Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tập bài giàng NHỮNG NGUYÊN lý cơ bản của CHỦ NGHĨA mác – LÊNIN 2 (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng hệ chính quy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.76 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-----------------------------------

TẬP BÀI GIẢNG
(LƯU HÀNH NỘI BỘ)

NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN 2
(DÀNH CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HỆ CHÍNH QUY)

Tác giả: Phan Thị Thu Hà
Khoa LLCT - ĐHQB

NĂM 2017


MỤC LỤC
CHƯƠNG 4: .................................................................................................................... 4
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ .................................................................................................. 4
4.1 Điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá ........................................ 4
4.2. Hàng hoá .................................................................................................................... 6
4.3. Tiền tệ .......................................................................................................................11
4.4. Quy luật giá trị...........................................................................................................16
CHƯƠNG 5. ....................................................................................................................18
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ ............................................................................18
5.1. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản ..........................................................................18
5.2 Quá trình sản xuất giá trị thặng dư ..............................................................................23
5.3. Sự chuyển hoá của giá trị thặng dư.............................................................................35
5.4. Các hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư ................................................................38
CHƯƠNG 6 .....................................................................................................................48


CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN VÀ CNTB ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC ..............48
6.1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền .......................................................................................48
6.2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước .......................................................................53
6.3. Đánh giá chung ..........................................................................................................55
CHƯƠNG 7 .....................................................................................................................57
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GCCN VÀ CM XHCN .........................................................57
7.1. Sứ mệnh lịch sử của GCCN .......................................................................................57
7.2. Cách mạng XHCN .....................................................................................................61
7.3. Hình thái kinh tế xã hội CSCN ...................................................................................64
CHƯƠNG 8 .....................................................................................................................68
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ XÃ HỘI MANG TÍNH QUY LUẬT .............................68
8.1. Xây dựng nền dân chủ XHCN ...................................................................................68
8.2. Xây dựng nền văn hoá XHCN ...................................................................................71
8.3. Giải quyết vấn đề dân tộc và tôn giáo .........................................................................74
CHƯƠNG 9 .....................................................................................................................77
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG ................................................77
9.1 Chủ nghĩa xã hội hiện thực .........................................................................................77
9.2. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình CNXH Xô Viết ............................................79
9.3. Triển vọng của CNXH....................................................................................................80

2


CHƯƠNG 4
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ ( 6LT-2TL)
4.1. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HOÁ
4.1.1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh
tế là sản xuất tự cấp tự túc (sản xuất tự nhiên) và sản xuất hàng hoá. Sản xuất tự nhiên

là kiểu tổ chức sản xuất sản xuất ra sản phẩm để thoả mãn trực tiếp nhu cầu của
người sản xuất. Sản xuất hàng hoá là cách thức tổ chức sản xuất ra sản phẩm để bán.
Sản xuất hàng hoá ra đời khi có đủ hai điều kiện:
* Có sự phân công lao động xã hội
- Khái niệm: Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia
lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
- Phân công lao động xã hội là cơ sở của sản xuất và trao đổi hàng hóa, vì phân
công lao động nên mỗi người sản xuất chỉ sản xuất một hoặc một vài loại sản phẩm
nhưng nhu cầu của họ cần nhiều loại sản phẩm. Do đó, để thỏa mãn nhu cầu họ phải
trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất
và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
- Phân công lao động xã hội thực hiện chuyên môn hóa làm tăng năng suất lao
động, nâng cao năng lực sản xuất xã hội, tạo ra được nhiều sản phẩm, tăng khả năng
trao đổi sản phẩm.
* Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất
Điều kiện này xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hoặc tồn tại nhiều
hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm. Điều kiện này làm cho
những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất độc lập, làm cho họ có quyền
chi phối sản phẩm của họ. Người nào muốn tiêu dùng sản phẩm lao động của người
khác cần phải dùng sản phẩm của mình để trao đổi.
Như vậy, khi xuất hiện hai điều kiện trên đã tạo ra mâu thuẫn giữa những người
sản xuất hàng hóa: Một mặt, phân công lao động xã hội làm cho người sản xuất phụ
thuộc vào nhau và lao động của họ mang tính chất xã hội, là một bộ phận của lao
động xã hội. Mặt khác, sự tách biệt về kinh tế làm cho những người sản xuất độc lập
với nhau, lao động của họ mang tính tư nhân. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải
quyết bằng việc trao đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hóa. Hai điều kiện này cũng
quy định mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa là mâu thuẫn giữa tính chất tư
nhân với tính chất xã hội của sản xuất hàng hóa.
Đây là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hóa, thiếu một trong hai điều kiện
đó thì sẽ không có sản xuất hàng hóa. Phân công lao động xã hội là cơ sở của sản

3


xuất hàng hóa và sự tách biệt tương đối giữa những người sản xuất làm cho việc trao
đổi sản phẩm dưới hình thái hàng hóa trở thành tất yếu.
4.1.2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
* Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
- Thứ nhất, sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán. Tức là
sản xuất ra sản phẩm không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà để người khác,
để xã hội tiêu dùng thông qua mua bán trao đổi.
- Thứ hai, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống
của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
- Thứ ba, mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận (lãi) chứ không
phải là giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng chỉ là phương tiện, là điều kiện để có nhiều giá
trị hơn.
* Ưu thế của sản xuất hàng hoá
- Một là, sản xuất hàng hóa do dựa trên sự phân công lao động, chuyên môn hóa
sản xuất nên khai thác hiệu quả những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương cũng như của đất nước… Ngược lại,
sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát triển của
phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa lao động ngày càng tăng, mối liên hệ
giữa các ngành, vùng ngày càng trở nên sâu sắc. Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự cấp
tự túc, trì trệ, lạc hậu, làm tăng nhu cầu trao đổi hàng hóa trong xã hội, làm cho năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm nhiều hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
- Hai là, trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không bị giới hạn bởi nhu
cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, mỗi vùng mà nó
được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều đó tạo điều kiện
và thúc đẩy việc nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu nghiên cứu khoa học vào sản
xuất, qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển.

- Ba là, dưới tác động của các quy luật trong nền sản xuất hàng hóa (quy luật giá
trị, cạnh tranh, cung - cầu…) buộc người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động,
linh hoạt, có chiến lược kế hoạch dài hạn, cải tiến kỹ thuật, tổ chức sản xuất hợp lý,
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của
người tiêu dùng. Đồng thời, tạo ra những nhà sản xuất, kinh doanh giỏi, những người
lao động lành nghề; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
- Bốn là, sản xuất hàng hóa là kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế, giao lưu văn
hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Tóm lại, trong điều kiện sản xuất hàng hóa, của cải vật chất dồi dào hơn, các quốc
gia mở rộng quan hệ kinh tế giúp mọi người thụ hưởng nhiều hơn, tốt hơn những
thành quả của lao động.
4


Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa còn có nhiều mặt trái, tiêu cực như: sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng, sự bần cùng hóa những người lao động, những nguy cơ
khủng hoảng tiềm tàng, sự phá hoại môi trường sinh thái và những vấn đề xã hội
khác…
4.2. HÀNG HÓA
4.2.1. Hàng hóa và hai thuộc tính của hàng hóa
* Khái niệm hàng hoá
- Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán.
- Hàng hóa có các đặc điểm:
+ Là sản phẩm của lao động
+ Thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
+ Được trao đổi, mua bán trên thị trường
Một vật phải hội tụ đủ ba đặc điểm trên mới là hàng hóa. Nếu thiếu bất kỳ đặc
điểm nào thì không phải hàng hóa.
- Những vật sau không phải là hàng hóa:

+ Những vật có sẵn trong tự nhiên.
+ Những phế phẩm, sản phẩm hỏng.
+ Những sản phẩm được sản xuất để người sản xuất ra nó tiêu dùng.
+ Những vật đang ở trong quá trình tiêu dùng (trừ hàng hóa dịch vụ).
- Hàng hóa được phân thành hai loại:
+ Hàng hoá hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm…
+ Hàng hoá ở dạng vô hình như: những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ
của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ…
* Hai thuộc tính của hàng hoá
- Giá trị sử dụng của hàng hóa
- Khái niệm: Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người.
- Giá trị sử dụng của hàng hóa có các đặc điểm:
+ Giá trị sử dụng là do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa quy định, nó không phụ
thuộc vào chế độ xã hội cho nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn và giá trị sử
dụng cấu thành nội dung vật chất của của cải. Giá trị sử dụng xác định mặt chất của
hàng hóa và nó là căn cứ để phân biệt hàng hóa này với hàng hóa khác.
+ Mỗi hàng hóa có nhiều công dụng, chúng được phát hiện dần dần trong quá trình
phát triển của khoa học và công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ được thể hiện đầy đủ thông qua quá trình sử
dụng, tiêu dùng hàng hóa. Vì thế, nếu hàng hóa chưa được sử dụng thì nó mới chỉ có

5


giá trị sử dụng khả năng, nó chỉ có giá trị sử dụng cụ thể khi ở trong quá trình tiêu
dùng của con người.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội vì nó không phải là giá trị
sử dụng cho người trực tiếp sản xuất ra nó mà cho người khác, cho xã hội thông qua
trao đổi, mua bán. Giá trị sử dụng của hàng hóa là vật mang giá trị trao đổi vì nó có

khả năng trao đổi với một hàng hóa khác theo 1 tỷ lệ nhất định. Ví dụ: 10Kg thóc = 1
con gà.
- Giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là một phạm trù trừu tượng, để hiểu được giá trị của hàng hóa thì
trước hết phải hiểu được giá trị trao đổi của hàng hóa.
- Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về số lượng trao đổi giữa những hàng hóa có giá
trị sử dụng khác nhau.
Ví dụ: 1m2 vải = 5 kg gạo
Tại sao vải lại có thể trao đổi được với gạo khi mà về mặt số lượng 1 khác 5, về
mặt đơn vị m2 khác kg, quan trọng hơn, về mặt chất, vải để may quần áo khác hoàn
toàn với gạo để ăn.
Nếu ta gạt bỏ tất cả các mặt cụ thể của vải và gạo, ta có thể thấy vải và gạo đều có
cơ sở chung là sản phẩm của lao động, đều là kết quả của lao động kết tinh trong đó.
1m2 vải đổi lấy 5kg gạo vì hao phí lao động để sản xuất ra 1m2 vải bằng hao phí lao
động để sản xuất ra 5kg gạo. Như vậy, thực chất của sự trao đổi bề ngoài là trao đổi
vật lấy vật nhưng bên trong là sự trao đổi lao động lấy lao động. Lao động kết tinh
trong hàng hóa là cơ sở cho trao đổi hàng hóa. Nó tạo nên giá trị của hàng hóa.
Vậy: Giá trị hàng hóa là hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa.
- Các đặc điểm của giá trị hàng hóa:
+ Giá trị hàng hóa là cái ẩn giấu bên trong làm cơ sở cho sự so sánh, trao đổi giữa
các hàng hóa với nhau. Sở dĩ hàng hóa có giá trị trao đổi là vì hàng hóa có giá trị.
Do vậy, giá trị hàng hóa là nội dung của giá trị trao đổi còn giá trị trao đổi là hình
thức biểu hiện duy nhất của giá trị.
+ Giá trị hàng hóa là một quan hệ xã hội, nó biểu thị mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa. Một hàng hóa này trao đổi với hàng hóa khác thì có nghĩa là
hao phí lao động của người sản xuất này đứng đối diện, quan hệ với hao phí lao động
của người sản xuất khác.
+ Giá trị hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ tồn tại trong sản xuất hàng hóa.
Trong kinh tế tự cấp tự túc thì phạm trù giá trị của hàng hóa chưa xuất hiện. Khi

không còn sản xuất hàng hóa cũng không còn phạm trù giá trị nữa.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hoá

6


Hai thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất vừa mâu
thuẫn.
* Mặt thống nhất thể hiện:
- Cả hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa, tức là một vật
phải có đủ hai thuộc tính mới trở thành hàng hóa; thiếu một trong hai thuộc tính thì
vật không phải là hàng hóa.
- Quá trình sản xuất hàng hóa là sự thống nhất của quá trình sản xuất giá trị sử
dụng với quá trình sản xuất ra giá trị hàng hóa.
* Mặt mâu thuẫn thể hiện:
- Một là, với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất và
không thể so sánh được. Tuy nhiên, với tư cách là giá trị thì các hàng hóa lại đồng
nhất về chất, đều là kết tinh của lao động xã hội, nên có thể so sánh được.
- Hai là, người sản xuất làm ra hàng hóa để bán cho nên mục đích của họ là giá trị
nhưng để có giá trị họ phải tạo ra giá trị sử dụng (giá trị sử dụng là phương tiện).
Ngược lại, mục đích của người mua là giá trị sử dụng nhưng để có giá trị sử dụng họ
phải thực hiện giá trị của hàng hóa (giá trị là phương tiện).
- Ba là, quá trình sản xuất giá trị sử dụng đồng thời là quá trình sản xuất giá trị, giá
trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong hàng hóa cấu thành nên hàng hoá nhưng quá
trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng là tách rời về không gian và thời gian. Quá
trình thực hiện giá trị diễn ra trước và trong lĩnh vực lưu thông còn quá trình thực
hiện giá trị sử dụng diễn ra sau và trong lĩnh vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của
hàng hóa không được thực hiện (hàng hóa không bán được) thì giá trị sử dụng của nó
cũng không được thực hiện; dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Mâu thuẫn giữa giá
trị và giá trị sử dụng cũng chính là biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng

hóa ở trên thị trường.
4.2.2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động của người
sản xuất hàng hóa có tính hai mặt, đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt đó.
* Lao động cụ thể
- Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao động cụ thể có mục đích riêng, công cụ
lao động, đối tượng lao động, phương pháp lao động, và kết quả lao động riêng.
Chính những cái riêng đó làm cho các lao động cụ thể khác nhau.
- Các đặc trưng:
+ Lao động cụ thể là cơ sở của phân công lao động xã hội. Tất cả các loại lao động
cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết.
+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định.
7


+ Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn nên giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
+ Hình thức của lao động cụ thể phát triển cùng chiều hướng với sự phát triển của
khoa học, công nghệ, sự phân công lao động xã hội và nhu cầu tiêu dùng.
* Lao động trừu tượng
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao
động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hoá nói chung.
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị hàng hóa và là một phạm trù lịch sử, riêng có
của sản xuất hàng hóa. Chỉ có sản xuất sản phẩm để bán thì lao động sản xuất đó mới
có tính chất là lao động trừu tượng.
Có thể định nghĩa giá trị hàng hóa một cách cụ thể hơn: Giá trị hàng hóa là lao
động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng

chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
+ Lao động trừu tượng là lao động đồng nhất và giống nhau về chất.
Không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hóa mà chỉ là lao động của
người sản xuất hàng hóa có tính chất hai mặt mà thôi.
- Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ánh tính chất tư nhân và
tính chất xã hội của lao động:
+ Việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai (lao động cụ thể) là
công việc riêng của cá nhân chủ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy, lao động đó mang
tính chất tư nhân, hay lao động cụ thể của người sản xuất là biểu hiện của lao động
tư nhân.
+ Lao động của người sản xuất hàng hóa là một bộ phận của toàn bộ lao động xã
hội trong hệ thống phân công xã hội. Những người sản xuất hàng hóa làm việc cho
nhau thông qua trao đổi hàng hóa. Việc trao đổi hàng hóa không thể căn cứ vào lao
động cụ thể mà phải quy lao động cụ thể về lao động chung đồng nhất - lao động trừu
tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
- Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau:
+ Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn
khớp với nhu cầu của xã hội (về số lượng, về chất lượng). Khi sản xuất vượt quá nhu
cầu của xã hội sẽ có một số hàng hóa không bán được, tức là không thể thực hiện
được giá trị.
+ Mức hao phí lao động cá biệt của người sản xuất có thể cao hơn hao phí lao động
xã hội, khi đó hàng hóa sẽ không bán được hoặc nếu bán được thì không thu hồi đủ
chi phí lao động bỏ ra.
Như vậy, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân của lao động sản
xuất hàng hóa là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa. Mâu
8


thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa lao động cụ thể và lao động trừu
tượng, giữa giá trị sử dụng và giá trị. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng

hóa vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
4.2.3. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng
hóa
* Thước đo lượng giá trị của hàng hoá
- Lượng giá trị hàng hóa là lượng hao phí lao động của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa (được đo bằng thời gian lao động để tạo ra hàng hóa)
- Lượng giá trị cá biệt: Là lượng hao phí lao động cá biệt của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Khi sản xuất cùng một loại hàng hóa, nhưng do điều kiện
sản xuất khác nhau (trình độ tay nghề, quy mô sản xuất, năng suất lao động...) nên
những người sản xuất sẽ có lượng giá trị cá biệt khác nhau. Nhưng trên thị trường,
hàng hóa giống nhau không trao đổi theo lượng giá trị cá biệt mà được trao đổi theo
lượng giá trị chung, tức là lượng giá trị xã hội.
- Lượng giá trị xã hội là lượng hao phí lao động xã hội của người sản xuất hàng
hóa kết tinh trong hàng hóa. Lượng giá trị xã hội của hàng hóa được đo bởi thời gian
lao động xã hội cần thiết.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình
độ kỹ thuật trung bình, một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao
động trung bình trong xã hội.
+ Thực chất, thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động xã hội trung
bình để sản xuất ra hàng hóa. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết gần
sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất nào cung cấp đại bộ phận hàng
hóa đó trên thị trường.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết là một lượng không cố định vì trình độ thành
thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện kỹ thuật trung bình của xã
hội ở mỗi nước khác nhau, trong các thời gian khác nhau là khác nhau, nó thay đổi
theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay
đổi thì lượng giá trị của hàng hóa cũng thay đổi.
* Tóm lại, chỉ có lượng hao phí lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa mới quyết định đại lượng giá trị của

hàng hóa ấy.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa
Tất cả những yếu tố nào ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh
hưởng đến số lượng giá trị của hàng hóa.

9


* Năng suất lao động: là năng lực sản xuất của lao động. Nó được đo bằng số
lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian hao phí
để sản xuất một đơn vị sản phẩm.
+ Năng suất lao động ảnh hưởng trực tiếp đến lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao
động xã hội càng cao thì thời gian lao động xã hội cần thiết càng ít, lượng lao động
kết tinh trong một đơn vị hàng hóa càng nhỏ do đó giá trị hàng hóa càng bé. Như vậy,
lượng giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
+ Năng suất lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ lành nghề của
người lao động, trình độ phát triển khoa học - công nghệ, phương pháp tổ chức, quản
lý lao động, quy mô và hiệu quả của tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên…
* Cường độ lao động: là đại lượng chỉ mức độ hao phí lao động trong một đơn vị
thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc căng thẳng của lao động. Việc
tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động.
+ Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra
tăng lên và hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng. Vì thế, hao phí lao động
cho một đơn vị hàng hóa là không đổi. Như vậy, cường độ lao động không ảnh hưởng
tới lượng giá trị một đơn vị hàng hóa, nhưng lượng giá trị hàng hóa được tạo ra trong
một đơn vị thời gian tỷ lệ thuận với cường độ lao động.
+ Cường độ lao động cũng phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu
suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là nó phụ thuộc vào thể chất, tinh thần của người
lao động.
* Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị của

hàng hóa.
- Lao động giản đơn là lao động cụ thể mà bất kỳ một người lao động bình thường
nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.
- Lao động phức tạp là lao động cụ thể đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành
lao động chuyên môn lành nghề mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động
giản đơn. Theo C.Mác thì lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên
lũy thừa, hay nói đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên. Trong quá trình trao
đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung
bình, và điều đó được thực hiện một cách tự phát trên thị trường.
4.3. TIỀN TỆ
4.3.1. Lịch sử phát triển của hình thái giá trị và bản chất của tiền tệ
* Sự phát triển các hình thái giá trị
Tiền tệ là hình thái biểu hiện giá trị hàng hóa chung nhất, khái quát nhất, cô đọng
nhất. Để hiểu được tiền tệ phải phân tích từ các hình thái biểu hiện giá trị. Giá trị
hàng hoá được biểu hiện qua 4 hình thái:
10


* Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên
- Cuối Công xã nguyên thủy, lực lượng sản xuất có sự phát triển nhất định làm
xuất hiện những sản phẩm thặng dư. Tuy nhiên, do trình độ của lực lượng sản xuất
còn thấp nên sản phẩm thặng dư chưa nhiều. Lúc này trao đổi hàng hóa chỉ mang tính
chất ngẫu nhiên và là trao đổi trực tiếp.
Ví dụ: 1m2 vải = 10kg thóc.
- Trong trao đổi trên, giá trị của hàng hoá Vải được biểu hiện ở giá trị sử dụng của
hàng hoá Thóc, còn hàng hoá Thóc dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của hàng hoá
Vải. Hàng hoá Vải ở vào hình thái giá trị tương đối, hàng hoá Thóc ở vào hình thái
ngang giá. Quan hệ trao đổi đó chỉ có tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp hàng lấy hàng,
tỷ lệ trao đổi 1:10 cũng là ngẫu nhiên.

- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là hình thái phôi thai của tiền tệ.
* Hình thái mở rộng của giá trị
Khi lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, năng suất lao động xã hội tăng
lên thì sản phẩm thặng dư cũng nhiều hơn, do đó, trao đổi hàng hóa cũng thường
xuyên hơn. Khi đó, một hàng hóa có thể được trao đổi với nhiều hàng hóa khác.
Ví dụ: 1m2 vải = 10kg thóc
= 1 cái bàn
= 3 con gà
=…
- Ở đây, giá trị của Vải được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa đóng
vai trò vật ngang giá, tức là có nhiều hình thái ngang giá hơn. Mỗi hình thái ngang
giá là một hình thái ngang giá đặc thù. Tỷ lệ trao đổi giữa các hàng hóa không còn
mang tính ngẫu nhiên nữa mà dần dần do lao động quy định.
- Hình thái mở rộng của giá trị có hạn chế:
+ Chưa có thước đo thống nhất cho giá trị của hàng hóa, vì có nhiều vật ngang giá
biểu hiện giá trị một hàng hóa.
+ Hình thức trao đổi vẫn là trực tiếp hàng lấy hàng, do đó khi nhu cầu trao đổi giữa
những người chủ hàng hóa không phù hợp sẽ làm cho trao đổi không thực hiện được.
Những nhược điểm của hình thái mở rộng của giá trị đòi hỏi sự xuất hiện của vật
ngang giá chung, khi đó xuất hiện hình thái thứ ba.
* Hình thái chung của giá trị
- Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa, sản phẩm thặng dư sẽ nhiều hơn nữa
làm cho trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, dần dần xuất hiện hàng hóa trung
gian trong trao đổi. Những hàng hóa trung gian phải mang tính thông dụng, có ý
nghĩa kinh tế đối với một bộ tộc, một địa phương, một vùng… Khi đã có hàng hóa
trung gian, người ta dễ dàng hơn trong việc trao đổi lấy hàng hóa mà họ cần. Hình
thái mở rộng của giá trị đã phát triển thành hình thái chung của giá trị.
11



Ví dụ:

10kg thóc
1cái bàn
= 1m2 vải
3 con gà

- Ở đây, giá trị của mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở một hàng hóa đóng vai trò
làm vật ngang giá chung, vật ngang giá phổ biến (1m2 Vải).
- Hình thái chung của giá trị đã khắc phục được nhược điểm của hình thái mở rộng
và hình thái ngẫu nhiên là: người ta có thể dễ dàng thực hiện trao đổi để lấy hàng hóa
mà họ cần.
-> Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định ở một thứ hàng hoá nào.
* Hình thái tiền tệ của giá trị
- Ở hình thái ngang giá chung của giá trị thì mỗi địa phương, vùng, lãnh thổ lại có
vật ngang giá riêng. Vật ngang giá vẫn chưa cố định ở một hàng hóa nào cả. Khi trao
đổi hàng hóa vượt ra khỏi địa phương, vùng, lãnh thổ thì hình thái ngang giá chung
gây khó khăn cho trao đổi. Vì thế, xuất hiện nhu cầu về một vật ngang giá chung
thống nhất, trong quá trình đó, Vàng và Bạc được lấy làm vật ngang giá chung, hình
thái tiền tệ ra đời.
Ví dụ:
1m2 vải
= 0.03 gam vàng
1 cái bàn
10kg thóc
3 con gà

Dễ dàng nhận thấy trong ví dụ này, cả vải, bàn, thóc, gà... đều biểu hiện giá trị ở
một vật thống nhất, đó là Vàng.
- Khi bạc và vàng cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ song

bản vị. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vị trí tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ
bản vị vàng.
- Sở dĩ vàng và bạc được lấy làm vật ngang giá chung (tiền tệ) vì trước hết vàng và
bạc là hàng hóa, có giá trị nên có thể dùng để đo giá trị hàng hóa khác, mặt khác,
vàng và bạc hội đủ các thuộc tính rất thuận tiện cho lưu thông hàng hóa mà các hàng
hóa khác không có, đó là: với lượng nhỏ nhưng có giá trị lớn, dễ bảo quản, dễ chia
nhỏ nhưng chia nhỏ tổng giá trị không đổi.
* Bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, đóng
vai trò vật ngang giá chung dùng để biểu hiện giá trị cho tất cả các hàng hoá.
- Thứ nhất, khi tiền tệ xuất hiện thế giới hàng hóa chia thành hai cực. Một cực là
tất cả các hàng hóa thông thường chúng chỉ biểu hiện giá trị sử dụng, còn cực kia là

12


tiền tệ biểu hiện giá trị của mọi hàng hóa. Vì vậy, tiền tệ biểu hiện quan hệ xã hội của
những người sản xuất hàng hóa, biểu hiện hao phí lao động xã hội.
- Thứ hai, là hàng hoá, nên tiền tệ cũng có giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị của tiền
tệ cũng được đo bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bao gồm
hao phí lao động để tìm kiếm, khai thác, chế biến, vận chuyển vàng bạc. Giá trị sử
dụng của tiền tệ, có giá trị sử dụng thông thường là làm đồ trang sức, làm các đồ
dùng bằng vàng và bạc, làm nguyên liệu trong công nghiệp… và giá trị sử dụng đặc
biệt là làm vật ngang giá chung, biểu hiện giá trị của mọi hàng hóa.
4.3.2. Chức năng của tiền tệ
* Thước đo giá trị
- Khi tiền được dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa, tiền làm chức
năng thước đo giá trị. Tiền tệ có thể đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hóa vì bản
thân tiền tệ là hàng hóa có giá trị.
- Khi thực hiện chức năng thước đo giá trị, tiền tệ không cần phải là tiền thật, mà

chỉ là tiền trong ý niệm, trong tưởng tượng.
- Giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa, hay giá cả hàng
hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả do các nhân tố: giá
trị hàng hóa, giá trị tiền tệ, quan hệ cung cầu… quyết định. Giá cả hàng hóa tỷ lệ
thuận với giá trị của chúng và tỷ lệ nghịch với giá trị tiền tệ. Quan hệ cung cầu làm
giá cả lên xuống xung quanh giá trị. Cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị; cung
nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị, tuy nhiên xét trên toàn bộ xã hội, tổng số giá cả
vẫn luôn bằng tổng số giá trị.
* Phương tiện lưu thông
- Khi tiền tệ là môi giới trong lưu thông hàng hóa, tiền thực hiện chức năng
phương tiện lưu thông. Khi đó lưu thông hàng hóa lấy tiền làm trung gian và được
thực hiện bằng công thức: H - T - H. Như vậy, khi tiền làm chức năng phương tiện
lưu thông đã làm cho lưu thông hàng hóa thận lợi hơn, nhưng đồng thời nó cũng làm
cho việc mua bán tách rời nhau cả về không gian và thời gian. (H - T và T - H), do đó
nó làm tăng lên khả năng khủng hoảng kinh tế.
- Làm chức năng phương tiện lưu thông thì tiền phải là tiền mặt.
+ Thực hiện chức năng này, lúc đầu người ta dùng vàng thoi, bạc nén. Tuy nhiên,
điều đó lại tạo nên một số khó khăn: phải chia nhỏ chúng thành nhiều mảnh nhỏ, phải
xác định số lượng, độ nguyên chất… Do đó, vàng thoi, bạc nén dần dần được thay thế
bằng tiền đúc.
+ Tiền đúc là khối kim loại đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định, nó
được dùng làm phương tiện lưu thông. Trong quá trình lưu thông, tiền đúc bị hao
mòn dần và mất đi một phần giá trị của nó. Nhưng trong trao đổi, người ta vẫn chấp
nhận làm phương tiện lưu thông với đầy đủ giá trị. Như vậy, giá trị thực của tiền đã
13


tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Tiền chỉ còn là ký hiệu của giá trị. Để tiết kiệm
trong lưu thông dần dần người ta ghi ký hiệu này lên trên kim loại khác và lên trên
giấy, tiền giấy xuất hiện.

+ Tiền giấy là dấu hiệu của tiền tệ buộc phải thừa nhận. Nhà nước phát hành và
quản lý lưu thông tiền giấy. Bản thân tiền giấy không có giá trị mà chỉ là ký hiệu của
giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.
* Phương tiện thanh toán
- Kinh tế hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định thì tất yếu sẽ nảy sinh việc
mua bán chịu, do đó tiền có chức năng phương tiện thanh toán. Với chức năng này
tiền dùng để chi trả sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành. Ví dụ: trả
tiền mua hàng chịu, trả nợ, nộp thuế…
- Trong hình thức mua bán chịu, trước tiên, tiền làm chức năng thước đo giá trị.
Nhưng vì mua bán chịu nên chỉ đến kỳ hạn phải trả thì tiền mới thực hiện chức năng
phương tiện thanh toán.
- Mặt khác, trong việc mua bán chịu, người mua là con nợ, người bán là chủ nợ.
Khi hệ thống con nợ và chủ nợ phát triển rộng rãi, chỉ cần một khâu nào đó không
được thanh toán sẽ ảnh hưởng đến hàng loạt các khâu khác và làm sụp đổ hệ thống,
tạo ra sự khủng hoảng kinh tế trên diện rộng.
- Quá trình thực hiện chức năng phương tiện thanh toán sẽ làm xuất hiện một loại
tiền mới - tiền tín dụng dưới các hình thức: kỳ phiếu thương nghiệp, giấy bạc ngân
hàng, tiền ghi sổ, tài khoản có thể phát hành séc, tiền điện tử, thẻ thanh toán… Tiền
tín dụng càng phát triển thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền càng mở rộng
và hình thức của tiền càng được phát triển hơn.
* Phương tiện cất trữ
- Tiền là hiện thân của giá trị, đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể thực hiện
được chức năng phương tiện cất trữ. Làm chức năng này, tiền rút khỏi lưu thông và
được cất trữ lại để khi cần có thể đem ra mua hàng.
- Các hình thức cất trữ: cất giấu, gửi ngân hàng.
- Chỉ có tiền đủ giá trị như tiền vàng, bạc và các của cải bằng vàng, bạc mới thực
hiện chức năng phương tiện cất trữ.
- Chức năng cất trữ của tiền còn là cơ chế điều tiết tự phát số lượng tiền cần thiết
cho lưu thông. Làm cho tiền trong lưu thông thích ứng một cách tự phát với số tiền
cần thiết cho lưu thông hàng hóa. Cất trữ tiền không chỉ là cất trữ của cải mà còn là

dự trữ cho lưu thông tiền tệ.
* Tiền tệ thế giới
- Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan hệ
buôn bán giữa các nước, thì tiền tệ làm chức năng tiền tệ thế giới.

14


- Thực hiện chức năng này, tiền thực hiện đồng thời cả bốn chức năng trên phương
diện quốc tế.
- Làm chức năng tiền tệ thế giới, tiền tệ phải có giá trị thật sự, phải là tiền vàng
hoặc tiền tín dụng được công nhận trên phạm vi quốc tế. Trên thực tế, chỉ có đồng
tiền của những nước có nền kinh tế mạnh mới đảm nhiệm được chức năng tiền tệ thế
giới.
- Khi có quan hệ quốc tế thì sẽ nảy sinh quan hệ trao đổi giữa đồng tiền các nước
với nhau. Tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền các nước được gọi là tỷ giá hối đoái, tức là giá
cả đồng tiền của quốc gia này được tính bằng đồng tiền của quốc gia khác. Việc đổi
được tiến hành theo tỷ lệ nhất định, phụ thuộc vào sức mua của các đồng tiền.
- Việc chỉ có một hoặc một số ít đồng tiền làm chức năng tiền tệ thế giới sẽ là điều
kiện để các quốc gia có đồng tiền đó thi hành các chính sách nhằm thu lợi cho nước
mình và có thể gây thiệt hại đến nước khác. Do vậy, rất cần thiết phải ra đời một
đồng tiền chung nhằm khắc phục tình trạng đó.
4.4. QUY LUẬT GIÁ TRỊ
4.4.1. Nội dung của quy luật giá trị
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở
đâu có sản xuất trao đổi hàng hóa ở đó có quy luật giá trị hoạt động. Quy luật giá trị
yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của hàng hóa, tức là
trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Yêu cầu đối với sản xuất:
-> Khối lượng sản phẩm mà những người sản xuất tạo ra phải phù hợp với nhu cầu

có khả năng thanh toán của xã hội.
-> Hao phí lao động cá biệt phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết.
+ Yêu cầu đối với lưu thông: phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai hàng
hóa trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao động như nhau; hoặc trao đổi,
mua bán hàng hóa phải thực hiện theo nguyên tắc giá cả phù hợp với giá trị.
- Giá cả hàng hóa trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của hàng hóa và trở
thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Với mỗi hàng hóa riêng biệt, giá cả của nó
có thể cao, thấp hơn giá trị hàng hóa nhưng xét trên phạm vi xã hội, tổng giá cả luôn
thống nhất với tổng giá trị hàng hóa.
4.4.2. Tác động của quy luật giá trị
* Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa
- Điều tiết sản xuất:
+ Nếu mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao thì
những người sản xuất hàng hóa đó sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu
sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác (thu được
lãi ít hơn hoặc không có lãi) sẽ chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa này để thu lãi
15


cao. Do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản xuất
càng được mở rộng.
+ Ngược lại, nếu mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, người sản xuất sẽ bị lỗ
vốn. Tình hình đó buộc người ta phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển sang sản
xuất mặt hàng khác có lãi hơn, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này
giảm đi.
+ Trong trường hợp mặt hàng nào đó có giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có
thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức
lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Điều tiết lưu thông hàng hóa, thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có

giá cả cao, nhờ đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất
định.
* Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
- Trong sản xuất hàng hóa, trao đổi hàng hóa theo giá trị xã hội. Vì thế, người nào
sản xuất hàng hóa có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội thì sẽ thu lãi, những người
sản xuất hàng hóa có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì sẽ phải chịu lỗ. Do vậy,
muốn tồn tại thì người sản xuất hàng hóa phải không ngừng tìm mọi cách để cải tiến
kỹ thuật, nâng cao trình độ chuyên môn, ứng dụng những thành tựu khoa học công
nghệ mới vào sản xuất, cải tiến phương thức tổ chức và quản lý sản xuất… nhằm hạ
thấp giá trị cá biệt.
- Xu hướng này diễn ra liên tục vì tất cả mọi người đều cố gắng hạ giá trị cá biệt
xuống thì kéo theo giá trị xã hội cũng giảm theo và người sản xuất lại phải hạ giá trị
cá biệt xuống tiếp nữa, cứ như thế kỹ thuật được cải tiến không ngừng, năng suất lao
động tăng lên, giá thành sản phẩm hạ xuống… Thông qua sự nỗ lực tối ưu hóa sản
xuất như vậy mà lực lượng sản xuất xã hội không ngừng phát triển.
* Ba là, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hóa
thành kẻ giàu người nghèo
- Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động
xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lãi, sẽ giàu lên qua đó tạo điều kiện để tiếp tục
mở rộng quy mô sản xuất.
- Ngược lại những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt
cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ chịu thiệt, bị thu hẹp sản xuất
dần dần và kết quả là bị nghèo đi.
-> Như vậy, quy luật giá trị hoạt động đã phân chia xã hội thành hai cực, một cực
gồm những người giàu có, một cực gồm những người nghèo khổ. Đây cũng là một
16



trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất TBCN, cơ sở ra đời của
CNTB.
- Có thể nói, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do
vậy, song song với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển thì Nhà nước cần có
những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của quy luật này.
CHƯƠNG 5
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
5.1. SỰ CHUYỂN HOÁ CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN
5.1.1. Công thức chung của tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện thành một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền
không phải là tư bản. Khi tiền xuất hiện, lưu thông hàng hóa được thực hiện theo
công thức: H - T - H, còn lưu thông tư bản thực hiện theo công thức: T - H - T.
So sánh hai công thức:
Công
thức
H - T - H (1)
T - H - T (2)
Chỉ tiêu
Giống nhau:
+ Yếu tố vật chất
: Tiền và hàng
+ Hành vi lưu thông : Mua và bán
+ Lực lượng tham gia : Người mua và người bán
- Khác nhau:
H - T – H (1)
T - H - T (2)
+ Về trình tự
vận động
Bán rồi mua
Mua rồi bán

+ Điểm xuất - Điểm xuất phát và điểm
phát và điểm kết kết thúc đều là hàng hóa (H)
thúc
nhưng chúng khác nhau về
chất (tức là khác nhau về giá
trị sử dụng).
+ Trung gian - T đóng vai trò trung gian,
của vận động
là môi giới để trao đổi hàng
hóa.
+ Vận động - T được chuyển thành
của T
hàng hóa rồi mất hút đi trong
lưu thông.
+ Về mục - Mục đích của lưu thông
đích của quá là giá trị sử dụng, đổi một
trình
hàng hóa này lấy một hàng
17

- Điểm xuất phát và điểm
kết thúc đều là tiền, do vậy
chúng không khác nhau về
chất.
- H đóng vai trò trung gian,
là môi giới để tiền tệ được lưu
thông.
- T chỉ được ứng trước ra để
rồi sau đó thu về.
- Mục đích cuối cùng không

phải là giá trị sử dụng mà là
giá trị, nhưng không phải giá


hóa khác hay một giá trị sử trị như cũ mà là giá trị tăng
dụng khác để đáp ứng nhu thêm. Vì thế công thức vận
cầu nào đó.
động đầy đủ của tư bản là T H - T’ (T' = T + ∆T)
+ Giới hạn - Lưu thông chấm dứt ở - Mục đích của lưu thông là
vận động
cuối giai đoạn mua (T - H) một giá trị được tăng thêm
khi người ta đã có được hàng (∆T) so với tiền ban đầu. Do
hóa có giá trị sử dụng đáp đó, lưu thông của tư bản là sự
ứng nhu cầu của mình. Do lớn lên không ngừng của giá
vậy, sự vận động của H - T - trị: T - H - T’ - H - T’’ - H H là có giới hạn.
T’’’…
T - H - T thực chất là T - H - T’, trong đó T’ = T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn được
gọi là giá trị thặng dư, ký hiệu là m. Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu giá
trị thặng dư thì trở thành tư bản. Có thể nói, tiền chỉ trở thành tư bản khi nó được
dùng để mang lại giá trị thặng dư.
T - H - T’ được gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản đều bắt đầu bằng
một lượng tiền nhất định và đều lưu thông nhằm mục đích tăng giá trị. Dù là tư bản
công nghiệp, tư bản thương nghiệp hay tư bản cho vay đều vận động theo công thức
đó.
5.1.2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
* Nguồn gốc của giá trị thặng dư trong công thức T - H - T’ (T’ = T+∆T)
Công thức chung của tư bản cho ta thấy giá trị thặng dư được sinh ra từ lưu
thông, nhưng thực chất lưu thông thuần túy có sinh ra giá trị thặng dư không? Ta
xét các trường hợp sau:
- Trường hợp trao đổi ngang giá: thì ở đây chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị,

từ tiền chuyển thành hàng hóa và từ hàng hóa chuyển thành tiền, còn tổng giá trị cũng
như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên khi tham gia trao đổi trước sau vẫn không đổi.
Vậy, trao đổi ngang giá không thể tạo thêm giá trị mới.
- Trường hợp trao đổi không ngang giá:
+ Nếu chỉ bán đắt: trong nền sản xuất hàng hóa, do phân công lao động xã hội nên
mỗi người sản xuất đều vừa là người mua, vừa là người bán. Nếu họ thu lợi nhờ hoạt
động bán thì sẽ bị thiệt ở hành động mua.
+ Nếu chỉ mua rẻ: nếu có thu lợi nhờ hoạt động mua thì sẽ bị thiệt ở hành động
bán.
+ Một số người chuyên mua rẻ, bán đắt, tức là lúc nào cũng được lợi, thì tổng giá
trị toàn xã hội không tăng lên bởi vì số giá trị mà người này thu được là số giá trị mà
người khác bị mất. Vậy trao đổi không ngang giá cũng không mang lại giá trị thặng
dư.
18


Tóm lại, trong cả hai trường hợp trao đổi không ngang giá và ngang giá thì đều
không có giá trị mới được sinh ra. Vậy lưu thông không tạo ra giá trị thặng dư.
Do đó, câu hỏi được đặt ra tiếp: giá trị thặng dư có thể đã được tạo ra ở ngoài lưu
thông? Tuy nhiên, ở ngoài lưu thông thì cả tiền và hàng hóa đều không vận động:
tiền được tích trữ, hàng hóa được bảo quản trong kho. Như vậy thì giá trị mới không
thể sinh ra được. Tóm lại, giá trị thặng dư không thể nảy sinh ở bên ngoài lưu thông.
Như vậy, công thức chung của tư bản ẩn chứa một mâu thuẫn: Giá trị thặng dư
vừa sinh ra trong lưu thông lại vừa không thể sinh ra trong lưu thông.
C.Mác đã chỉ ra mâu thuẫn đó trong bộ “Tư bản”, ông khẳng định tư bản không thể
xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải
xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông. Ông là người đầu
tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn này bằng lý luận về hàng hóa sức lao động.
5.1.3. Hàng hóa sức lao động và tiền công trong chủ nghĩa tư bản
* Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa

- Sức lao động: là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con
người. Sức lao động là cái có trước, là tiềm năng sẵn có trong con người, còn lao
động chính là quá trình sử dụng sức lao động trong lĩnh vực sản xuất.
- Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
+ Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, có thể chi phối sức lao động
hay năng lực lao động của mình (tức là có quyền bán sức lao động của mình như một
hàng hóa).
+ Hai là, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện
lao động và cũng không còn của cải gì khác, muốn sống chỉ còn cách bán sức lao
động.
Như vậy, để sức lao động trở thành hàng hóa thì người có tiền phải tìm được người
lao động tự do trên thị trường, tự do theo hai nghĩa: theo nghĩa là một con người tự
do chi phối sức lao động của mình với tư cách là một hàng hóa; và mặt khác anh ta
không còn có một hàng hóa nào khác để bán, nói một cách khác là trần như nhộng,
hoàn toàn không có những vật cần thiết để thực hiện sức lao động của mình.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện trên biến sức lao động thành hàng hóa. Đến lượt
mình, sức lao động lại biến tiền thành tư bản.
* Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Là một hàng hóa nên sức lao động cũng có 2 thuộc tính:
* Giá trị của hàng hóa sức lao động
- Khái niệm: Giá trị hàng hóa sức lao động là lao động xã hội cần thiết để sản xuất
và tái sản xuất ra sức lao động được kết tinh trong người lao động.
- Kết cấu của giá trị hàng hóa sức lao động:

19


+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất
sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân và gia đình.
+ Chi phí đào tạo người công nhân.

+ Yếu tố lịch sử tinh thần: Điều này có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật chất,
người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa... Những nhu cầu đó
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, trong mỗi thời kỳ, phụ thuộc vào điều
kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân, phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu
của từng nước và mức độ thỏa mãn những nhu cầu đó phần lớn phụ thuộc vào trình
độ văn minh đã đạt được của mỗi nước.
* Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
- Khái niệm: Giá trị sử dụng của sức lao động là công dụng của sức lao động, là
tính hữu ích thể hiện ở chỗ có thể thỏa mãn nhu cầu của người mua là sử dụng vào
quá trình lao động.
- Đặc điểm của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động:
Khi sử dụng, giá trị sử dụng của sức lao động không hao mòn và mất đi như giá trị
sử dụng của hàng hóa thông thường. Sức lao động còn tạo ra lượng giá trị mới vượt
cả giá trị của chính nó. Phần giá trị dôi ra đó gọi là giá trị thặng dư. Đặc điểm này là
chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản: Nguồn gốc tạo
ra giá trị thặng dư nằm trong việc tiêu dùng hay sử dụng sức lao động. Cụ thể là, giá
trị thặng dư vẫn được tạo ra trong sản xuất nhưng nó không thể tách rời lưu thông,
nhờ có lưu thông mà giá trị của nó mới được thực hiện.
* Tiền công trong Chủ nghĩa tư bản
- Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của
hàng hóa sức lao động, nhưng biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động.
- Lao động không phải là hàng hóa. Tuy nhiên, trong CNTB, người ta thường lầm
tưởng rằng, tiền công là giá cả của lao động và việc mua bán hoàn toàn tự nguyện,
nhà tư bản không bóc lột công nhân. Sở dĩ như vậy là do:
+ Người công nhân bán quyền sử dụng sức lao động chứ không bán quyền sở hữu
sức lao động.
+ Nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi người công nhân đã lao động.
+ Tiền công quy định theo thời gian làm việc (giờ, ngày, tuần, tháng) hoặc theo số
lượng sản phẩm đã chế tạo ra, có lao động mới có tiền công.
+ Đối với người công nhân thì lao động là phương tiện kiếm sống của họ.

- Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động, mà là sức lao
động. Tiền công không phải là giá cả của lao động, mà là giá cả của hàng hóa sức lao
động. Vì, nếu tiền công là giá cả của lao động tức là lao động là hàng hóa sẽ dẫn đến
những mâu thuẫn sau:

20


+ Về lý luận, nếu lao động là hàng hóa tức là hao phí sức lao động của người lao
động là hàng hóa mà kết quả sự hao phí đó là những hàng hóa dịch vụ vì thế nếu nhà
tư bản mua bán ngang giá (theo quy luật giá trị) sẽ không có lãi, còn nếu trao đổi
không ngang giá để có lãi thì vi phạm quy luật giá trị. Mặt khác, nếu lao động là hàng
hóa thì lao động phải có giá trị tức là có lao động kết tinh trong nó (vì lao động là
thực thể của giá trị), đây là sự luẩn quẩn.
+ Về thực tế, nếu công nhân bán lao động thì lao động phải thuộc về công nhân,
nhưng quá trình lao động của công nhân tức quá trình sản xuất TBCN lại thuộc về
nhà tư bản, vậy công nhân không thể bán cái công nhân không có.
* Hai hình thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Dựa vào cách thức tính tiền công, người ta chia tiền công thành hai loại cơ bản:
* Tiền công tính theo thời gian: là hình thức tiền công mà số lượng của nó phụ
thuộc vào độ dài thời gian lao động của công nhân.
- Cơ sở trả công là độ dài của thời gian lao động (giờ, ngày, tuần, tháng) + trình độ
tay nghề + cường độ lao động + tính chất công việc.
- Phạm vi áp dụng:
+ Tiền công tính theo thời gian thường được áp dụng trong các công việc không
định lượng được một cách cụ thể.
+ Trả tiền công theo chế độ này, nhà tư bản có thể dùng biện pháp tăng cường độ
lao động và tăng năng suất lao động để bóc lột công nhân nhiều hơn.
* Tiền công tính theo sản phẩm: Là hình thức tiền công tính theo số lượng sản
phẩm đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất

định.
- Đo lường: Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định, gọi là đơn
giá tiền công. Để quy định đơn giá tiền công, người ta lấy tiền công trung bình một
ngày của một công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một công nhân sản xuất ra
trong một ngày lao động bình thường.
- Tác dụng:
+ Đối với nhà tư bản: Tiền công tính theo sản phẩm một mặt giúp cho nhà tư bản
trong việc quản lý, giám sát quá trình làm việc của công nhân dễ dàng hơn.
+ Đối với người lao động: Kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo
ra nhiều sản phẩm để thu được lượng tiền công cao hơn.
+ Đối với xã hội: Công bằng hơn, ai có khả năng, lao động tích cực thì thu nhập sẽ
cao hơn.
* Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
* Tiền công danh nghĩa
- Khái niệm: Là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của
mình cho nhà tư bản.
21


- Thực chất: tiền công danh nghĩa là giá cả thị trường của hàng hóa sức lao động.
- Yếu tố ảnh hưởng: Tiền công danh nghĩa nhiều hay ít phụ thuộc vào giá trị sức
lao động cao hay thấp, vào quan hệ cung cầu về sức lao động trên thị trường, vào các
nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội khác.
* Tiền công thực tế
- Khái niệm: Là số lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công
nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
- Các yếu tố ảnh hưởng: Tiền công thực tế có quan hệ thuận chiều với tiền công
danh nghĩa, nhưng tiền công thực tế không tăng kịp tiền công danh nghĩa. Tiền công
thực tế quan hệ ngược chiều với giá cả hàng hóa dịch vụ
5.2. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

5.2.1. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình
sản xuất ra giá trị thặng dư
* Đặc điểm của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
- Mục đích của sản xuất TBCN không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị thặng
dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá
trị sử dụng nào đó. Vì thế, quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình
sản xuất giá trị sử dụng với quá trình sản xuất giá trị và giá trị thặng dư. Để sản xuất
giá trị thặng dư, nhà tư bản phải mua được các yếu tố của quá trình sản xuất giá trị sử
dụng là tư liệu sản xuất và sức lao động.
- Trong quá trình sản xuất, nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất nên quyết
định quá trình sản xuất (điều hành sản xuất) và quyết định sản phẩm. Công nhân là
người bị điều hành (làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản).
- Trong quá trình lao động, công nhân bằng lao động cụ thể làm sống lại và chuyển
giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, bằng lao động trừu tượng tạo ra lượng giá
trị mới lớn hơn lượng gía trị bản thân.
* Ví dụ
* Để sản xuất sợi, chủ tư bản cần phải mua tư liệu sản xuất và thuê lao động.
Giả định:
- Nhà tư bản ứng ra một số tiền, mua:
+ 10kg bông = 10$;
+ Hao mòn máy móc để chuyển 10kg bông sang dạng sợi = 2$;
+ Thuê lao động trong một ngày lao động = 3$.
- Giả sử kéo 10kg bông thành sợi mất 6 giờ và mỗi giờ công nhân tạo ra được một
giá trị 0,5$ (0,5$ x 6 = 3$).
- Vậy giá trị của 10 kg sợi là:
Giá trị của 10 kg bông chuyển vào : 10$
Giá trị của máy móc chuyển vào :
2$
22



Giá trị mới do công nhân tạo ra :
3$
Tổng cộng :
15$
Nếu quá trình lao động chỉ dừng lại ở đó (công nhân làm việc 6 giờ) thì không
có giá trị thặng dư. Nhưng trên thực tế quá trình lao động luôn kéo dài hơn 6 giờ vì
tiền lương nhà tư bản thuê công nhân là một ngày chứ không phải là 6 giờ. Nếu ngày
lao động là 12 giờ, thì tương tự như 6 giờ lao động đầu tiên, trong 6 giờ lao động tiếp
theo, người lao động cũng tạo ra 10kg sợi với tổng giá trị là 15$, với kết cấu giá trị
cũng như vậy. Tổng hợp cả một ngày lao động, người công nhân sản xuất 20kg sợi có
kết cấu giá trị như sau:
GT của 20 kg bông
= 20$
GT của máy móc (hao mòn)
= 4$
GT mới do công nhân tạo ra
= 6$ (3$ giá trị SLĐ và 3$ GTTD)
Tổng cộng
= 30$
Như vậy, sau một ngày lao động của công nhân nhà tư bản có được 20kg sợi có
tổng giá trị là 30$, nhưng nhà tư bản chỉ phải chi phí 27$ (20$ + 4$ + 3$). Nếu nhà tư
bản bán đúng giá trị là 30$ nhà tư bản có lãi là 3$ (30$ - 27$); 3$ chính là giá trị
thặng dư.
* Một số kết luận
* Giá trị thặng dư: là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do người công
nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
* Ngày lao động của công nhân chia thành hai phần:
- Thời gian lao động cần thiết (t): phần thời gian lao động mà người công nhân tạo
ra một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động.

- Thời gian lao động thặng dư (t’): phần còn lại của ngày lao động vượt khỏi thời
gian lao động cần thiết, người công nhân tạo ra giá trị thặng dư.
Sự phân chia này mang tính chất trừu tượng, ngay từ giây đầu tiên sản xuất thì nó
đã được phân chia thành hai phần, ngay từ giây đầu tiên nhà tư bản đã chiếm được
lao động không công của công nhân.
* Như vậy, quá trình sản xuất giá trị thặng dư đã giải quyết được mâu thuẫn của
công thức chung của tư bản và chứng minh được sự chuyển hóa của tiền thành tư
bản.
5.2.2. Khái niệm tư bản, tư bản bất biến và tư bản khả biến
* Bản chất của tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê.
Bản chất của tư bản là một quan hệ xã hội, quan hệ giữa nhà tư bản và người công
nhân, trong đó nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến
* Tư bản bất biến
23


- Khái niệm: Là bộ phận tư bản dùng để mua tư liệu sản xuất. Trong quá trình sản
xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà giá trị của nó được bảo tồn và chuyển vào
sản phẩm, nghĩa là giá trị của nó không biến đổi về lượng. Ký hiệu là: C.
- Cấu trúc:
Về mặt hiện vật, tư bản bất biến gồm:
+ Máy móc, thiết bị, nhà xưởng... (C1)
+ Nguyên, nhiên vật liệu… (C2)
- Đặc điểm: Giá trị của chúng được lao động cụ thể của người công nhân bảo tồn
và chuyển dịch nguyên vẹn vào giá trị sản phẩm. Trong đó, C1 chuyển giá trị nhiều
lần, C2 chuyển giá trị một lần. Giá trị sử dụng của tư liệu sản xuất được bảo tồn dưới
dưới hình thức giá trị sử dụng mới của sản phẩm.
* Tư bản khả biến

- Khái niệm: Là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Trong quá trình sản
xuất, bộ phận này không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công
nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng. Ký hiệu: V
- Tư bản khả biến là phần tư bản dùng để thuê người lao động làm việc trong
khoảng thời gian nhất định. Tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức tiền lương.
- Đặc điểm: Sử dụng tư bản khả biến sẽ tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của
chính tư bản khả biến bỏ ra ban đầu. Lượng giá trị đó được chia thành hai bộ phận:
+ Một bộ phận chuyển thành tư liệu sinh hoạt của người công nhân, bù lại giá trị
sức lao động của người công nhân và mất đi trong quá trình tiêu dùng của họ.
+ Bộ phận còn lại chính là giá trị thặng dư thuộc về nhà tư bản.
- Nhà tư bản không sở hữu được sức lao động đã mua bằng tư bản khả biến, mà chỉ
sử dụng sức lao động đó trong thời gian nhất định trong ngày.
* Ý nghĩa: Sự phân chia tư bản thành tư bản khả biến và tư bản bất biến có ý nghĩa
quan trọng. Vì: vạch rõ nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là do lao động không
công của người công nhân tạo ra.
Tư bản bất biến tuy không trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư nhưng nó có vai trò quan
trọng trong quá trình sản xuất, quyết định năng suất lao động của công nhân. Tư bản
bất biến là phương tiện tạo ra giá trị thặng dư.
* Kết cấu lượng giá trị hàng hóa = Giá trị cũ + Giá trị mới = c + v+ m
5.2.3. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Tư bản cố định và tư bản lưu
động
*) Tuần hoàn của tư bản: Qua quá trình sản xuất TBCN, ta thấy sự vận động của tư
bản công nghiệp được thực hiện theo công thức:
SLĐ

24

… SX … H’ - T’



T H

TLSX

Trong quá trình vận động tư bản trải qua 3 giai đoạn, mang 3 hình thái và thực hiện
3 chức năng.
- Giai đoạn thứ nhất: Tư bản vận động trong lĩnh vực lưu thông, tồn tại dưới hình
thái tư bản tiền tệ.
T-H

SLĐ
TLSX

Trong giai đoạn lưu thông này, nhà tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là
chủ của một khối lượng tiền để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, kết thúc giai
đoạn này tư bản tiền tệ chuyển thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai: Tư bản vận động trong lĩnh vực sản xuất, tồn tại dưới hình
thái tư bản sản xuất.

H

SLĐ

… SX…H’

TLSX

Đây là giai đoạn tiến hành quá trình sản xuất, nhằm biến đổi hàng hóa ban đầu (H)
thành loại hàng hóa mới (H’). H’ và H khác nhau cả về chất và lượng.
+ Về chất: H là các yếu tố sản xuất, H’ có thể là sản phẩm phục vụ tiêu dùng hoặc

sản xuất, có hình thức vật chất khác H.
+ Về lượng: giá trị của H’ lớn hơn giá trị của H một lượng chính là giá trị thặng
dư.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong tuần hoàn của tư bản. Vì:
+ Nó tạo ra phần giá trị mới tăng thêm (m)
+ Nó tạo ra loại sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường.
Kết thúc giai đoạn này, tư bản sản xuất đã chuyển thành tư bản hàng hóa.
- Giai đoạn thứ ba: Tư bản vận động trong lĩnh vực lưu thông, dưới hình thái tư
bản hàng hóa. Nhà tư bản quay lại thị trường với tư cách là người bán hàng.
H’ - T’
Tư bản chuyển hoá H’ thành T’, hay thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Đến đây
tư bản thực hiện xong một vòng tuần hoàn.
Kết thúc giai đoạn này tư bản trở về hình thái ban đầu là tư bản tiền tệ nhưng số
lượng lớn hơn (T’=T + ∆T). Số tiền bán hàng hoá đó, nhà tư bản lại được dùng vào
25


×