Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Xây dựng văn hóa và phong cách làm việc mới tại thanh tra CP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.89 KB, 16 trang )

Xây dựng văn hóa và phong cách làm việc mới tại Thanh tra CP
Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng.
2. Về nhiệm vụ và quyền hạn, tại Điều 2 Nghị định 65/2008/NĐ-CP quy
định:
Thanh tra Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị
định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ và
những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị quyết,
nghị định của Chính phủ về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm của
Thanh tra Chính phủ đã được phê duyệt và các dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật khác theo sự phân công của Chính phủ.
2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, chương trình, kế hoạch dài hạn,
05 năm, hàng năm về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng; các dự thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc thẩm quyền của
Thủ tướng Chính phủ.
3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư về thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
4. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật, chiến lược, chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt về thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; thông tin, tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng.
5. Về thanh tra:
1



a) Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); thanh tra vụ việc
có liên quan đến trách nhiệm quản lý nhà nước của nhiều Bộ, cơ quan ngang Bộ,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
b) Thanh tra vụ việc khác do Thủ tướng Chính phủ giao;
c) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc
huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện qua công tác thanh tra;
d) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết
định xử lý về thanh tra của Thanh tra Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ;
đ) Hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra của Bộ, ngành,
địa phương.
6. Về giải quyết khiếu nại, tố cáo:
a) Tổ chức việc tiếp công dân; tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền;
b) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện nhiệm vụ tiếp công
dân tại trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước;
c) Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại,
quyết định xử lý tố cáo của Thanh tra Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
7. Về phòng, chống tham nhũng:
a) Chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
b) Thanh tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo
thẩm quyền hoặc chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; phối hợp với các cơ quan, tổ
chức trong việc phát hiện hành vi tham nhũng; đôn đốc việc xử lý người có hành

2



vi tham nhũng theo quy định của pháp luật và theo phân cấp quản lý cán bộ của
Đảng và Chính phủ;
c) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng hệ
thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng;
d) Phối hợp với Kiểm toán Nhà nước, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng trong việc cung cấp, trao đổi thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về
công tác phòng, chống tham nhũng; chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý; tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và
kiến nghị chính sách, giải pháp phòng, chống tham nhũng.
8. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng được áp dụng các quyền hạn của Thanh tra Chính
phủ theo quy định của pháp luật; được yêu cầu các cơ quan, đơn vị có liên quan
cử cán bộ, công chức tham gia đoàn thanh tra.
9. Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ;
tổng kết kinh nghiệm về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng.
10. Thực hiện hợp tác quốc tế về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng.
11 . Tổ chức, chỉ đạo thực hiện chương trình, kế hoạch nghiên cứu khoa học,
ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
12. Quyết định và tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách hành chính của Thanh
tra Chính phủ theo chương trình, kế hoạch cải cách hành chính nhà nước của
Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
13. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành văn bản hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan thanh tra nhà nước.


3


14. Chỉ đạo, hướng dẫn công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra; bồi dưỡng
nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra;
quản lý các ngạch công chức chuyên ngành thanh tra theo quy định của pháp luật;
ban hành tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của Chánh Thanh tra Bộ, cơ quan
ngang Bộ và Chánh Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
tắt là Chánh Thanh tra cấp tỉnh).
15. Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch biên chế hàng năm;
tổng hợp, báo cáo và quản lý về tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, viên chức thuộc
Thanh tra Chính phủ theo quy định.
16. Quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp trực thuộc
theo quy định của pháp luật.
17. Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện ngân sách được
phân bổ theo quy định của pháp luật.
18. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ giao hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Về cơ cấu tổ chức, tại Điều 4, Nghị định 65/2008/NĐ-CP quy định:
1. Vụ Pháp chế.
2. Vụ Tổ chức cán bộ.
3. Vụ Hợp tác quốc tế.
4. Văn phòng.
5. Vụ Thanh tra khối kinh tế ngành (gọi tắt là Vụ I).
6. Vụ Thanh tra khối nội chính và kinh tế tổng hợp (gọi tắt là Vụ II).
7. Vụ Thanh tra khối văn hoá, xã hội (gọi tắt là Vụ III).
8. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 1 (gọi tắt là Cục I).
9. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 2 (gọi tắt là Cục II).
10. Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 3 (gọi tắt là Cục III).
11. Cục Chống tham nhũng (gọi tắt là Cục IV).

4


12. Viện Khoa học thanh tra.
13. Trường Cán bộ thanh tra.
14. Báo Thanh tra.
15. Tạp chí Thanh tra.
16. Trung tâm Thông tin.
Tại Điều này, các đơn vị quy định từ khoản 1 đến khoản 11 là các đơn vị
giúp Tổng Thanh tra thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các đơn vị quy định
từ khoản 12 đến khoản 16 là các đơn vị sự nghiệp.
Văn phòng, các vụ, cục được thành lập phòng.

Năm 2010, Quốc Hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2010 đã ban hành Luật Thanh
tra số 56/2010/QH12 thay thế Luật số 22/2004/QH11 kể từ ngày 01 tháng 7 năm
2011.
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 có nhiều điểm mới, tăng cường
thẩm quyền, trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ và Tổng Thanh tra Chính phủ,
cụ thể:
- Thanh tra Chính phủ và Tổng Thanh tra Chính phủ được chủ động hơn trong
việc xây dựng kế hoạch thanh tra. Trước đây, Thanh tra Chính phủ lập kế hoạch
thanh tra hằng năm (nêu cụ thể cơ quan, tổ chức, đơn vị là đối tượng thanh tra) trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nay theo Luật Thanh tra 2010 thì Thanh tra Chính
phủ chỉ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duỵệt định hướng chương trình
thanh tra hằng năm. Trên cơ sở định hướng được phê duyệt, Tổng Thanh tra có trách
nhiệm lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ và hướng dẫn Thanh tra bộ,
Thanh tra tỉnh xây dựng kế hoạch thanh tra cấp mình.
- Thẩm quyền của Thanh tra Chính phủ và Tổng Thanh tra Chính phủ trong công
tác thanh tra được tăng cường, trong đó đáng chú ý là các quyền:


5


a) Kiểm tra tính chính xác, tính hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử
lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh;
b) Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
c) Đề nghị Bộ trưởng, yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiến hành thanh
tra trong phạm vi quản lý của Bộ, của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi phát hiện có dấu
hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình;
d) Thanh tra các doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập;
đ) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử
lý về thanh tra của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ;
e) Yêu cầu Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi chung là Bộ), Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh báo cáo về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng.
Đây là những thẩm quyền, trách nhiệm pháp lý mới được bổ sung nhằm tăng
cường vai trò quản lý nhà nước của Thanh tra Chính phủ, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác thanh tra, đồng thời chính là cơ sở pháp lý để xem xét điều chỉnh lại tổ
chức bộ máy để đảm bảo Thanh tra Chính phủ có cơ cấu tổ chức bộ máy hợp lý,
khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trước nay trong quá trình điều hành, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ.
Mặt khác, Nghị định số 65/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 5 năm 2008 của Chính
phủ đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện, cụ thể:
Theo quy định tại Nghị định số 65/2008/NĐ-CP thì cơ cấu tổ chức của Thanh tra
Chính phủ gồm 16 đơn vị: Trong đó có 11 đơn vị có nhiệm vụ giúp Tổng Thanh tra

thực hiện chức năng quản lý nhà nước là: Vụ Pháp chế, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Hợp
tác quốc tế, Văn phòng, Vụ Thanh tra khối kinh tế ngành (gọi tắt là Vụ I), Vụ Thanh
tra khối nội chính và kinh tế tổng hợp (gọi tắt là Vụ II), Vụ Thanh tra khối văn hoá,
xã hội (gọi tắt là Vụ III), Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 1
6


(gọi tắt là Cục I), Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 2 (gọi tắt là
Cục II), Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 3 (gọi tắt là Cục III),
Cục Chống tham nhũng (gọi tắt là Cục IV); có 05 đơn vị sự nghiệp là: Viện Khoa
học thanh tra; Trường Cán bộ thanh tra; Báo Thanh tra; Tạp chí Thanh tra; Trung
tâm Thông tin.
Qua sơ kết việc triển khai thực hiện Nghị định số 65/2008/NĐ-CP cho thấy
nhiều điểm hạn chế và bất cập về cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ ảnh hưởng
đến công tác chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Thanh tra Chính
phủ cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của Thanh tra Chính phủ, cụ thể là:
a) Về công tác Tiếp dân và Xử lý đơn thư
Trước đây, Thanh tra Chính phủ đã có Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư chuyên
trách. Tuy nhiên, để tinh gọn đầu mối theo chủ trương cải cách hành chính, Nghị
định 65/2008/NĐ-CP quy định Thanh tra Chính phủ không có Vụ Tiếp dân và Xử lý
đơn thư. Chức năng xử lý đơn thư được chuyển về Văn phòng, chức năng tiếp dân
được chia tách, giao cho 02 đơn vị đảm nhận: Cục I (phụ trách công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo khối địa phương khu vực phía Bắc kiêm phụ trách Trụ sở
Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Hà Nội) và Cục III (phụ trách
công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo khối địa phương khu vực phía Nam
kiêm phụ trách Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại thành
phố Hồ Chí Minh). Việc tổ chức bộ máy xử lý đơn thư và tiếp dân như vậy đã bộc lộ
một số điểm bất hợp lý như:
- Thứ nhất, theo quy định tại Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ thì

Trung ương Đảng và Nhà nước chỉ có Trụ sở Tiếp công dân tại Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh, trong đó đầu mối báo cáo về tình hình tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo
do Trụ sở tại Hà Nội đảm trách. Do 02 Trụ sở Tiếp công dân được giao cho 02 Cục
khác nhau phụ trách, người dân ở phía Nam thông thường sau khi đến khiếu nại, tố
cáo tại Trụ sở tiếp công dân ở thành phố Hồ Chí Minh khi chưa thoả mãn yêu cầu, sẽ
còn tiếp tục ra Trụ sở tiếp công dân tại Hà Nội, dẫn đến việc hướng dẫn, trả lời công
dân hoặc chuyển khiếu nại, tố cáo của công dân trong cùng một vụ việc không thống
nhất hoặc trùng lặp giữa 02 đơn vị.
7


- Thứ hai, việc giao chức năng xử lý đơn thư cho Văn phòng khiến cho việc xử lý
đơn thư bị chia tách vì người dân vừa gửi đơn đến Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ
qua văn phòng, vừa trực tiếp đến Trụ sở tiếp công dân tại Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh để khiếu nại, tố cáo và nộp đơn, dẫn đến việc trả lời đơn thư của công dân
bị trùng lặp, thiếu thống nhất (cùng một đơn nhưng mỗi nơi xử lý khác nhau), thậm
chí mâu thuẫn, chồng chéo gây ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả công tác tiếp dân,
xử lý đơn thư. Việc không gắn kết công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư trong một
đầu mối cũng dẫn đến khó khăn trong việc tổng hợp tình hình hoặc xây dựng các báo
cáo chuyên đề theo yêu cầu của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
- Thứ ba, Chính phủ đã trình và Quốc hội đã chấp thuận xây dựng Luật Tiếp
công dân trong nhiệm kỳ 2011-2016, trong đó có nhấn mạnh nhiệm vụ quản lý nhà
nước và hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về công tác tiếp công dân.
Vì vậy, trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ cần phải bổ sung có một
đơn vị chuyên trách về tiếp dân, xử lý đơn thư để giúp Tổng Thanh tra Chính phủ
thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về công tác tiếp dân và quản lý thống nhất
công tác tiếp dân và xử lý đơn thư trong cả nước.
b) Về công tác giám sát, kiểm tra, thẩm định và xử lý sau thanh tra
- Một là, Theo quy định tại Nghị định số 65/2008/NĐ-CP thì Thanh tra Chính
phủ có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến

nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ.
Trên thực tế, hiệu quả hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo phụ thuộc
rất nhiều vào việc tổ chức thực hiện kết luận và kiến nghị thanh tra (thể hiện trong
bản kết luận thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo). Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn rất
nhiều trường hợp, cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa nghiêm túc chấp hành việc thực
hiện kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra, thậm chí chưa nghiêm túc chấp hành
cả ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có nguyên nhân là việc kiểm
tra, đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa tích cực và
thường xuyên; các vụ, cục, đơn vị (thuộc Thanh tra Chính phủ) và thanh tra một số
Bộ, ngành, địa phương chủ yếu tập trung vào công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo chưa quan tâm đầy đủ đến việc đôn đốc sau thanh tra. Mặt khác trong cơ
8


cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ thiếu 01 đơn vị chuyên trách trong việc đôn
đốc thực hiện kết luận thanh tra. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa cao.
Để khắc phục tình trạng trên, Luật Thanh tra năm 2010 tại Điểm e, Khoản 1,
Điều 35 đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chính phủ trong việc
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về
thanh tra của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra Chính phủ. Đồng thời, Điều 40, Điều
41 của Luật Thanh tra năm 2010 đã quy định về xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết
luận thanh tra, xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định xử lý về
thanh tra.
- Hai là, Hoạt động thanh tra cũng cần được giám sát, kiểm tra chặt chẽ để phòng,
chống tham nhũng tiêu cực. Theo Quy chế hiện nay, công tác này được giao cho Vụ
trưởng, Phó vụ trưởng đảm nhận nên mang tính khép kín, thiếu khách quan, dễ bị
lạm dụng để bao che cho cán bộ thanh tra cấp dưới.
Vì vậy, cần phải bố trí trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ (và Thanh

tra các Bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) có đơn vị chuyên trách
giúp Tổng Thanh tra Chính phủ (giúp Chánh thanh tra Bộ, ngành, tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương) theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, quyết
định xử lý về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, đồng thời đảm nhận nhiệm vụ nhiệm vụ
giám sát, kiểm tra hoạt động thanh tra
- Ba là, các báo cáo kết quả thanh tra của các Đoàn thanh tra và dự thảo kết luận
thanh tra cần được thẩm định khách quan, kỹ lưỡng trước khi được ban hành nhằm
bảo đảm tính chính xác, thấu tình, đạt lý trong kết luận thanh tra, kết luận giải quyết
khiếu nại, kết luận xử lý tố cáo. Nhiệm vụ này gắn kết chặt chẽ với hoạt động giám
sát nội bộ, vì vậy cần được giao luôn cho đơn vị có chức năng giám sát hoạt động
thanh tra đảm nhận.
- Bốn là, đơn vị được giao chức năng xử lý sau thanh tra và giám sát hoạt động
thanh tra nói trên cần được giao luôn nhiệm vụ xem xét tính tính chính xác, tính hợp
pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi cần thiết; đề xuất
Tổng Thanh tra Chính phủ quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Bộ trưởng kết
9


luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Thủ tướng Chính phủ
giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết
luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
c) Về công tác tham mưu kế hoạch - tài chính - tổng hợp
- Một là, theo Luật Thanh tra năm 2010 tăng cường tính chủ động cho Thanh tra
Chính phủ trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra, đồng thời đề cao trách nhiệm
hướng dẫn cho các Bộ, ngành, địa phương trong việc này nên cần có đơn vị chuyên
môn tham mưu cho Tổng Thanh tra Chính phủ xây dựng Định hướng chương trình
thanh tra cho cả ngành và hướng dẫn Thanh tra các Bộ, ngành, địa phương xây dựng
kế hoạch thanh tra của cấp mình.
- Hai là, công tác quản lý tài chính của Thanh tra Chính phủ hiện chưa có sự tách

bạch giữa đơn vị dự toán cấp I và cấp III theo pháp luật về quản lý ngân sách. Phòng
Tài vụ thuộc Văn phòng Thanh tra Chính phủ vừa thực hiện nhiệm vụ của đơn vị dự
toán cấp I (lập, phân bổ ngân sách, kiểm tra, giám sát, phê duyệt quyết toán ngân
sách của đơn vị dự toán cấp dưới), vừa thực hiện nhiệm vụ của đơn vị dự toán cấp
III (trực tiếp sử dụng ngân sách)- một tổ chức cùng thực hiện hai nhiệm vụ của hai
cấp ngân sách là bất hợp lý. Do đó, công tác kế hoạch tài chính cũng cần được tách
ra khỏi Văn phòng thành đơn vị dự toán cấp I để thực hiện thống nhất theo pháp luật
về quản lý ngân sách. Bộ Tài chính đã nhiều lần yêu cầu Thanh tra Chính phủ thực
hiện nội dung này (Thông báo số 53/TB-BTC ngày 04/02/2010 của Bộ Tài chính về
Thẩm định Quyết toán ngân sách năm 2008 của Thanh tra Chính phủ, trong đó: Đề
nghị Thanh tra Chính phủ sớm kiện toàn lại tổ chức bộ máy kế toán, phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ của đơn vị dự toán cấp I và đơn vị dự toán cấp III theo quy
định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn; Thông báo số 66/TBBTC ngày 27/01/2011 của Bộ Tài chính về việc Thẩm định Quyết toán ngân sách
năm 2009 của Thanh tra Chính phủ, trong đó nêu: Việc phân cấp quản lý ngân sách
đối với các đơn vị trực thuộc như hiện nay của Thanh tra Chính phủ là chưa phù hợp,
Bộ Tài chính đã nhiều lần kiến nghị Thanh tra Chính phủ kiện toàn lại tổ chức bộ
máy quản lý tài chính kế toán nhằm phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giữa đơn vị
dự toán cấp I và đơn vị dự toán cấp III, đảm bảo bộ máy tài chính cấp I đảm đương

10


được nhiệm vụ giúp lãnh đạo Thanh tra Chính phủ theo dõi, quản lý tài chính, tài sản
đối với các đơn vị trực thuộc).
- Ba là, chức năng tham mưu tổng hợp, xây dựng các báo cáo thường xuyên và
đột xuất, công tác thư ký giúp việc và giúp lãnh đạo Thanh tra Chính phủ trong chỉ
đạo điều hành hoạt động của Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra là một trong
những chức năng quan trọng, có tính quyết định đối với hiệu quả hoạt động của
Thanh tra Chính phủ và ngành Thanh tra. Kể từ đầu năm 2009, ngoài nhiệm vụ như
trước đây Chính phủ có bổ sung nhiệm vụ Tổng Thanh tra phải báo cáo định kỳ cụ

thể về tình hình, kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng tại các phiên họp thường kỳ của Chính phủ. Bên cạnh đó, Thanh
tra Chính phủ phải chuẩn bị các báo cáo đột xuất, báo cáo chuyên đề trình Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Tuy nhiên, cơ cấu
tổ chức của bộ phận tham mưu xây dựng kế hoạch tổng hợp hiện nay trực thuộc Văn
phòng là chưa tương xứng với nhiệm vụ.
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, cần thành lập đơn vị chuyên trách về
công tác tham mưu kế hoạch- tài chính- tổng hợp trực thuộc Tổng Thanh tra Chính
phủ trong cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ.
Trên cơ sở những quy định bổ sung mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ theo Luật Thanh tra năm 2010 và qua tổng kết
đánh giá việc thực hiện Nghị định số 65/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ thì việc ban
hành Nghị định thay thế Nghị định 65/2008/NĐ-CP là hết sức cần thiết cả về mặt
pháp lý và thực tiễn.

NỘI DUNG CỦA DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH MỚI.
Dự thảo Nghị định quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Thanh tra Chính phủ dự kiến xây dựng 5 điều:
1. Điều 1 quy định về vị trí và chức năng của Thanh tra Chính phủ theo Luật
Thanh tra năm 2010: Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
11


và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước; thực hiện việc thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
2. Điều 2 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Chính phủ, trong
Điều này ngoài việc kế thừa các quy định còn phù hợp của Nghị định số
65/2008/NĐ-CP, dự thảo Nghị định đã bổ sung các quy định mới cho phù hợp với

Luật Thanh tra năm 2010 cụ thể là các quy định về xây dựng chiến lược, Định hướng
chương trình thanh tra, Lập kế hoạch thanh tra của Thanh tra Chính phủ; hướng dẫn
Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi tắt là Thanh tra Bộ), Thanh tra tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Thanh tra tỉnh) xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch thanh tra; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập; kiểm tra, giám sát tính chính xác, hợp pháp
của các kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ,
Chánh Thanh tra tỉnh; yêu cầu Bộ, cơ quan ngang Bộ (sau đây gọi chung là Bộ), Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo tình hình, kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
3. Điều 3 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Thanh tra Chính phủ, dự
thảo Nghị định tách rõ nhiệm vụ, quyền hạn và bổ sung các nhiệm vụ mới cho người
đứng đầu cơ quan Thanh tra Chính phủ như trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Định hướng chương trình thanh tra và tổ chức triển khai Định hướng chương trình
thanh tra; cấp thẻ thanh tra viên cho công chức, sỹ quan được bổ nhiệm vào các
ngạch thanh tra viên trong toàn ngành Thanh tra. Đối với quyền hạn của Tổng Thanh
tra Chính phủ, dự thảo Nghị định bổ sung quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã
được Bộ trưởng kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được
Thủ tướng Chính phủ giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh kết luận nhưng phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh
báo cáo kế hoạch thanh tra, kết luận các cuộc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng; đề nghị Bộ trưởng, yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của Bộ, của Uỷ ban nhân dân cấp
12


tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và
chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về quyết định của mình.
4. Điều 4 quy định về cơ cấu tổ chức, dự thảo Nghị định đã xác định các vụ, cục,
đơn vị trực thuộc Thanh tra Chính phủ gồm có 19 đơn vị, trong đó:
a) Giữ nguyên 16 đơn vị theo cơ cấu tổ chức quy định tại Nghị định số
65/2008/NĐ-CP, gồm:
+ Vụ Pháp chế
+ Vụ Tổ chức cán bộ
+ Vụ Hợp tác quốc tế
+ Vụ Thanh tra khối kinh tế ngành
+ Vụ Thanh tra khối nội chính và kinh tế tổng hợp
+ Vụ Thanh tra khối văn hóa, xã hội
+ Văn phòng
+ Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 1 (Cục I)
+ Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 2 (Cục II)
+ Cục Giải quyết khiếu nại, tố cáo và Thanh tra khu vực 3 (Cục III)
+ Cục Chống tham nhũng (Cục IV)
+ Viện Khoa học thanh tra
+ Báo Thanh tra
+ Tạp chí Thanh tra
+ Trường Cán bộ Thanh tra
+ Trung tâm Thông tin.
b) Thành lập mới 03 đơn vị gồm:
- Một là, Vụ Kế hoạch - Tài chính - Tổng hợp: Là đơn vị tham mưu tổng hợp của
Thanh tra Chính phủ, có các nhiệm vụ cụ thể sau:

13


+ Xây dựng Định hướng chương trình thanh tra của ngành thanh tra hằng năm để

trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
+ Xây dựng kế hoạch thanh tra của cơ quan Thanh tra Chính phủ;
+ Hướng dẫn Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, Thanh tra các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch thanh tra hằng năm của cấp mình;
+ Thực hiện vai trò là đơn vị dự toán cấp I- lập, phân bổ dự toán ngân sách hàng
năm của Thanh tra Chính phủ cho các đơn vị dự toán trực thuộc và kiểm tra, giám
sát, phê duyệt quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán cấp dưới;
+ Tổng hợp tình hình, kết quả công tác và xây dựng các báo cáo về công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả
nước phục vụ chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tổng hợp xây
dựng báo cáo của Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác
phòng, chống tham nhũng để báo cáo, trình lãnh đạo Đảng, Quốc hội các kỳ họp;
+ Là đầu mối phát ngôn, cung cấp thông tin về kết quả công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng của cơ quan Thanh tra Chính phủ
và ngành Thanh tra cho dư luận, báo chí theo quy chế;
+ Quản lý nội dung thông tin trên Website của Thanh tra Chính phủ.
Việc thành lập Vụ này nhằm thực hiện nhiệm vụ quyền hạn mới quy định tại
Điểm a Khoản 1 Điều 15 Luật Thanh tra 2010 và nâng cao vai trò công tác tham
mưu tổng hợp. Văn phòng Thanh tra Chính phủ tập trung vào công tác đảm bảo,
phục vụ hoạt động, điều hành của lãnh đạo Thanh tra Chính phủ và hoạt động của
các vụ, cục, đơn vị; kiểm tra, giám sát thủ tục hành chính; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện kỷ luật lao động, kỷ luật phát ngôn, văn hoá công sở, quản trị cơ sở vật
chất của cơ quan và công tác quốc phòng- an ninh.
- Hai là, Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư: Có nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Quản lý nhà nước về công tác tiếp dân, xử lý đơn thư;
+ Chủ trì việc tiếp dân tại các trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà
nước;

14



+ Quản lý thống nhất việc xử lý đơn thư gửi đến Thanh tra Chính phủ; là đầu mối
của Thanh tra Chính phủ trong việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh,
kiến nghị; tổ chức nghiên cứu, xử lý, phân loại đơn thư, hướng dẫn người có đơn
thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ và các quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo;
+ Đề xuất với Tổng Thanh tra Chính phủ hướng xử lý những đơn thư thuộc thẩm
quyền; chuyển giao hồ sơ và theo dõi, đôn đốc các đơn vị của Thanh tra Chính phủ
được Tổng Thanh tra Chính phủ giao xem xét, giải quyết.
+ Hướng dẫn, trả lời công dân hoặc chuyển khiếu nại, tố cáo của công dân đến
cơ quan có thẩm quyền giải quyết; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết các vụ
việc khiếu nại, tố cáo do Thanh tra Chính phủ chuyển đơn và yêu cầu giải quyết;
+ Hướng dẫn nghiệp vụ công tác tiếp dân, xử lý đơn thư trong phạm vi toàn
quốc;
+ Tổng hợp, báo cáo tình hình chung về công tác tác tiếp dân, xử lý đơn thư;
quản lý cơ sở dữ liệu về đơn thư khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Chính phủ.
Việc thành lập Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư để thống nhất đầu mối, tránh chồng
chéo, cắt khúc như hiện nay và đúng theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ
tại Công văn số 6789/VPCP-TCCV ngày 27/9/2011 của Văn phòng Chính phủ. Văn
phòng Thanh tra Chính phủ sẽ thôi không đảm nhận công tác xử lý đơn thư mà chỉ
tập trung vào công tác đảm bảo, công tác hành chính phục vụ hoạt động, điều hành
của lãnh đạo Thanh tra Chính phủ và hoạt động của các vụ, cục, đơn vị.
Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư có bộ phận thường trực đặt tại thành phố Hồ Chí
Minh. Cục I và Cục III sẽ thôi không đảm nhận công tác tiếp dân tại Trụ sở sở tiếp
công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Vụ Tiếp dân và Xử lý đơn thư có con dấu riêng để hướng dẫn, trả lời công dân
và thực hiện việc chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đến các cơ quan
có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Ba là, Vụ giám sát, thẩm định và xử lý sau thanh tra: Có nhiệm vụ sau:
+ Giám sát hoạt động của các Đoàn thanh tra của Thanh tra Chính phủ;


15


+ Thẩm định báo cáo kết quả thanh tra, dự thảo kết luận thanh tra của Trưởng các
Đoàn thanh tra;
+ Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra, kết luận thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ tướng
Chính phủ, Thanh tra Chính phủ;
+ Xem xét, kiểm tra, đánh giá, đề xuất thanh tra lại các kết luận thanh tra của các
Bộ, tỉnh; kiến nghị phúc tra các kết luận thanh tra đã có hiệu lực pháp luật.
5. Điều 5 quy định về hiệu lực và trách nhiệm thi hành.

16



×