải có các công cụ (hoặc còn gọi là phƣơng tiện) cơ bản sau
đây: công sở, công vụ, công chức, công sản và quyết định quản lý hành chính nhà
nƣớc
a. Công sở
Là trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nƣớc, là nơi lãnh đạo công chức
và nhân viên thực thi công vụ, giao tiếp đối nội và đối ngoại, tiếp nhận các thông tin

đầu vào và ban hành các quyết định để giải quyết, xử lý công việc hàng ngày để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân.
Theo quy định của Chính phủ, công sở phải có tên, địa chỉ rõ ràng và phải treo
Quốc kỳ trong những ngày làm việc.
b. Công vụ và công chức
Công vụ và công chức của một cơ quan quản lý hành chính nhà nƣớc đƣợc xác
định từ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan.
– Công vụ là một dạng lao động xã hội của những ngƣời làm việc trong cơ quan
hành chính nhà nƣớc (công sở).
– Công chức là ngƣời thực hiện công vụ, đƣợc bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, đƣợc
hƣởng lƣơng và phụ cấp theo công việc đƣợc giao từ ngân sách nhà nƣớc.
c. Công sản là ngân sách, là vốn, là kinh phí và các điều kiện, phƣơng tiện vật
chất để cơ quan hoạt động.
d. Quyết định quản lý hành chính nhà nước
Trong quản lý hành chính nhà nƣớc, ngƣời ra quyết định đƣợc nhân danh Nhà
nƣớc, có tính ý chí quyền lực nhà nƣớc của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Các
công chức lãnh đạo, những ngƣời có thẩm quyền ra quyết định quản lý hành chính
Nhà nƣớc là sự biểu thị ý chí nhà nƣớc, là kết quả thực thi quyền hành pháp của bộ
máy nhà nƣớc, mang tính quyền lực và tính cƣỡng chế đối với khách thể quản lý hành
chính nhà nƣớc. Đồng thời phải tôn trọng quy trình công nghệ hành chính của việc ra
và tổ chức thực hiện quyết định.
Quy trình ra quyết định này gồm bốn bƣớc:
Bước 1: Phải dựa vào một cơ sở để ra quyết định có nghĩa là quyết định này dựa
vào căn cứ nào, nguồn thông tin nào?
Bước 2: Bảo đảm năm yêu cầu của quyết định:
23


– Yêu cầu bảo đảm tính chính trị, tính hợp pháp và tính hợp lý.
– Yêu cầu bảo đảm tính quần chúng.

– Yêu cầu bảo đảm tính khoa học.
– Yêu cầu bảo đảm tính thẩm quyền.
– Yêu cầu bảo đảm tính cụ thể, kịp thời, khả thi và đúng văn bản pháp chế.
Bước 3: Thực hiện dân chủ hoá trƣớc khi ban hành quyết định thông qua sự bàn
bạc nhất trí trong lãnh đạo và sự dân chủ bàn bạc với tập thể và trên cơ sở đó, thủ
trƣởng tính toán, cân nhắc và quyết định.
Bước 4: Thực hiện quy trình khoa học (thủ tục hành chính) của việc ra và tổ
chức thực hiện quyết định, gồm có: sự phân tích tình hình, dự báo, lập phƣơng án và
chọn phƣơng án tốt nhất; soạn thảo và thông qua quyết định; ra văn bản pháp quy; tổ
chức lực lƣợng để thực hiện quyết định; điều tra phản hồi, nếu có phản ứng phải điều
chỉnh kịp thời; kiểm tra định kỳ và đột xuất; tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm đúc
kết thành lý luận, tiếp tục ra quyết định mới.
2. Hình thức quản lý hành chính nhà nƣớc
Thông thƣờng quản lý hành chính nhà nƣớc có ba hình thức sau:
a. Ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính
Các chủ thể quản lý hành chính nhà nƣớc có thể ra quyết định bằng chữ viết,
bằng lời nói, bằng dấu hiệu, ký hiệu, trong đó bằng chữ viết là chủ yếu, là đảm bảo
tính pháp lý cao nhất.
Văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính là Quyết định hành chính
đƣợc ghi thành chữ viết, để cho các khách thể quản lý căn cứ vào đó mà thực hiện và
là chứng cứ để các chủ thể quản lý kiểm tra các khách thể thực hiện có đầy đủ và đúng
hay không và tuỳ theo đó mà truy cứu trách nhiệm, xử lý theo pháp luật.
b. Hội nghị
Hội nghị là hình thức để tập thể lãnh đạo ra quyết định.
Hội nghị còn sử dụng để bàn bạc một công việc có liên quan đến nhiều cơ quan
hoặc nhiều bộ phận trong một cơ quan, cần có sự kết hợp, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau.
Hội nghị còn dùng để truyền đạt thông tin, học tập, biểu thị thái độ, tuyên truyền, giải
thích…
Hội nghị bàn công việc sẽ có nghị quyết hội nghị. Các nghị quyết hội nghị đƣợc
thể hiện bằng văn bản pháp quy mới có đầy đủ tính pháp lý.

Hội nghị là hình thức cần thiết và quan trọng. Cần phải tổ chức và chủ trì hội
nghị theo phƣơng pháp khoa học để ít tốn thời gian mà hiệu quả cao.
c. Hoạt động thông tin điều hành bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại
Theo hình thức này, máy móc có thể thay thế lao động chân tay và cả lao động
trí óc cho công chức hành chính.
Hình thức này hiện nay đang phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn: sử dụng điện
thoại, ghi âm, ghi hình, vô tuyến truyền hình, fax, phôtôcopy, máy vi tính, máy điện
toán, Internet… Nói chung là tin học hiện đại đƣợc sử dụng vào công tác nghiệp vụ
điều hành quản lý hành chính nhà nƣớc.
Trong ba hình thức trên, hình thức ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật
hành chính là hình thức chủ yếu.
3. Phƣơng pháp quản lý hành chính
a. Các phương pháp của khoa học khác được cơ quan hành chính nhà nước sử
dụng trong công tác quản lý của mình, gồm có một số phƣơng pháp chủ yếu:
– Phương pháp kế hoạch hóa

24


Phƣơng pháp này đƣợc dùng để quy hoạch, dự báo xu thế phát triển, xây dựng
chiến lƣợc, xây dựng chƣơng trình mục tiêu, lập chỉ tiêu kế hoạch, tính toán cân đối
tổng thể liên ngành, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch…
– Phương pháp thống kê
Phƣơng pháp này dùng để điều tra, phân tích, thu thập thông tin, xử lý thông
tin, đánh giá tốc độ phát triển qua các phƣơng pháp: chỉ số, số bình quân, hệ số tƣơng
quan…
– Phương pháp toán học hóa
Phƣơng pháp này đƣợc dùng để lập chƣơng trình kế toán hoá qua hệ thống máy
điện toán, lập ma trận, sơ đồ mạng, vận trù học… trong quản lý điều hành của Nhà
nƣớc.

– Phương pháp tâm lý – xã hội học
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để nghiên cứu những vấn đề xã hội và tâm lý
nhằm suy tôn những ngƣời có công lao trong quản lý nhà nƣớc nhƣ: khen thƣởng thi
đua, tặng thƣởng huân, huy chƣơng, các danh hiệu: bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhà
giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân…
– Phương pháp sinh lý học
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để nghiên cứu các điều kiện lao động của con
ngƣời trong cơ quan làm sao cho phù hợp với sinh lý của họ, tạo ra sự thoải mái, dễ
chịu, từ đó góp phần tăng hiệu năng công tác. Ví dụ: bố trí cơ quan trong một ngôi nhà
cho hợp lý, sắp đặt chỗ làm việc theo phƣơng pháp khoa học.
b. Phương pháp của quản lý hành chính
– Phương pháp giáo dục ý thức, tư tưởng, đạo đức
Đây là sƣ tác động về tinh thần và tƣ tƣởng đối với con ngƣời để họ giác ngộ lý
tƣởng, hình thành ý thức chính trị, pháp luật đạo đức.
Ý thức đúng thì hành động tốt. Trên cơ sở của ý thức, tƣ tƣởng và đạo đức,
ngƣời lao động sẽ có tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật, có lƣơng tâm, hăng hái lao
động.
– Phương pháp tổ chức
Đây là biện pháp đƣa con ngƣời vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cƣơng. Để thực
hiện tốt biện pháp này thì có nhiều việc phải làm, nhƣng quan trọng nhất là phải có
quy chế, quy trình, nội quy hoạt động cho cơ quan, bộ phận, cá nhân và phải cƣơng
quyết thực hiện. Phải kiểm tra và xử lý kết quả đã kiểm tra một cách dân chủ, công
bằng, thƣởng, phạt phân minh.
Làm tốt biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ đƣợc giữ vững và tăng lên,
hiệu quả công việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ đƣợc đảm bảo. Ngƣợc lại thì tƣ tƣởng sẽ
không lành mạnh, đoàn kết nội bộ không yên, kỷ luật kỷ cƣơng lỏng lẻo, hiệu quả
công việc thấp.
– Phương pháp kinh tế
Đây là biện pháp mà chủ thể quản lý hành chính nhà nƣớc tác động gián tiếp
đến khách thể quản lý (con ngƣời) dựa trên các lợi ích và chất và các đòn bẩy kinh tế

(lƣơng, thƣởng, phụ cấp chính sách xã hội…) để làm cho các khách thể quản lý suy
nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận và trách nhiệm của mình một
cách tốt nhất mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính mệnh lệnh
của chủ thể quản lý.
Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách hài hoà và đúng đắn giữa lợi ích của
ngƣời công dân, lợi ích của tập thể, lợi ích Nhà nƣớc. Trong ba lợi ích đó, lợi ích của
ngƣời dân là động lực trực tiếp lợi ích của Nhà nƣớc là tối cao.
25


×