VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN ĐẠO
ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN ĐẠO
ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CÀ MAU
Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ
HÀ NỘI - 2017
LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời kỳ nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là một nhiệm vụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Đối với người làm công tác áp dụng pháp luật cũng đòi
hỏi phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Là một thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân, Học viên cảm thấy
trách nhiệm của hệ thống Tòa án còn rất nặng nề, để hoàn thành tốt nhiệm vụ
bảo vệ công lý, bảo về quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa theo Hiến pháp quy định thì hệ thống Tòa án cũng như toàn thể
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động cần phải nỗ lực, quyết tâm
nhiều hơn nữa trong nghiên cứu áp dụng pháp luật. Hòa chung tinh thần đó,
em chọn đề tài “Áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau” nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận,
đề xuất giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù, qua đó cũng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
Hoàn thành đề tài nghiên cứu này là nhờ Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam – Học viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện cho em tham gia lớp Cao học luật Khóa 6.2 năm 2015 tại Thành phố Hồ
Chí Minh. Trong quá trình học tập các thầy, cô đã truyền đạt cho chúng em
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu, giúp chúng em nâng cao nhận thức,
tầm nhìn trong công tác pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật nói riêng.
Đặc biệt, là nhờ sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy PGS.TS Trần Văn Độ
(nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự
trung ương) đã mất nhiều thời gian, công sức hướng dẫn trong quá trình
nghiên cứu và sửa chữa Luận văn, giúp em hoàn thành toàn bộ đề tài nghiên
cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam –
Học viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh, các thầy cô và thầy
PGS.TS Trần Văn Độ đã tạo điều kiện, giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ em
hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập theo kế hoạch đề ra. Một lần nữa, em xin
cảm ơn và kính chúc các thầy, cô và đặc biệt thầy PGS.TS Trần Văn Độ dồi
dào sức khỏe, hạnh phúc, tiếp tục cống hiến hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam–pháp luật của Nhà nước pháp quyền.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ ........................... 5
1.1. Lý luận về áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ............................... 5
1.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù .................. 14
1.3. Ý nghĩa, vài trò của áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ........29
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN
HÌNH PHẠT TÙ Ở TỈNH CÀ MAU, NHỮNG SAI SÓT, HẠN CHẾ VÀ
NGUYÊN NHÂN ........................................................................................... 31
2.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở Cà Mau .............. 31
2.2. Nguyên nhân của những sai sót, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở tỉnh Cà Mau ............................................ 39
Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QỦA
ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ ................... 46
3.1. Các yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù ........................................................................................................... 46
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù ........................................................................................................... 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Vì mục tiêu bảo về quyền con người, chính sách hình sự hướng thiện là
một trong những chủ trương lớn cuả Đảng và Nhà nước ta. Tại tiểu mục 2.1
mục 2 phần I Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 49) có đoạn
“... Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp,
đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo
không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử
hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. ....” Thực hiện chủ trương đó, Bộ luật hình sự (BLHS) nước ta (1999
sửa đổi, bổ sung 2009 sau đây gọi tắt là BLHS 1999) và BLHS 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017,có hiệu lực 01/01/2018 sau đây gọi tắt là BLHS 2015) đã
cụ thể hóa nhiều chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là đề cao
chính sách hình sự hướng thiện, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình
phạt tiền, cải tạo không giam giữ. Chính vì thế, việc nghiên cứu áp dụng các
loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đang là vấn đề rất được quan tâm hiện
nay. Không nằm ngoài xu hướng đó, học viên chọn đề tài: “Áp dụng các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Cà Mau” với hy vọng góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và đánh giá về
thực tiễn của từng loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (cảnh cáo, phạt tiền, cải
tạo không giam giữ và trục xuất) trong một phạm vi lãnh thổ và mốc thời gian
nhất định để từ đó rút ra những hạn chế, thiếu sót và bài học kinh nghiệm
trong việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ và trục xuất thời gian qua còn rời rạc, chỉ nghiên cứu từng
hình phạt riêng lẻ, chưa đặt chúng vào mối quan hệ tổng thể để so sánh, đối
1
chiếu với nhau và với hình phạt khác. Điển hình như bài viết “Hình phạt tiền
và một số kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Th.s Mai Thị Thủy trên tạp chí
Tòa án nhân dân số 18 năm 2005; nội dung bài viết chỉ nghiên cứu về mặt lý
luận, phân tích những bất cập, mâu thuẫn của Bộ luật hình sự (1999) về hình
phạt tiền và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện, chứ chưa liên hệ với thực
tiễn áp dụng. Bài viết “Tăng cường hình phạt tiền đối với các tội chiếm đoạt
tài sản trong luật hình sự Việt Nam” của Th.s Lê Tường Vy trên Tạp chí Tòa
án nhân dân số 7 năm 2015; nội dung có phân tích và so sánh với quy định về
hình phạt tiền của pháp luật hình sự một số nước, có đề cập đến thực tiễn áp
dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung nhưng chỉ dừng lại ở
nhóm tội chiếm đoạt tài sản. Bài viết “Thi hành án phạt cảnh cáo theo luật thi
hành án hình sự” của Mai Thị Thanh Trúc trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 7
năm 2015; nội dung nói về những bất cập, mâu thuẫn giữa Luật Thi hành án
hình sự với Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án của hình phạt cảnh cáo, …
Hầu hết, các bài viết nêu trên đã phân tích những bất cập, mâu thuẫn và đề
xuất một số kiến nghị,góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và
pháp luật hình sự nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu Đề tài là trên cơ sở làm rõ bản chất, mục đích, ý
nghĩa và điều kiện áp dụng đối với từng loại hình phạt nhẹ hơn phạt tù, chỉ ra
những sai sót, hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng, đề xuất một số giải
pháp góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về áp dụng các hình phạt nhẹ
hơn phạt tù;
2
- Phân tích quy định của pháp luật hình sự về các hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở các
Toà án tỉnh Cà Mâu;
- Đưa ra các kiến nghị khoa học về giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, học viên chỉ tập trung nghiên cứu 04 loại
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù với tư cách là hình phạt chính đó là: Cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất theo quy định của BLHS 1999
và thực tiễn áp dụng các hình phạt đó.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt này trên địa bàn
tỉnh Cà Mau trong giai đoạn 05 năm từ năm 2013 đến 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về Nhà
nước pháp quyền, về quyền con người và Chính sách hình sự trong Cải cách
tư pháp.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp quy nạp, diễn dịch; phương pháp lịch sử và
phương pháp so sánh. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp khảo sát
đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của một số người làm công tác
thực tiễn pháp lý, qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng các hình
phạt này trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua việc nghiên cứu này, trước hết là giúp cho tác giả có cái nhìn bao
quát về các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, tầm quan trọng của từng loại hình
3
phạt này trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam; xác định
hiệu quả tác động của từng hình phạt mang lại có thỏa mãn như mục đích
hình phạt đã quy định? Qua phân tích về lý luận của pháp luật thực định, kết
hợp với thực tiễn áp dụng tại Cà Mau sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm
góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu
này còn làm phong phú thêm kho tàng tư liệu về áp dụng hình phạt và có giá
trị tham khảo cho những ai quan tâm đến việc luận bàn về chính sách hình sự
hướng thiện trong pháp luật hìn sự nước ta.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn Gồm 3 chương như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù;
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù ở tỉnh
Cà Mau;
Chƣơng 3: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
4
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG CÁC
HÌNH PHẠT NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ
1.1. Lý luận về áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
1.1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù
Hình phạt là một trong những công cụ của Nhà nước dùng để đấu tranh
với tội phạm, là biện pháp trách nhiệm hình sự nghiệm khắc nhất được Nhà
nước sử dụng để trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm tội. Hình phạt làm
hạn chế hoặc tước đoạt của người bị kết án một hoặc một số quyền, tài sản
nhất định với hình thức mệnh lệnh, cưỡng chế; buộc người bị kết án phải phục
tùng và chấp hành. Khái niệm hình phạt được quy định tại Điều 26 Bộ luật
hình sự (BLHS): Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định [5, tr.
60]. Hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự bao gồm
hình phạt chính và hình phạt bổ sung, căn cứ vào tính chất nghiêm khắc của
hình phạt, các hình phạt chính được xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng bao gồm:
Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù
chung thân và tử hình [5, tr. 60, 61]. Các hình phạt được xem là nhẹ hơn hình
phạt tù (có tính nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù) bao gồm cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất.
Từng thời kỳ lịch sử mà pháp luật hình sự do Nhà nước ban hành có
khác nhau, vì thế mục đích của hình phạt cũng khác nhau. Ngày nay, mục
đích của hình phạt trong pháp luật hình sự nước ta không chỉ nhằm trừng trị
người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
5
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để kết án một con người thực hiện hành vi phạm tội phải trải qua nhiều
giai đoạn tố tụng và do nhiều cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên,
giai đoạn quan trọng nhất, mang yếu tố quyết định đó là giai đoạn xét xử mà
Tòa án mới là cơ quan có thẩm quyền quyết định. Chính vì thế, trong phương
hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp, Nghị quyết 49-NQ/TW đã chỉ rõ “... xác
đinh Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm ...” [1, tr 03].
Trong quá trình xét xử, Tòa án (Hội đồng xét xử) phải xem xét thận
trọng tất cả các tình tiết của vụ án (tính nguy hiểm của hành vi, lỗi, hậu quả,
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân người phạm tội, ... để chọn
một loại hình phạt áp dụng (hình phạt chính) và ấn định một mức hình phạt
tương xứng với hành vi phạm tội gây ra (trừ trường hợp miễn hình phạt). Đó
gọi là quyết định hình phạt. Theo Giáo sư, Tiến sĩ (GS.TS) Võ Khánh Vinh:
Nội dung của quyết định hình phạt thể hiện ở hai điểm sau: 1) Tòa án lựa
chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản
điều luật) được áp dụng để quyết định đối với bị cáo; 2) và tiếp đến xác định
một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo. [18, tr. 385]
Như vậy, có cơ sở để khẳng định trong quyết định hình phạt chứa đựng
hai yếu tố, đó là áp dụng hình phạt và ấn định mức xử phạt.
Tuy nhiên, BLHS không quy định rạch ròi và tách bạch giữa áp dụng
hình phạt với ấn định mức xử phạt mà gộp chung lại gọi là “Quyết định hình
phạt”. Mặc dù vậy, BLHS cũng không đưa ra khái niệm quyết định hình phạt,
mà chỉ quy định các căn cứ quyết định hình phạt, Điều 45 BLHS quy định:
“Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
6
nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự”.
Với truyền thống nhân đạo tốt đẹp của dân tộc ta, theo pháp luật hình
sự Việt Nam không phải lúc nào người phạm tội cũng đều phải chịu hình
phạt, mà có khi họ được miễn hình phạt, tại Điều 54 BLHS nước ta quy định
về miễn hình phạt như sau: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt
trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1
Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến
mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Như vậy, trong việc xem xét áp dụng
hình phạt có chứa đựng cả nội dung xem xét việc miễn hình phạt.
Ngày nay, với xu thế bảo vệ quyền con người ngày càng được nâng
cao, chính sách pháp luật hình sự ngày càng thể hiện tính nhân văn đối với
người phạm tội. Vì vậy, theo Học viên nên quy định việc xem xét miễn hình
phạt trước khi lựa chọn hình phạt áp dụng đối với người phạm tội.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng hình phạt
như sau: “Áp dụng hình phạt là Tòa án lựa chọn một hình phạt đã được quy
định tại điều luật về tội danh được áp dụng, hoặc một hình phạt khác thuộc
loại nhẹ hơn để áp dụng đối với người bị kết án nếu xét thấy người đó không
xứng đáng được khoan hồng đặc biệt để miễn hình phạt cho họ”.
Sau khi xét thấy người bị kết án không xứng đáng được khoan hồng
đặc biệt để miễn hình phạt thì Tòa án lựa chọn hình phạt áp dụng cho họ. Để
lựa chọn một hình phạt áp dụng đối với người bị kết án, Tòa án phải lựa chọn
một trong các hình phạt được quy định tại điều luật về tội danh được áp dụng,
có nghĩa là tội danh mà người phạm tội đã phạm vào và Tòa án căn cứ vào tội
danh đó để kết án, lựa hình phạt được quy định trong tội đó để áp dụng.
Đương nhiên là tội danh đó thuộc phần các tội phạm trong BLHS và hình phạt
được chọn áp dụng đó thuộc một trong bảy hình phạt từ cảnh cáo đến tử hình
7
được quy định tại Điều 28 BLHS. Tuy nhiên, Tòa án có thể chọn một hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu thuộc trường hợp áp dụng Điều 47 (quyết
định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật) của BLHS.
Trong các loại hình phạt thì hình phạt tù được áp dụng phổ biến nhất,
hình phạt tù là loại hình phạt tước của người bị kết án quyền tự do về cư trú,
đi lại, học tập, ... và bị giam giữ tại các trại trong một thời gian nhất định (có
thời hạn) hoặc cả đời (chung thân). Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: Tù có thời
hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người
đó ra khỏi môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để
giáo dục và cải tạo họ. [18, tr. 359]
Hình phạt được gọi là nhẹ hơn hình phạt tù xuất phát từ tính nghiêm
khắc của hình phạt, các hình phạt đó tước của người bị kết án một số quyền,
lợi ích có tính nghiêm khắc nhẹ hơn hình phạt tù. Do đó, các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù bao gồm 04 (bốn) loại hình phạt và thể hiện theo thứ tự như
sau: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất (Điều 28
BLHS).
Việc lựa chọn hình phạt nào để áp dụng trong hệ thống hình phạt là đã
khó nhưng để lựa chọn một hình phạt đối với các hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù lại càng khó khăn, phức tạp hơn. Bởi vì, điều kiện áp dụng của chúng có
nhiều điểm giống nhau, khoảng cách phân biệt không lớn.
Các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là những hình phạt không tước bỏ
quyền tự do cư trú, đi lại, học tập, ... của người bị kết án và không cách ly họ
ra khỏi đời sống xã hội bình thường mà chỉ mang tính răn đe, giáo dục là
chính; như: Khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án [18, tr.
354] (hình phạt cảnh cáo), tước ở người bị kết án một khoản tiền nhất định
trong những trường hợp do pháp luật quy định và sung vào công quỹ nhà
nước [18, tr. 355] (hình phạt tiền), được cải tạo ngay tại nơi thường trú hoặc
8
tại cơ quan nhà nước hoặc tổ chức nơi người đó làm việc [18, tr. 357] (hình
phạt cải tạo không giam giữ), và buộc người nước ngoài bị kết án phải rời
khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [18, tr. 358] (hình
phạt trục xuất).
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm “Hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù” như
sau: “Hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là những hình phạt không cách ly người
bị kết án ra khỏi đời sống xã hội bình thường mà chỉ khiển trách nghiêm
khắc, công khai; tước một khoản tiền; cải tạo, giáo dục tại nơi cư trú, học
tập, công tác; và buộc rời khỏi lãnh thổ nước Việt Nam”.
Từ những khái niệm “áp dụng hình phạt”, “hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù” Học viên có thể đưa ra khái niệm “áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù” như sau:“Áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là Tòa án lựa chọn một
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đã được quy định trong BLHS để áp dụng đối
với người bị kết án nếu xét thấy người đó không xứng đáng được khoan hồng
đặc biệt để miễn hình phạt cho họ”.
Trong khái niệm này, Học viên dùng cụm từ “người bị kết án” chứ
không dùng cụm từ “người phạm tội”. Theo khoản 1 Điều 31 Hiến pháp (năm
2013) quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực
pháp luật”. Như vậy, theo Hiến pháp thì khi “có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật” người bị buộc tội đó mới trở thành người có tội (chứ
không phải người phạm tội), còn họ có thực sự là người phạm tội hay không
là chuyện khác. Còn người phạm tội là bao gồm cả người thực hiện hành vi
phạm tội nhưng có nhiều lý do (điều tra không xác định được, hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, đang bị truy nã khi chưa xét xử, ...) họ không
(chưa) bị kết án nên không thể áp dụng hình phạt đối với họ. Đồng thời, có
người bị kết án nhưng bị oan nên họ không phải là người phạm tội; nên áp
9
dụng hình phạt đối với “người bị kết án” chuẩn xác đối với “người phạm tội”.
Tuy nhiên, cụm từ “người phạm tội” được sử dụng trong khái niệm hình phạt
(Điều 26), hình phạt cảnh cáo (Điều 29), phạt tiền (Điều 30), cải tạo không
giam giữ (Điều 31) ... của BLHS nhưng đến nay BLHS 2015 sửa đổi 2017
vẫn sử dụng cụm từ “người phạm tội” trong các quy định này (các điều 30,
34, 35, 36). Vấn đề này cũng cần được khắc phục để pháp luật hình sự ngày
càng hoàn thiện hơn.
1.1.2.Nội dung áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
Trước khi áp dụng các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù Tòa án phải xem
xét người bị kết án có thỏa mãn điều kiện và xứng đáng được miễn hình phạt
hay không, khi xác định không thể miễn hình phạt thì mới xem xét áp dụng
hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Tại đoạn 2 Điều 26 của BLHS về khái niệm hình phạt có quy
định:“Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết
định. Vì vậy, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền lựa chọn hình phạt để
áp dụng là quá rõ ràng, không có gì phải bàn cải. Tuy nhiên, lựa chọn hình
phạt nào trong các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù để áp dụng là vấn đề phức
tạp và khó khăn. Nội dung của áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù là
những việc mà Tòa án phải thực hiện, dựa trên những căn cứ nhất định, tuân
theo một nguyên tắc nhất định và phụ vào đối tượng áp dụng; bao gồm những
vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Căn cứ áp dụng hình phạt. Do quyết định hình phạt là một
nội dung của áp dụng hình phạt, nên căn cứ quyết định hình phạt cũng là cơ
sở làm căn cứ cho áp dụng hình phạt. Điều 45 BLHS quy định:“Khi quyết
định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và
10
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Vì vậy, khi áp dụng hình phạt Tòa án phải căn cứ vào:
(1) Quy định của Bộ luật hình sự, nhất là các quy định có liên quan đến
các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù; khi áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt
tù thì Tòa án không chỉ áp dụng hình phạt có quy định trong điều luật được áp
dụng (phần các tội phạm) mà còn áp dụng cả những hình phạt nhẹ hơn không
được quy định trong điều luật đó (áp dụng điều 47 BLHS về quyết định hình
phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật);
(2) Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tính chất và
mức độ nguy hiểm thể hiện qua hành vi khách quan của người bị kết án và
công cụ, phương tiện gây án (ví dụ như dùng hung khí nguy hiểm, cường độ
tấn công, vị trí trọng yếu trên cơ thể, thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người,
... và hậu quả của tội phạm để lại). Tính chất nguy hiểm còn thể hiện qua ý chí
chủ quan của người thực hiện hành vi (ví dụ như quyết tâm thực hiện tội
phạm đến cùng, tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội, ...);
(3) Nhân thân người phạm tội là những yếu tố thuộc về chính bản thân
của người bị kết án mà Tòa án cần phải xem xét khi lựa chọn hình phạt để áp
dụng, những yếu tố đó bao gồm độ tuổi, giới tính và tình trạng sinh sản như:
người đã thành niên hay chưa thành niên, người già trên 75 tuổi, phụ nữ có
thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, công lao cống hiến cho đất nước, người
chưa có tiền án, tiền sự, ....
(4) Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 BLHS, bao gồm các tình tiết luật định
(khoản 1) và các tình tiết mà Toà án xác định thêm (khoản 2). Các tình tiết
tăng nặng được quy định tại Điều 48 BLHS.
11
Trong áp dụng hình phạt, Toà án không đơn giản quyết định áp dụng
các căn cứ nêu trên. Trước khi quyết định áp dụng, Toà án phải xác định các
tình tiết của vụ án liên qun đến các căn cứ đó. Hay nói cách khác, Toà án phải
chứng minh được tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm; các yếu tố nhân
thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
có trong vụ án.
Thứ hai: Trình tự lựa chọn hình phạt. Việc lựa chọn hình phạt phải theo
thứ tự từ nhẹ đến nặng. Sau khi xem xét các căn cứ của áp dụng hình phạt,
Tòa án lựa chọn một hình phạt để áp dụng thì phải xem xét hình phạt nhẹ áp
dụng trước, nếu xét thấy hình phạt đó còn nhẹ so với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thì chọn loại hình phạt kế tiếp
nặng hơn. Việc lựa chọn hình phạt phải đảm bảo đủ căn cứ đạt được mục đích
của hình phạt. Theo Điều 27 BLHS quy định:“Hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác
tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Như vậy, khi
lựa chọn hình phạt để áp dụng đối với người bị kết án mà có nhiều loại hình
phạt (từ hai hình phạt trở lên) đều có thể áp dụng được, và cũng đều đảm bảo
đủ căn cứ tin rằng sẽ đạt được mục đích của hình phạt thì Tòa án phải chọn
loại hình phạt nhẹ hơn (nhẹ nhất) trong các hình phạt có thể áp dụng được.
Thứ ba: Đối tượng áp dụng hình phạt. Khi áp dụng các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù thì phải phân biệt người bị kết án là người Việt Nam hay
người nước ngoài. Nếu là người nước ngoài thì ưu tiên áp dụng loại hình phạt
“trục xuất”, hạn chế áp dụng những hình phạt cảnh cáo, phạt tiền và không
thể áp dụng cải tạo không giam giữ. Ngược lại, nếu là người Việt Nam thì
12
không thể áp dụng hình phạt trục xuất mà chỉ áp dụng một trong ba hình phạt
cảnh cáo, phạt tiền hay cải tạo không giam giữ.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
Các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù bao gồm bốn loại hình phạt, đó là:
Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Do đây là nhóm hình
phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt nên chúng có những đặc điểm giống
với đặc điểm của hình phạt nói chung nhưng cũng có những đặc điểm khác
biệt so với hình phạt khác nặng hơn. Từ khái niệm áp dụng hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù, có thể xác định đặc điểm của áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình
phạt tù gồm những dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Do Tòa án áp dụng.
Đặc điểm này cũng là đặc điểm chung của việc áp dụng bất kỳ hình
phạt nào trong hệ thống hình phạt. Nói đến hình phạt thì phải do Tòa án áp
dụng đã được quy định tại đoạn 2 Điều 26 của BLHS. Hình thức áp dụng hình
phạt thể hiện bằng văn bản đó là Bản án và được Tòa án (Hội đồng xét xử)
tuyên bố một cách trịnh trọng công khai “Nhân danh Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”. Hiệu lực của Bản án có giá trị bắt buộc thi hành, nếu
không tự nguyện sẽ bị cưỡng chế bằng quyền lực Nhà nước.
Thứ hai: Áp dụng đối với người bị kết tội.
Chỉ có người bị Toà án tuyên là có tội mới bị áp dụng hình phạt. Muốn
kết án một người phải trải qua một quy trình tố tụng khắc khe và nghiệm ngặt,
các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội và Tòa án là cơ quan cuối cùng có thẩm quyền kết tội họ.
Thứ ba: Tước hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích nhất định.
Bản chất của hình phạt là chế tài nghiệm khắc nhất của Nhà nước,
chính vì vậy hình phạt bao giờ cũng mang lại những bất lợi nhất định, tước
đoạt người bị kết án một hoặc một số quyền, tài sản hoặc lợi ích nhất định.
13
Đối với các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cũng thế, tùy từng hình phạt cụ thể
mà khi áp dụng sẽ tước một hoặc một số quyền, tài sản, lợi ích của người bị
kết án. Riêng hình phạt cảnh cáo không trực tiếp, mà gián tiếp (qua hình phạt)
tước tài sản của người bị kết án, đó là án phí phải nộp. [6, điều 99]
Thứ tư: Để lại án tích cho người bị kết án
Người bị kết án sẽ bị án tích cho bản thân người đó trong một thời gian
nhất định, trong thời gian bị coi có án tích mà phạm tội mới thì xác định
người này đã có một tiền án. Tùy từng hợp cụ thể mà tiền án có thể là yếu tố
định tội, định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc xóa án
tích có thể đương nhiên theo quy định tại Điều 64 BLHS hoặc do Tòa án
quyết định theo quy định tại Điều 65 và 66 BLHS. Tuy nhiên, trong các hình
phạt nhẹ hơn hình phạt tù thì riêng hình phạt trục xuất áp dụng cho người
nước ngoài không để lại án tích (theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 64
BLHS).
1.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
1.2.1. Quy định của BLHS về các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù
1.2.1.1. Hình phạt “Cảnh cáo”
Điều 29 BLHS quy định:“Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn
hình phạt”. Từ quy định này, cho ta thấy người bị kết án có thể bị áp dụng
hình phạt cảnh cáo khi có đủ các điều kiện sau:
Một là: Phạm vào tội ít nghiêm trọng, tức tội phạm gây nguy hại không
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba
năm tù (Khoản 3 Điều 8 BLHS). Như vậy, trong phần các tội phạm của
BLHS, những điều luật nào có chứa khung hình phạt quy định mức cao nhất
đến ba năm tù thì khung hình phạt đó thuộc tội ít nghiêm trọng, người phạm
vào khung đó là phạm tội ít nghiêm trọng.
14
Hai là: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tình tiết giảm nhẹ là những tình
tiết mà Tòa án sử dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị
kết án. Đó có thể là tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS hoặc tình tiết
được Toà án xem xét xác định theo khoản 2 Điều 46 BLHS.
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ là có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên. Theo
quy định tại Điều 29 BLHS về hình phạt cảnh cáo, thì điều kiện “có nhiều
tình tiết giảm nhẹ” không giới hạn ở Khoản 1 Điều 46, có nghĩa là tình tiết
giảm nhẹ ở Khoản 1 hay Khoản 2 của Điều 46 đều được sử dụng để áp dụng
hình phạt cảnh cáo cho người bị kết án, chỉ cần tình tiết giảm nhẹ phải được
ghi rõ trong bản án.
Ba là: Chưa đến mức miễn hình phạt. Tại điều 54 BLHS quy định về
miễn hình phạt như sau: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong
trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều
46 của BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được
miễn trách nhiệm hình sự”.
Trong điều luật này, ta thấy miễn hình phạt có hai điều kiện, (1) là có
nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS, (2) là đáng
được khoan hồng đặc biệt. Tuy nhiên, đáng được khoan hồng đặc biệt là
những trường hợp nào thì do Toà án nhận định, đánh giá; cho đến nay chưa có
văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Như vậy, khi có đủ 03 điều kiện “Phạm tội ít nghiêm trọng”, “có nhiều
tình tiết giảm nhẹ” (không phân biệt tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 1 hay Khoản
2 Điều 46 BLHS) và “chưa đến mức miễn hình phạt” thì có thể áp dụng hình
phạt cảnh cáo.
Tuy nhiên, trong BLHS có đến 140 điều luật quy định là tội ít nghiêm
trọng, nhưng trong đó chỉ có 34 điều luật quy định cho phép áp dụng hình
phạt cảnh cáo (chiếm tỷ lệ 24%), còn lại 106 điều luật (chiếm 76%) không
15
quy định nên không thể áp dụng hình phạt này. Trong những trường hợp
BLHS không quy định, cảnh cáo chỉ có thể được áp dụng theo khoản 2 Điều
47 BLHS để chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi đủ điều
kiện quy định.
Trong LBHS 2015, có tổng cộng 200 điều luật quy định là tội phạm ít
nghiêm trọng, nhiều hơn BLHS 1999 là 60 điều. Trong số 200 điều chỉ có 26
điều quy định hình có áp dụng hình phạt cảnh cáo, chiếm tỷ lệ 13%, còn lại
176 điều không quy định. So sánh Điều 29 BLHS 1999 với Điều 34 BLHS
2015, các điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo không có gì thay đổi, bởi
Điều 34 BLHS 2015 kế thừa nguyên vẹn Điều 29 BLHS 1999. Do đó, những
thiếu sót về áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS 1999 cũng chưa được
BLHS 2015 khắc phục, thậm chí khả năng áp dụng hình phạt cảnh cáo thấp
hơn chỉ 13%, trong khi BLHS 1999 24%.
1.2.1.2. Hình phạt “Tiền”.
Hình phạt tiền được BLHS quy định vừa là hình phạt chính vừa là hình
phạt bổ sung.Tuy nhiên, do giới hạn của đề tài nên hình phạt tiền được nghiên
cứu ở đây với tư cách là hình phạt chính.
Hình phạt tiền được Điều 30 BLHS quy định như sau:
“1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản
lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của
người phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu
đồng.
4. Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do
Tòa án quyết định trong bản án”.
16
Để áp dụng hình phạt tiền, Tòa án phải xác định người bị kết án hội đủ
các điều kiện sau:
Một là (điều kiện cần), phạm vào tội ít nghiêm trọng. Có nghĩa là phạm
vào những điều luật có chứa khung hình phạt quy định mức cao nhất đến ba
năm tù. Nhưng không phải tất cả tội phạm ít nghiêm trọng trong BLHS đều
được áp dụng hình phạt tiền, mà tội ít nghiêm trọng đó phải xâm phạm những
khách thể sau đây:
Hai là (điều kiện đủ): Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công
cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do BLHS quy định.
Khách thể bị xâm phạm của hành vi phạm tội trước hết phải là xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính. Ở
03 (ba) nhóm khách thể này BLHS quy định có 63 điều luật cho phép áp dụng
hình phạt tiền (quản lý kinh tế 24 điều, trật tự công cộng 33 điều, quản lý
hành chính 07 điều), còn lại một số tội phạm khác do BLHS quy định đó là:
Khách thể về môi trường (11điều), quyền tự do dân chủ (01 điều), xâm phạm
sở hữu (01 điều), tội phạm về ma túy (01 điều). Tổng cộng có 78 điều luật
quy định hình phạt tiền nằm ở 07 nhóm khách thể có quy định áp dụng hình
phạt tiền.
So sánh giữa hình phạt tiền với hình phạt cảnh cáo thì chúng có điểm
giống nhau là đều được áp dụng đối với người bị kết án về tội ít nghiêm
trọng. Điểm khác nhau giữa chúng là hình phạt cảnh cáo phải thỏa mãn điều
kiện có nhiều tình tiết giảm nhẹ, còn hình phạt tiền không bắt buộc có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, mà khách thể bị xâm phạm là trật tự quản lý kinh tế, trật tự
công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do BLHS quy
định.
Hiện tại, trong BLHS có đến 140 điều luật có khung hình phạt quy định
là tội phạm ít nghiêm trọng nhưng chỉ có 78 điều luật có quy định áp dụng
17
hình phạt tiền, còn lại 62 điều luật không quy định, đây cũng là vấn đề mâu
thuẫn. Còn việc áp dụng Điều 47 BLHS (khi đủ điều kiện có 02 tình tiết giảm
nhẹ ở Khoản 1 Điều 46 BLHS) để chuyển sang áp dụng hình phạt tiền là câu
chuyện khác.
Tại Điều 35 BLHS 2015 quy định hình phạt tiền như sau:
“1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp
sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do
Bộ luật này quy định.
3. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội,
sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.
So sánh hình phạt tiền theo Điều 30 BLHS 1999 với Điều 35 BLHS
2015 cho thấy, Điều 30 chỉ áp dụng hình phạt tiền đối với loại tội phạm ít
nghiêm trọng, Điều 35 mở rộng áp dụng thêm đối với cả loại tội phạm
nghiệm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác.
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng, BLHS 2015 mở rộng ra nhiều khách thể bị
xâm phạm, chứ không giới hạn 03 nhóm khách thể chính (trật tự quản lý kinh
tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính) và một số tội phạm khác như
Điều 30 BLHS 1999 quy định. Ngoài ra, Điều 35 BLHS 2015 bỏ Khoản 4 của
Điều 30 BLHS 1999 (Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong
thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án). Các điều kiện còn lại của áp
18
dụng hình phạt tiền BLHS 2015 không thay đổi. Riêng bổ sung hình phạt tiền
đối với pháp nhân không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Trong BLHS 2015 có tổng số 200 điều luật có quy định tội phạm ít
nghiêm trọng, 289 điều luật có quy định tội phạm nghiêm trọng, 257 điều luật
có quy định tội phạm rất nghiêm trọng; trong đó có 190 điều luật quy định
hình phạt tiền. Như vậy, những mâu thuẫn trong BLHS 1999 về áp dụng hình
phạt tiền vẫn chưa được BLHS 2015 khắc phục, như thế thì việc mở rộng áp
dụng hình phạt tiền trong BLHS 2015 sẽ mang tính khả thi không cao.
1.2.1.3. Hình phạt “Cải tạo không giam giữ”
Điều 31 BLHS quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ, cụ thể
như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật
này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ
ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ
một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó
thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát,
giáo dục người đó.
3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về
cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để
sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc
khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án”.
19
Từ quy định trên, ta có thể xác định điều kiện áp dụng của hình phạt
Cải tạo không giam giữ bao gồm:
Một là: Phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng. Mặc dù Điều
luật quy định là “...phạm tội ít nghiêm trọng hoặcphạm tội nghiêm trọng...”
nhưng hiểu là được áp dụng cả tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng, đây là lỗi kỷ thuật trong công tác lập pháp nên BLHS 2015 đã khắc
phục vấn đề này thay chữ “hoặc” bằng dấu phẩy (,). Tội phạm ít nghiêm trọng
là tội có mức cao nhất của khung hình phạt không quá 03 năm tù tương tự như
ở hình phạt cảnh cáo và hình phạt tiền. Đối với tội phạm nghiêm trọng, là tội
phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
với tội ấy là đến 07 năm tù (Khoản 3 Điều 8 BLHS).
Hai là: Đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng.
Người bị kết án phải là người đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi
thường trú rõ ràng. Nhưng nơi làm việc ổn định thuộc cơ quan nhà nước hay
thành phần kinh tế khác luật không quy định và cũng không có văn bản hướng
dẫn. Thông thường, có nơi làm việc là cơ quan nhà nước thì mới áp dụng hình
phạt này. Nơi thường trú rõ ràng là địa chỉ cụ thể tại xã A, huyện B, tỉnh C
chẳng hạn; nhưng không chỉ là nơi thường trú mà cả nơi tạm trú và nơi đang
sinh sống (Điều 12 Luật Cư trú 2006 sửa đổi năm 2013).
Ba là: Xét thấy không cần thiết phải cách ly người bị kết án khỏi xã
hội. Đây là điều kiện không đưa ra tiêu chí cụ thể, có cần thiết cách ly người
bị kết án khỏi xã hội hay không là do Tòa án xem xét, quyết định.Tuy nhiên,
để đáp ứng yêu cầu về mục đích của hình phạt, Tòa án cũng căn cứ vào các
tiêu chí của áp dụng hình phạt và có cơ sở tin rằng không cách ly người bị kết
án khỏi xã hội cũng đủ cải tạo, giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã
hội.
20