Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

LỊCH SỬ ĐƠN VỊ HÌNH THÀNH PHÔNG huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.79 KB, 12 trang )

I.LỊCH SỬ ĐƠN VỊ HÌNH THÀNH PHÔNG
Văn hóa - Xã hội huyện Vĩnh Tường
Thời kì tiền sử: Qua nhiều cuộc khai quật khảo cổ, đã xuất lộ nhiều di
chỉ của người Việt trên đất Vĩnh Tường. Các di vật đào được đã minh chứng các
di chỉ Lũng Hòa, Nghĩa Lập, Đồng Hương, Ma Cả, Gò Mát thuộc thời kỳ văn
hóa Phùng Nguyên, mở đầu cách đây vào khoảng 4000 năm, là thời kì văn hóa
đồng thau phát triển rực rỡ trên đất Vĩnh Phúc.
Điểm đáng chú ý là trong tổng số 18 di chỉ văn hóa thời Phùng Nguyên
thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã được phát hiện và công bố, riêng huyện Vĩnh Tường đã
có 07 di tích, trong đó di chỉ Lũng Hòa là điển hình nhất. Đó là di chỉ cư trú và
mộ địa lớn, công cụ văn hóa thu được gồm có rìu bôn, đục, hoa tai, hạt chuỗi đá.
Nhiều hiện vật gốm nguyên vẹn.
Trong đợt khai quật năm 1965, đã thu lượm được tổng số hiện vật đá là
430, hiện vật gốm nguyên là 89 trong đó có 21 nồi, 10 bát, 17 dọi xe sợi, 22 chạc
gốm, cùng 12.642 mảnh gốm các loại. Phần lớn là loại gốm thô, hoa văn trang trí
tiêu biểu cho giai đoạn muộn của văn hóa Phùng Nguyên. Cũng phát hiện được
khá nhiêu xương răng, xương động vật, trong đó có xương gia súc như chó, lợn,
trâu, bò, gà…
Thời kì sơ sử (văn hóa Đông Sơn): Sau giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên,
trong hơn 20 di chỉ đã xuất lộ ở xã Nghĩa Lập phát hiện được 02 chiếc mai đá
kích thước lớn thuộc thời đại kim khí. Đó là thời đại có cơ sở vật chất hạ tầng để
hình thành nhà nước Văn Lang thống nhất 15 bộ cùng trong cộng đồng lãnh thổ,
thời của các vua Hùng dựng nước (cách 700 năm trước công lịch).
Nhiều địa phương thuộc huyện Vĩnh Tường hiện đang còn lưu giữ rất
nhiều di tích thờ cúng các vua Hùng và các vị tướng lĩnh thời Hùng Vương gắn
với phong tục tập quán cùng các lễ hội cổ truyền.
Xã Bồ Sao, Việt Xuân có đền thờ vị thần là con thứ 25 của Lạc Long Quân
và âu Cơ, đã có công trị thủy ở cửa sông Lô, sông Đáy bảo vệ làng xóm, ruộng
đồng. Hội làng nơi đây có tục “tung bông”, "tung gươm" tính giao lưỡng hợp,
rước bó mạ và hội xuống đồng (thời có chữ Hán gọi là "hạ điền") trước cửa đền
vào tháng 05 mở đầu mùa mưa thuận lợi cho cấy trồng cây lúa nước.


Xã Đại Đồng (gồm cả 02 làng Bích Đại - Đồng Vệ) thờ vị Thành Hoàng
làng là tướng Đinh Thiên Tích, theo bản khai sự tích của làng, ông là vị tướng ở
thời Hùng Vương thứ 06, có công đánh đẹp giặc ân dưới thời Hùng Huy Vương.
Trong làng còn giữ được nhiều tục cổ không bị phong kiến hóa như không phải
kiêng kị gì khi làm ăn, khi đọc nói, không có tế lễ gì riêng. Về húy của Thành
Hoàng, trong khi tế lễ có ai nhầm lỗi điều gì thì xưa nay dân làng cũng châm
chước không có phạt vạ gì.
1


Ở Vĩnh Tường còn có hội "tung vông" để cầu đinh, tục hội "trâu rơm, bò
rạ" đều diễn ra trong tháng giêng của năm để cầu mùa. Tục thờ sinh thực khí
nam như thờ cây dứa dại ở đền ông; và 07 viên đá ở miếu Bà thuộc về xã Tứ
Trưng; Những tục hội như "kéo co", “hú đáo” ở xã Lũng Hòa, hội bắt vịt trong
ao, bắt chạch trong chum ở Tứ Trưng, Thượng Trưng, lễ cầu tằm ở Vĩnh Ninh,
Bàn Mạch, tục săn Cuốc ở làng Huy Ngác, múa đao đánh gậy ở Tam Phúc, Tứ
dân chi nghiệp ở Đại Đồng, Lễ hội xuống đồng ở Hoàng xá, thi bơi chải ở Phú
Đa, thi vật ở Nghĩa Hưng, Yên Bình…Đó đều là những dấu ấn mang đậm nét
văn hóa.
Các thời kì sau: Nền kinh tế nông nghiệp và xã hội huyện Vĩnh Tường
phát triển liên tục và bền vững trong bối cảnh quốc gia ngày càng cường thịnh.
Xã hội nông nghiệp trong nhiều trăm năm đã sớm hình thành các vùng chuyên
canh theo diện mạo thổ nhưỡng và quy luật cung cầu, làm thành những vùng có
"đặc sản" như xã Thượng Trưng, Tuân Chính có đầm sen, hoa sen, hạt sen; xã Bồ
Sao, Hòa Loan có củ đậu; làng Đông Viên Thổ Tang, Cam Giá có dưa hấu, cà
xanh.
Từ kinh tế làng nghề, chợ búa xuất hiện. Huyện Vĩnh Tường xưa có các
chợ lớn chép trong sách Địa chí như: Chợ Thổ Tang (tục gọi chợ Giang), xuất xứ
là chợ chuyên mua bán trâu bò ở xã Thổ Tang; Chợ Vòng ở làng Tuân Lộ (nay
thuộc xã Tuân Chính); Chợ Me ở làng Phủ Yên (nay thuộc xã Yên Lập); Chợ

Trục ở làng Hưng Lục (nay thuộc xã Nghĩa Hưng); Chợ Chùa ở làng Kiên
Cương (nay thuộc xã Ngũ Kiên); Chợ Rưng thuộc làng Văn Trưng (xã Tứ
Trưng). Chợ tường thuộc làng Dẫn Tự xã Tân Cương; Chợ Đa thuộc xã Phú Đa;
Chợ Điền thuộc làng Lương Điền xã Bình Dương; Chợ Kiệu thuộc làng Hưng
Lại xã Chấn Hưng…
Trên bình diện của đời sống xã hội vùng "đỉnh" châu thổ ấy, Vĩnh Tường thực sự
là điểm “tụ nhân” sơ khai khi con người đến khai thác đồng bằng Bắc Bộ. Ấy là
nói (và viết) theo như thuật ngữ "địa linh", để rồi bồi tụ nên lớp trí thức Vĩnh
Tường qua các đời, mà trở thành các "nhân kiệt" vùng này:
Hiện nay trong huyện còn 155 di tích. Trong đó có 55 ngôi đình, 67 ngôi
chùa. Sổ còn lại là đền, miếu.Đã có 18 di tích xếp hạng di tích cấp Quốc gia.
Về kiến trúc, đặc biệt có ngôi đình Thổ Tang, chùa Hoa Dương (Tuân
Chính) và ngôi đền đá Phú Đa là đặc sắc nhất.
Đình Thổ Tang: Xây dựng vào thế kỷ 16. Cấu trúc theo lối chữ "Đinh",
phần thượng cung không còn, nay chỉ còn lại một tòa đại đình có năm gian hai
dĩ, theo kiểu "tú trụ làng thuyền" với 60 chiếc cột. Đường kính của các cột cái là
0,8m của cột quân là 0,61m. Toàn công trình có chiều dài 25,8m, rộng 14,2m.
Nền đình bó bằng đá xanh xung quanh.

2


Trong đình hiện còn 21 bức trạm gỗ có giá trị cao về văn hóa và nghệ
thuật. Nhất là bức “ngày hội xuống đồng”, “bắn hổ” “đá cầu”, “đánh gen”...miêu
tả khá khái quát các sinh hoạt xã hội của nông thôn thời kỳ ấy.
Chùa Hoa Dương (Tuân Chính) được xây dựng năm Chính Hòa thứ nhất
(1680) theo lối kiến trúc chữ (I). Chùa có 7 gian, thượng điện 5 gian; tiền đường,
nhà cổ 3 gian. Hai bên hành lang có 15 gian làm nơi đón tiếp và dừng chân cho
du khách thập phương.
Theo truyền thuyết kể lại, đây chính là khu đất có địa thế hình con Rùa. Ở

chùa Hoa Dương nghệ thuật điêu khắc được chú ý tới từng đường nét, từng chi
tiết. Các phù điêu trên gỗ, đá, đồng hầu như còn giữ nguyên vẹn; hai mươi bộ
hoành phi câu đối, mười tám bộ cuốn thư, trương nhĩ, cửa khám, nghi môn, tòa
Cửu Long…Mang đậm nét kiến trúc dân gian phải kể đến cây hương cổ bằng đá,
có chiều cao 1,70 được lập năm Chính hòa (1680). Đặc biệt là quả chuông đồng
được đúc vào năm Minh mạng thứ bảy (1826) phản ánh trình độ nghệ thuật cũng
như kỹ nghệ đúc đồng của ông cha ta.
Đền đá Phú Đa: Gọi là đền đá vì vật liệu chủ yếu xây dựng là đá xanh và
gỗ lim. Dựng vào đời vua Lê Cảnh Hưng (1740- 1786).
Đền gồm 02 tòa nhà song song xếp theo hình chữ “nhị”. Đây là ngôi đền
còn nhiều di vật đá nhất trong số các di tích của tỉnh Vĩnh Phúc. Có tới 48 tác
phẩm bằng đá, được sắp xếp theo yêu cầu thờ tự. Từ cổng đền, qua sân đền tới
nhà tiền đường rồi nhà thờ chính như cột trụ, chó đá, rồng đá, tượng võ sĩ bằng
đá, ngựa đá, voi đá, sư tử đá, chậu đá, bàn tẩn đá, án gian đá, bát hương đá, bia
đá, xập đá, ngai thờ…tất cả đều làm bằng đá. Với mức độ đục chạm công phu, tỉ
mỉ bằng những đường nét tuyệt đẹp đáng kể nhất như các ngôi tượng võ sĩ,
tượng voi đứng chầu ở sân đền.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, văn hóa Vĩnh Tường hết sức trì trệ, lạc hậu. Sau
cách mạng tháng Tám, thực hiện đời sống mới, các hủ tục ma chay cưới xin
được đơn giản hóa. Tệ nạn hút thuốc phiện bị nghiêm cấm. An ninh, trật tự làng
xóm được tăng cường. Hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng rất phong phú.
Đây là nét đẹp trong đời sống văn hóa của nhân dân dưới chế độ mới.
Sang những năm 1947- 1948, hoạt động văn hóa thông tin được phát triển
lên một bước mới. Huyện chỉ đạo in ấn các bản tin phát cho cơ sở, kẻ vẽ nhiều
khẩu hiệu, áp phích cổ động các phong trào thi đua trong công cuộc củng cố xây
dựng chính quyền. Phòng thông tin huyện xuất bản các bản tin hàng tháng, nhiều
xã ra báo tường phản ánh các hoạt động của địa phương. Đặc biệt, các đội văn
nghệ với các vở diễn theo tích tuồng, chèo cổ và tự biên, phản ánh đời sống, sản
xuất ở các xã, được nhân dân nồng nhiệt hưởng ứng. Tuy trong những năm chiến
đấu chống giặc Pháp tái chiếm, nền văn hóa có trầm lắng xuống vì phải tập trung

sản xuất và chiến đấu bảo vệ xóm làng chống lập tề, các cơ quan cấp huyện phải
lui vào hoạt động bí mật hoặc di tản đến vùng tự do. Song văn hoá cách mạng và
3


kháng chiến vẫn không ngừng mạch chảy, mà tập trung cao độ vào phục vụ chiến
đấu, với bộ đội địa phương đại đội Lê Xoay làm tiêu biểu.
Hòa bình lập lại, văn hóa Vĩnh Tường bắt đầu khởi sắc nhưng chủ yếu tập
trung vào chủ đề xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ
ngụy ở miền Nam.
Thời kỳ chống Mỹ, việc xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh được chú
trọng. Ngay từ cuối năm 1954, phong trào xây dựng đời sống mới văn minh
được nhân dân hưởng ứng đông đảo. Một số xã lập đội văn nghề, tổ chức biểu
diễn phục vụ nhân dân. Trong năm 1959, huyện thành lập được hai đội văn nghệ
nghiệp dư ở xã Đội Cấn và xã Thái Học. Các đội đã xây dựng chương trình đi
biểu diễn phục vụ nhân dân trong huyện. Nhiều xã khác cũng quan tâm chỉ đạo
thành lập đội văn nghệ quần chúng để tổ chức hoạt động vào các dịp lễ lớn.
Giai đoạn Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, hoạt động văn hóa
tinh thần của huyện vẫn được quan tâm. Nhiều xã và hợp tác xã xây dựng phòng
đọc sánh, tạo nên phong trào đọc và làm theo sách báo. Riêng trong năm 1967 có
110.000 cuốn sách và 387 tờ báo các loại được đưa về các xã và hợp tác xã.
Ngành chiếu bóng tích cực phục vụ nhân dân. Năm 1968, chiếu 552 tối cho
448.616 lượt người xem. Phong trào văn nghệ quần chúng cũng phát triển khá
mạnh. Năm 1968, toàn huyện có 20 đội văn nghệ, 30 nhóm ca hát, 35 câu lạc bộ
hoạt động thường xuyên. Đến cuối năm 1971, toàn huyện đã có trên 3.000 hộ
đăng ký phấn đấu trở thành gia đình văn hóa.
Sau khi đất nước thống nhất (1975), hoạt động văn hóa văn nghệ càng có
điều kiện phát triển. Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa kết hợp với
phong trào thể dục thể thao như bơi lội, bóng chuyền, bóng đá mở rộng trong các
địa phương. Năm 1985, huyện Vĩnh Lạc (nay là Vĩnh Tường và Yên Lạc) đã tổ

chức Đại hội Thể dục thể thao ở cơ sở, tạo không khí phấn khởi trong nhân dân,
nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.
Hiện nay, công tác Văn hóa - Thông tin huyện Vĩnh Tường ngày càng phát
triển mạnh mẽ về mọi mặt, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa” được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ; mỗi xã, thị trấn đều chọn từ 1 đến
2 thôn làng, tổ dân phố làm điểm, khi có kết quả tốt sẽ nhân ra toàn xã. Đến hết
năm 2010, toàn bộ các xã, làng chỉ đạo điểm đều đạt tiêu chuẩn làng văn hoá,
góp phần quan trọng vào công tác phát triển phong trào ở 29/29 xã, thị trấn, đưa
số hộ gia đình, thôn đạt tiêu chuẩn văn hoá tăng dần lên hàng năm.
Về xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao: 100% xã, thị trấn đã dành đất cho
các thiết chế văn hoá, thể thao.
Bên cạnh các giá trị văn hóa hiện đại, các giá trị văn hóa truyền thống
được giữ gìn và phát huy. Toàn huyện hiện có 155 di tích, trong đó 18 di tích xếp
hạng cấp Quốc gia; 33 di tích xếp hạng cấp tỉnh. Các di tích, lễ hội dân gian
truyền thống đều được bảo tồn, các di tích lịch sử văn hoá được tăng cường kiểm
4


tra, hướng dẫn quản lý, bảo quản, chống xuống cấp kịp thời. Nhiều di tích được
nhân dân đóng góp xây dựng với số vốn lớn như chùa Tùng Vân (Thổ Tang) gần
5 tỷ đồng, chùa Vân Ô (Vân Xuân) hơn 3 tỷ đồng, chùa Hoà Lạc (Tân Cương)
hơn 20 tỷ…
Giáo dục - Đào tạo
Vĩnh Tường là vùng quê văn hiến, nơi có truyền thống hiếu học và khoa
bảng. Từ nhiều đời nay, nơi đây đã có nhiều danh nhân đỗ đạt cao được khắc bia
Tiến sĩ ở Văn miếu Quốc Tử Giám từ thế kỷ XIII, XIV. Cụ thể:
Có 23 tiến sĩ nho học và 01 phó bảng triều Nguyễn.
Người thành đạt sớm nhất là ông Nguyễn Văn Chất ( 1421 -? ), người thôn
Vũ Di xã Vũ Di. Ông thi đỗ Hoàng giáp (sau là Đệ nhị giáp tiến sĩ) khoa Mậu
nhìn niên hiệu Thái Hòa năm thứ 06 đời vua Lê Nhân Tông (1448), danh sách

đang còn trên bia Văn Miếu Hà Nội. Ông làm quan tới chức thượng thư Bộ Hộ,
về chí sĩ, ông có hiệu là Nhuệ Hiên tiên sinh. Ông có biên soạn thêm bốn chuyện
vào tập sách "Việt điện u linh" của Lý Thế Xuyên soạn năm 1329, trở thành một
danh sỹ nổi tiếng.
Sau ông còn có 22 tiến sĩ khác, các ông cũng rất nổi tiếng như ở đời Mạc
có ông Bùi Hoàng (1505- 1592) người xã Thượng Trưng thi đỗ đệ nhị giáp tiến
sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Đại Chính thứ 09 đời vua Mạc Dăng Dung
danh sách còn trên bia Văn Miếu Hà Nội. Ông Phí Văn Thuật, người xã Thượng
Trưng dự kỳ thi hương ở Sơn Tây đỗ danh sách thứ nhất (Hội nguyên). Năm sau
Canh Thìn (1640) vào dự kỳ thi Hội, qua 04 kì ông vượt lên đỗ đâu hội nguyên
Hội", rồi dự kỳ Văn Sách, ông lại đỗ đầu Đình nguyên Hoàng giáp. Đến khi vào
dự kỳ làm thơ ứng chế (thơ nhà vua ra đề), bài của ông được chấm thứ nhất.
Người đời suy tôn là ông "Tứ nguyên" (04 lần đều đỗ đầu).
Ông Nguyễn Tiến Sách (sau đổi là Dình Sách) người làng Văn Trưng xã
Tứ Trưng thi đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị thứ tám đời vua Lê
Huyền Tông. Từng được cử làm phó sứ sang nhà Thanh điều trần về việc quan
hệ giữa hai nước ở vùng biên cương. Ông còn là nhà thơ, nay còn 34 bài thơ
chép trong sách “Toàn việt thi lục của tác giả Lê Quý Đôn".
Ông Tô Thế Huy người làng Bình Đăng (nay là thôn Bình trù xã Cao Dạy
thi đỗ tiến sĩ khoa Đinh Sửu niên hiệu Chính hòa 18 (1697) đời vua Lê Hy Tông.
Ông được tặng phong chức thượng thư bộ Công, là người tôi trung với nước,
hiếu với gia đình. Có đôi câu đối ca ngợi ông:
Quốc trung thần, gia hiếu tử, thiên hạ hoàn nhân.
Văn tiến sỹ, võ quận công triều đình hiển họa.
Tạm dịch:
Bề tôi trung của nước, con hiếu trong gia đình, ông là người trọn vẹn trong
thiên hạ.
Văn đỗ tiến sĩ, võ tới quận công, là vị quan vinh hiển chốn triều đình.
5



Đó là những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử khoa bảng Việt Nam.
Vĩnh Tường còn có 37 vị thi Hội đỗ Tam trường (tam trường thi Hội), có
191 vị thi đỗ trung khoa (hương Tiến - hương Cống) cử nhân đời Nguyễn. Các
xã như Văn Trưng, Thế Trưng, Thượng Trưng, Bình Trù xếp vào thứ nhất trong
hàng ngũ đỗ đạt.
Đồng thời, Vĩnh Tường cũng là huyện có số lượng các thư tịch đồ sộ, tới
320 văn bản là bia ký ở di tích các làng, xã. Gồm có: Bia đình có 39 tấm; Bia
chùa có 200 tấm; Bia đền, miếu, từ đường, sinh từ, lăng mộ 42 tấm Bia văn chỉ,
vũ chỉ có 14 tấm; Bia cầu, bến đò, quán, điểm, ngõ, chợ, cổng làng có 25 tấm;
Có 39 quả chuông ở các di tích và 11 chiếc khánh trong đó có 02 chiếc khánh tạo
bằng nguyên liệu đá.
Thực tế đó là một lượng thông tin khá đầy đủ và đa chiều về lịch sử phát
triển và đời sống xã hội của phủ Vĩnh, là thành tựu đặc sắc của nền văn hiến phủ
Vĩnh.
Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở Vĩnh Tường có rất ít
trường học, chỉ có cấp tiểu học, giáo dục gần như không phát triển. Việc học
hành chủ yếu dành cho con em những gia đình khá giả, còn tuyệt đại đa số nhân
dân phải chịu cảnh mù chữ.
Phong trào Bình dân học vụ, thực hiện chiến dịch diệt giặc dốt được mở
rộng khắp toàn huyện. Xã nào cũng lập ra Ban Bình dân học vụ, tổ chức các lớp
học với nhiều hình thức dạy chữ linh hoạt. Các xã Đại Đồng, Thượng Trưng, Vũ
Di…được đánh giá là có thành tích xuất sắc về xóa nạn mù chữ.
Hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Vĩnh Tường tiến hành khôi phục kinh
tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng
với các ngành khác, giáo dục trong huyện cũng được quan tâm phát triển. Các xã
đẩy mạnh xây dựng, củng cố trường lớp, học sinh phổ thông tăng dần qua mỗi
năm. Đến năm 1957, toàn huyện có hơn 7.000 học sinh, trong đó học sinh cấp 11
có gần 1.000 em. Phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được phát triển và phát
huy hiệu quả.

Đến cuối năm 1965, huyện hoàn thành vượt mức kế hoạch bổ túc văn hóa
5 năm lần thứ nhất, được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Hai năm
học 1973 - 1974 và 1974 - 1975, cả ba cấp học của huyện có trên 800 lớp học
với 34.000 học sinh, tỷ lệ tốt nghiệp trung bình của cấp I là trên 80%, cấp II là
trên 60%, cấp III là trên 50%.
Những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quy mô giáo dục đã
được mở rộng, đa dạng ở tất cả các cấp học, ngành học. Năm 2008, toàn huyện
có tổng số 100 trường học các cấp, trong đó có 30 trường mầm non, 34 trường
tiểu học, 30 trường THCS và 6 trường THPT. Đến năm 2010, toàn huyện có trên
100 trường học các cấp, trong đó có 31 trường Mầm non, 34 trường Tiểu học, 30
trường Trung học cơ sở và 6 trường Trung học phổ thông, 01 Trung tâm Giáo
6


dục thường xuyên 01 Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị, 01 Trung tâm dạy nghề
tổng hợp ở các xã đều có Trung tâm học tập cộng đồng. (Tính đến hết năm 2012,
toàn huyện có 79/101 trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó có 23/31 trường MN
= 74,2%, 33/34 trường TH = 97,1%, 20/30 trường THCS = 66,6%, 3/6 trường
THPT = 50%). Nhìn chung, với số lượng trường học trên đã cơ bản đáp ứng
được nhu cầu học tập của con em toàn huyện.
Y tế
Dưới thời Pháp thuộc, y tế của huyện hầu như không được phát triển.
Trong huyện không có bệnh viện khám chữa cho nhân dân, việc chữa bệnh chủ
yếu nhờ vào các phương thuốc dân gian của các thầy lang.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, hoạt động y tế huyện được tăng cường
dưới chính quyền cách mạng. Đội ngũ vệ sinh viên tới tận các thôn xóm trong
toàn huyện, trở thành lực lượng tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân giữ vệ sinh,
phòng bệnh. Được sự giúp đỡ của Tỉnh ủy, huyện đã lập phòng khám chữa bệnh
với một số thiết bị, dụng cụ y tế và thuốc men. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn,
trang thiết bị thiếu thốn, song đây cũng là một bước tiến của y tế huyện, đã phần

nào đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.
Những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ, mạng lưới y tế từ huyện
xuống xã tiếp tục được xây dựng và củng cố. Từ chỗ toàn huyện chỉ có một bệnh
xã nhỏ đã phát triển thành bệnh viện huyện với hơn 30 giường bệnh. Các trạm y
tế ở tất cả các xã được mở rộng. Năm 1967, đã khám bệnh cho 45.355 người,
chữa bệnh cho trên 13.000 người. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được đẩy mạnh
với trọng tâm là xây dựng nhà tắm, giếng nước và nhà tiêu. Năm 1975, một số
trạm xá xã như Vũ Di, Lũng Hòa, Thổ Tang, Tuân Chính, Thượng Trưng…đã
biết kết hợp Đông - Tây y trong điều trị bệnh có kết quả. Công tác vận động sinh
đẻ có kế hoạch đạt hiệu quả, tỷ lệ tăng dân số của huyện giảm, năm 1973 là
3,7%, năm 1974 còn 3,3%.
Những năm thực hiện đường lối đổi mới, sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe nhân dân của ngành y tế huyện Vĩnh Tường đã có những bước phát
triển rất đáng kể, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu và nhiệm vụ chăm sóc sức
khỏe và khám chữa bệnh cho nhân dân.
Trang thiết bị phục vụ y tế được tăng cường đầu tư, nâng cấp. Phong trào
xây dựng xã đạt Chuẩn quốc gia về y tế đã và đang phát triển. Đến năm 2008,
toàn huyện đã có 100% xã được công nhân đạt Chuẩn quốc gia về y tế. Trên 93%
số xã có bác sĩ.
Từ năm 2009-2010, huyện Vĩnh Tường là một trong những huyện dẫn đầu
về công tác y tế của tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện tại, huyện có một Phòng y tế là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND huyện. Bệnh viện Đa khoa huyện ngày càng
được mở rộng với 200 giường bệnh được trang bị đầy đủ về trang thiết bị, có đội
ngũ chuyên môn khá đáp ứng được hầu hết các nhu cầu khám chữa bệnh của
7


nhân dân. Ngoài ra, huyện cũng xây dựng thêm hai phòng khám đa khoa khu vực
và một phòng khám đa khoa tư nhân; một trung tâm y tế chuyên làm công tác y
tế dự phòng, một trung tâm dân số KHHGĐ chuyên làm công tác tuyên truyền

về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân số; một
Trung tâm Vệ sinh an toàn thực phẩm với chức năng chính là làm nhiệm vụ
tuyên truyền về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, thanh tra, kiểm tra và thẩm
định các cơ sở chế biến và kinh doanh thực phẩm đủ điều kiện thì cấp Giấy
chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Công tác chăm sóc sức khỏe
bà mẹ trẻ em, kế hoạch hóa gia đình và các chương trình mục tiêu y tế Quốc gia
được quan tâm thực hiện tốt.
Cơ sở vật chất của các trạm y tế được nâng cấp khang trang, trang thiết bị
được đầu tư. Các cán bộ y tế thường xuyên được cử đi học nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ từ huyện đến xã. Tính đến năm 2009, 100% trạm y tế các
xã, thị trấn có bác sỹ, đủ cán bộ theo cơ cấu.
Tổng số cán bộ y tế trong toàn huyện hiện nay là 370 cán bộ, trong đó có
55 bác sỹ (không tính số bác sỹ đã nghỉ hưu và bác sỹ tư nhân), bình quân 1 bác
sỹ/3,5 nghìn dân (đạt tỷ lệ cao nhất trong toàn tỉnh và cả nước). 100% các thôn
đều có nhân viên y tế và cộng tác viên dân số.
Công tác khám chữa bệnh ngày càng được chú trọng. Bình quân mỗi
người dân được khám bệnh 2 lần/năm. Công tác khám và điều trị y học dân tộc
với y học hiện đại luôn được kết hợp. Hiện nay, 100% các xã, thị trấn có vườn
thuốc nam mẫu. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 100%; Tỷ
lệ trẻ em 6-36 tháng tuổi dược uống Vitamin A đạt 100%; Tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng là 13,5%; Tỷ lệ bà mẹ mang thai được tiêm AT đầy đủ 100%; Số cặp vợ
chồng áp dụng các biện pháp tránh thai đạt từ 85- 87%. Trong các năm từ 2003
đến 2011, tỷ lệ sinh ở huyện Vĩnh Tường luôn duy trì ở mức ổn định, năm 2003
ở mức 1.74% đến năm 2011 là 1,73%; tỷ lệ tử là 0,51; tỷ lệ phát triển dân số là
l,27%; Tuổi thọ trung bình đạt: 73 tuổi; Tỷ lệ sử dụng nước hợp, tỷ lệ này giảm
mạnh ở các năm 2004, 2005 (cả hai năm đều đạt 1.66%); tỷ lệ công trình vệ sinh
đạt 100%, trong đó tự hoại là 40% còn lại là hai ngăn.
KINH tế Vĩnh Tường qua các thời kỳ
Trong thời kỳ Pháp thuộc, nền kinh tế Vĩnh Tường phát triển chậm, nông nghiệp
đóng vai trò chủ đạo. Hơn nữa, do Vĩnh Tường là nơi lắm thóc, đông dân của

tỉnh Vĩnh Yên nên thực dân Pháp càng đẩy mạnh quá trình vơ vét. Chúng thực
hiện chính sách trưng thu, tăng thuế…làm cho đời sống của người dân đã cơ cực
càng thêm điêu đứng.

8


Trong thời kỳ Pháp thuộc, nền kinh tế Vĩnh Tường phát triển chậm, nông
nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Hơn nữa, do Vĩnh Tường là nơi lắm thóc, đông dân
của tỉnh Vĩnh Yên nên thực dân Pháp càng đẩy mạnh quá trình vơ vét. Chúng
thực hiện chính sách trưng thu, tăng thuế…làm cho đời sống của người dân đã
cơ cực càng thêm điêu đứng.
Các ngành nghề thủ công: dệt vải, rèn sắt... còn tồn tại thưa thớt ở một vài
hộ gia đình; các chợ buôn bán mọc lên lẻ tẻ với quy mô nhỏ hẹp trong từng thôn,
làng.
Cách mạng tháng Tám thành công, thực hiện Chỉ thị kháng chiến, kiến
quốc của Đảng và Chính phủ, Vĩnh Tường đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Nhiều xã
đã vận động thực hiện giảm tô 25%, tiến hành điều chỉnh lại ruộng đất công cho
những gia đình có ruộng và lập quỹ đất để mở trại tăng gia, sản xuất, lập ra các
đội tuần tra ở nhiều xã ven sông Hồng, chỉ đạo nhân dân khắc phục hậu quả lũ
lụt, sửa chữa mương máng, tưới tiêu, cải tạo đồng ruộng. Công tác đắp đê, phòng
lụt được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện…
Nhiều ngành nghề thủ công vẫn được duy trì, cung cấp những mặt hàng
thiết yếu cho kháng chiến và đời sống. Hàng trăm lò ép mía nấu mật ở xã Vĩnh
Thịnh được phục hồi, nghề mộc ở Bích Chu, nghề rèn ở Thùng Mạch, Lý Nhân
phát triển.
Các chợ vẫn được mở để phục vụ cho nhu cầu mua bán trao đổi của nhân
dân như: Chợ Giang ở Thổ Tang, chợ Rưng ở Tứ Trưng...
Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, huyện Vĩnh Tường đứng trước nhiều
khó khăn. Chiến tranh đã tàn phá mảnh đất này rất nặng nề. Trên toàn huyện có

tới 70% nhà cửa bị đốt phá, một số xã như Bình Dương, Ngũ Kiên, Đại Đồng...
bị tàn phá tới 90%, hơn 3.000 mẫu ruộng bị bỏ hoang, trong đó có hơn 1.000
mẫu là vành đai trắng, nhiều nơi còn có bom, mìn. Hệ thống kênh mương bị phá
hoại, gây khó khăn cho cấy trồng, hàng nghìn con trâu, bò bị giết. Xóm làng xơ
xác, điêu tàn.
Nhân dân Vĩnh Tường đã từng bước khắc phục khó khăn, vượt qua gian
khổ, vững bước đi lên trong thời kỳ mới.
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đến tháng 12- 1954, hơn 500 mẫu
ruộng hoang hóa ở xã Kim Xá được đưa vào sản xuất; nhân dân Tuân Chính,
Minh Đức (nay là xã Thượng Trưng), Ngũ Kiên đưa hơn 1.000 mẫu ruộng vào
cày cấy. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), ngành nông
nghiệp huyện Vĩnh Tường có những nét khởi sắc. Nhiều mô hình điển hình tiên
tiến về sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh như phong trào làm phân xanh (làm
bèo hoa dâu) ở Phù Lập (xã Tam Phúc); phong trào năng suất lúa 5 tấn ở xã Tuân
Chính. Kết quả, vụ chiêm xuân năm 1962 đạt 39.047 mẫu, vượt kế hoạch 1,7%,
tăng 2,1% so với năm 1961. Ngày 25- 11- 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm

9


Hợp tác xã Lạc Trung, xã Bình Dương, điển hình tiên tiến của phong trào trồng
cây toàn tỉnh.
Từ năm 1973 đến năm 1975, nhân dân Vĩnh Tường phát triển sản xuất,
đẩy mạnh phát triển kinh tế. Năm 1973, tổng diện tích gieo trồng toàn huyện đạt
18.12 ha, năng suất lúa đạt 6.292 kg/ha, tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt
43.063 tấn.
Thời kỳ xây dựng đất nước (1975 -2010), diện tích cây trồng luôn duy trì
sản xuất ổn định trên 20 nghìn ha. Năng suất cây trồng không ngừng tăng. Đặc
biệt cây lúa, năng suất từ 34,65 tạ/ha (1996) tăng lên 58,42 tạ/ha (2005).
Năm 2010, năng suất lúa đạt 60,46 tạ/ha, tăng 25,81 tạ/ha so năm 1996.

Tổng sản lượng lương thực năm 2010 đạt 96.820 tấn, tăng 35.861 tấn so năm
1996. Bên cạnh đó năng suất các cây trồng khác không ngừng tăng. Nguyên
nhân đó chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất.
Về phong trào HTX nông nghiệp, các HTX NN trên địa bàn huyện được
xây dựng và phát triển từ những năm 1960. Cả huyện có hơn 100 HTX được xây
dựng theo quy mô thôn, làng, khu vực. Các HTX NN thời kỳ 1960-1975, đã có
nhiều đóng góp về sức người, sức của để góp phần vào thắng lợi của dân tộc
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ những năm 1974-1975, các HTX NN theo
mô hình thôn, làng, khu vực đã được sát nhập để thành lập theo quy mô toàn xã
theo chính sách của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên, đến thời kỳ từ năm 19861988, thực hiện Nghị Quyết 10 của BCH TW Đảng (Khóa VI), nhiều HTX NN
đã chia tách từ quy mô toàn xã thành các HTX NN theo quy mô thôn, làng, khu
vực. Từ năm 1997 đến nay, thực hiện luật HTX NN trên địa bàn huyện đã
chuyển đổi về mô hình và phương thức để hoạt động theo luật. Thẹo đó, hướng
hoạt động chủ yếu là làm các dịch vụ theo yêu cầu của hộ gia đình xã viên. Hiện
tại, trên địa bàn huyện có 38 HTX NN (Trong đó: Có 11 HTX quy mô toàn xã và
27 HTX NN quy mô thôn).
Trên lĩnh vực CN- TTCN- XD:
Sau năm 1954, huyện Vĩnh Tường tiến hành cải tạo công - thương nghiệp,
xây dựng các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp nghề mộc, nghề rèn... Giai đoạn
1965 - 1968, sản xuất thủ công nghiệp có bước phát triển nhanh, mạnh. Một số
cơ sở như xưởng cơ khí, xí nghiệp nước chấm, xí nghiệp vôi, bánh kẹo... được
xây dựng và phát triển quy mô, sản xuất ra nhiều sản phẩm phục vụ cho sản xuất
và đời sống. Các hợp tác xã sản xuất gạch ngói với sản lượng 20 triệu viên mỗi
năm. Nhiều hợp tác xã có tổ rèn, mộc, cơ khí. Đến năm 1968, giá trị sản lượng
của thủ công nghiệp trong các hợp tác xã tăng gấp tám lần, giá trị sán lượng của
thủ công nghiệp huyện tăng gấp bốn lần so với năm 1966.
Nhiều hợp tác xã mua bán được xây dựng. Cuối năm 1958 có 16.389 xã
viên tham gia hợp tác xã mua bán với 18.203 cổ phần. Nhiều mặt hàng tiêu
10



dùng: vải vóc, dầu, muối; mặt hàng quý: xe đạp, phích nước...được buôn bán.
Hoạt động của các hợp tác xã mua bán đã thu hút 26.850 xã viên với 79.000
đồng vốn cổ phần, có 28 cửa hàng ở các xã, một số hợp tác xã mua bán điển hình
như: Việt Xuân, Bồ Sao, Yên Bình…
Công việc sửa chữa đường giao thông được chú trọng. Các trục đường
chính từ huyện đi các xã Tân Cương, Cao Đại, Tứ Trưng được sửa chữa thuận
tiện cho Ô tô đi lại. Các cầu cống như: cầu Hương, cầu Quan cũng được tu bổ...
Tổng số cơ sở sản xuất CN - TTCN toàn huyện là 2.567 cơ sở, trong đó
tập thể có 19 cơ sở, tư nhân có 24 cơ sở, cá thể 2.523 cơ sở và có 1 cơ sở có vốn
đầu tư nước ngoài. Các mặt hàng chủ yếu bao gồm: Chế biến nông sản, thực
phẩm, may mặc, vật liệu xây dựng, nông cụ cầm tay, nông sản, sản phẩm của
nghề mộc. . .
Giai đoạn từ 2000-2010 được coi là thời kỳ mang tính đột phá trong thực
hiện mục tiêu KT- XH của huyện Vĩnh Tường. Giá trị sản xuất năm 2010 ước đạt
2.300 tỷ đồng, tăng gấp 5,5 lần so với năm 2000. Đặc biệt, từ năm 2006, Vĩnh
Tường khai thác tốt các tiềm năng nội lực, tạo mức tăng trưởng kinh tế bình
quân 23,7%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5,2 triệu đồng năm 2005
lên 15,6 triệu đồng năm 2010. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá cố định
1994) từ 133.365 triệu đồng (năm 2006) tăng lên 839.014 triệu đồng (năm 2010),
tăng 705.649 triệu đồng; trong đó: Công nghiệp khai thác mỏ (khai thác cát, sỏi):
từ 676 triệu đồng (năm 2006) tăng lên 8.452 triệu đồng (năm 2010); Công
nghiệp chế biến (Chế biến thực phẩm, đồ uống, sản xuất tơ tằm, chế biến và sản
xuất từ tre nứa, gạch ngói, phế liệu sắt thép, bao bì đựng hàng...): tăng từ
132.689 triệu đồng (năm 2006) lên 818.563 triệu đồng (năm 2010).
Các làng nghề truyền thống tiếp tục được duy trì và ngày càng phát triển:
Đến nay, huyện có 07 làng nghề (làng nghề rèn Bàn Mạch, mộc Vân Giang, mộc
Văn Hà của xã Lý Nhân; làng nghề mộc Bịch Chế móc Thủ Độ xã An Tường;
làng nghề rắn xã Vĩnh Sơn; làng nghề cơ khí, vận tải biệt An xã Việt Xuân) và có

07 Nghệ nhân(trong đó có 02 nghệ nhân cấp quốc gia) và 41 thợ giỏi đã được
UBND tỉnh Vĩnh Phúc công nhận.
Lĩnh vực Thương mại - Dịch vụ: Trong 5 năm (2005-2010), tốc độ tăng
trưởng của ngành thương mại - dịch vụ đạt 32,7% (đứng thứ 2 về tốc
độ tăng trưởng sau công nghiệp - xây dựng), đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu tỷ
trọng các ngành kinh tế; Điểm nhấn quan trọng nhất trong lĩnh vực thương mại dịch vụ là thị trấn Thổ Tang, đây được coi là điểm sáng" của cả nước về hoạt
động buôn bán, giao lưu trao đổi hàng hóa, nhất là về mặt hàng nông sản. Đến
nay, dự án xây dựng Chợ đầu mối nông sản thực phẩm, hệ thống kho vận Vĩnh
Tường đã được quy hoạch. Năm 2010, Chi hội Doanh nghiệp Vĩnh Tường được
thành lập với mục tiêu, nhiệm vụ gắn kết giữa các doanh nghiệp phát triển trong
hợp tác kinh doanh, làm cầu nối giữa Nhà nước - doanh nghiệp - nhà khoa học
11


và người dân để có những định hướng phát triển kinh tế, thu hút đầu tư, khuyến
khích các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế chung của
huyện.
Về phát triên giao thông:
Huyện có mạng lưới giao thông đường bộ tương đối hoàn chỉnh, trong đó
có các tuyến như: quốc lộ 2A, quốc lộ 2C; tỉnh lộ 304, 309; đường sắt thành phố
Hà Nội - Lào Cai chạy qua. Điều này thuận tiện cho việc lưu thông tiêu thụ nông
sản, hàng hoá của huyện. Bên cạnh đó, hệ thống của các sông Hồng, sông Đáy,
sông Lô cũng góp phần làm cho việc giao thông đường thuỷ thêm thuận tiện.
Thực hiện công cuộc đổi mới, Vĩnh Tường luôn chú trọng xây dựng các
công trình hạ tầng quan trọng. Hệ thống đường bộ được phân bổ tương đối phù
hợp đường Ô tô đến được tất cả các xã, thị trấn. Tổng số chiều dài đường bộ là
1.209,44 km, đường giao thông nông thôn (GTNT) chiếm 88% với 1.066,74 km,
trong đó đường xã là 86,07 km, đường thôn là 192,5 km, đường xóm là 287,97
km, đường giao thông nội đồng là 500,2 km.
Được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, phong trào làm đường GTNT

giai đoạn 2007-2010 đạt 49% giá trị đề án, đưa tổng số đường GTNT được xây
dựng cứng hóa giai đoạn 2007-2010 là 174,84 km. Trong đó, đường xã cứng hóa
100%, đường thôn cứng hoá 92%, đường xóm ngõ cứng hóa 96%, đường nội
đồng cứng hóa đạt 22%. Xây dựng GTNT đã góp phần quan trọng trong quá
trình phát triển KT-XH, khắc phục được tình trạng chênh lệch về trình độ phát
triển KT-XH, đời sống văn hóa ở nông thôn, từng bước nâng cao cuộc sống của
người dân.
Cùng với những thành tích đã đạt được trong phong trào xây dựng GTNT,
từ năm 2007 đến nay, huyện Vĩnh Tường là đơn vị có thành tích xuất sắc và
được tặng cờ thi đua của Chính phủ (năm 2006 và năm 2008),Bằng khen của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải (năm 2009), Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh
Vĩnh Phúc (năm 2007), Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh (năm 2010). Vĩnh
Tường luôn được đánh giá là huyện dẫn đầu về đầu tư xây dựng, phát triển giao
thông trên địa bàn tỉnh.
Hiện nay, huyện đang tiếp tục triển khai việc quy hoạch cụm công nghiệp,
các cụm kinh tế xã hội để góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng
hướng.

12



×