Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Hoạt động tổ chức tín dụng của các doanh nghiệp tài chính Việt Nam từ 2014 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
********

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC : TIỀN TỆ – NGÂN HÀNG
Giảng viên : Ths. Vũ Ngọc Hương
CHỦ ĐỀ : Nhóm viết báo cáo nghiên cứu về “Hoạt động của các tổ chức tài chính

Việt Nam” giai đoạn 2014- nay
Nhóm công ty tài chính
Họ và tên thành viên:
Hoàng Thị Hồng Hiển (nhóm trưởng): 17A4000193
Đậu Thị Phương Thảo

: 17A4000488


Mục lục

PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1

Khái niệm công ty tài chính

Theo Frederich S Min Kin: Công ty Tài chính là “Công ty thu hút vốn bằng cách
phát hành thương phiếu hoặc cổ phiếu và trái khoán (thường là các món tiền nhỏ) đặc biệt
thích hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp và người tiêu dùng”.
Theo NĐ- CP số 79/2002 thì Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để
cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch
vụ khác theo qui định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không


được nhận tiền gửi dưới một năm.
Mục đích thành lập

1.2
-

Thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo vốn cho nền kih tế.

-

Khai thác được nhiều nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triền và sản xuất kinh
doanh

-

Kênh dẫn vốn cho đầu tư quốc tế và các dự án đầu tư.

1.3 Đặc điểm của công ty tài chính


Tại Việt Nam, hiện có đầy đủ các tổ chức trung gian tài chính như NHTM, công ty
chứng khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư. Tuy nhiên do độ mở nền
kinh tế, việc tổ chức này mở rộng quy mô hoạt động cũng như phát triển các loại hình
dịch vụ làm cho việc phân biệt các loại hình này trở nên khó khăn đặc biệt là giữa CTTC
và NHTM.
Hiện nay, các lĩnh vực hoạt động của CTTC gần giống như ngân hàng chỉ có một số
hạn chế như không có dịch vụ thanh toán và nhận tiền gửi dưới 1 năm. Tuy nhiên, việc
phân định 2 loại hình này ta có thể dựa vào đặc điểm khác biệt về đặc điểm theo quy định
của Chính phú.


1.3.1 Bản chất và phạm vi hoạt động
- Là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có
vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về
tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng
không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm.
- Được mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước, ngoài nước sau khi được
Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
- Được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập để hoạt
động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và tư vấn theo quy định
của pháp luật
1.3.2 Mức vốn pháp định
- Công ty tài chính có vốn pháp định, song ta biết vốn pháp định của công ty tài
chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngày 22/11/2006 của Chính
phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày Nghị định


141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức
vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt
động sau ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng.
- Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không
được hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn
này chỉ được giải tỏa sau khi Công ty Tài chính khai trương hoạt động.
1.3.3. Loại hình tổ chức hoạt động
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính phủ phân chia công ty tài
chính thành:
-

Công ty tài chính nhà nước

-


Công ty tài chính cổ phần,

-

Công ty tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng

-

Công ty tài chính liên doanh

-

Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài.

Cách phân chia này hiện không còn tương thích với Luật Doanh nghiệp hiện hành ở
Việt Nam. Theo dự thảo sửa đổi Nghị định hướng dẫn của Chính phủ, quy định công ty
tài chính chỉ được thành lập theo một trong ba loại hình sau:
-

Công ty tài chính TNHH một thành viên

-

Công ty tài chính TNHH hai thành viên trở lên

-

Công ty tài chính cổ phần.


Xét ở khía cạnh nào đó thì ngân hàng hoạt động như một doanh nghiệp. Tuy nhiên,
xét về tính chất và mục tiêu hoạt động, ngân hàng lại chia thành ngân hàng thương mại,


ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các
loại hình ngân hàng khác.
1.3.4. Thời hạn hoạt động
- Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia hạn
thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhưng mỗi lần
gia hạn không quá 50 năm.
1.3.5. Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại
- Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức độ
thấp. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại nước ngoài và công ty tài chính
nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100%
vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính
liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD
vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn.
- Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty.
=> Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay
nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng.
- Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì
khả năng xảy ra rủi ro là không lớn.

PHẦN 2: HOẠT ĐỘNG CÔNG TY TÀI CHÍNH
2.1 Hoạt động huy động vốn:
Các hoạt động huy động vốn của công ty tài chính :
-

Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo qui định
Ngân hàng Nhà nước.



-

Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo qui

-

định của pháp luật hiện hành.
Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài

-

chính quốc tế.
Tiếp nhận vốn uỷ thác của chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước.

2.2 Hoạt động tín dụng
2.2.1 Hoạt động cho vay

Theo nghị định 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính
ban hành ngày 04/10/2002, có hiệu lực ngày 19/10/2002: Công ty tài chính được
cho vay dưới các hình thức:
-

Cho vay theo kỳ hạn: ngắn hạn, trung và dài hạn
Cho vay theo uỷ thác của chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước

-


theo qui định hiện hành và hợp đồng uỷ thác.
Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp

Công ty tài chính có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn trên cơ sở cân đối
nguồn vốn trung và dài hạn, không sử dụng vốn vay ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống.
2.2.2 Hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác
-

Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác.

-

Cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các

-

giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân.
Công ty Tài chính và các tổ chức tín dụng khác tái chiết khấu, cầm cố thương
phiếu, trái phiếu và các giấy tờ khác cho nhau.

2.3 Hoạt động đầu tư
Đầu tư dự án: Đàu tư vào những ngành thế mạnh như hạ tầng cơ sở , bất động sản ,
thủy điện năng lương đầu khí, khách sạn du lịch cao cấp.....


Ủy thác đầu tư bao gồm ủy thác có chia sẻ rủi ro, không chia sẻ rủi ro, đầu tư lợi
tưc cố định.

-

Mua bán chững từ có giá, hợp đồng quyền bán chứng khoán.

-

Nghiệp vụ trái phiếu: Phân phối trái phiếu, tạo lập thị trường trái phiếu
2.4 Bảo lãnh :

Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với
người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện theo quy
định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân
hàng Nhà nước.
Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh hoàn trả tiền ững trước
Bảo lãnh đối xứng
Xác nhận bảo lãnh
2.5 Các hoạt động khác
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các Tỏ chức Tín dụng khác.
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng
- Tham gia thị trường tiền tệ.
- Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng
- Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh
-

-


nghiệp.
Nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá

-

nhân theo hợp đồng.
Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách

-

hàng
Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ.

PHẦN 3: THỰC TRẠNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2014 ĐẾN NAY


Nhu cầu vốn tiêu dùng ngày càng gia tăng, song không phải khách hàng nào cũng
có thể đáp ứng đủ điều kiện tín dụng ngân hàng đưa ra để tiếp cận được vốn. Vì vậy,
không ít người đã tìm đến công ty tài chính để được hỗ trợ vốn vay tiêu dùng.
Công ty Chứng khoán Bản Việt tính toán, tỉ lệ thu nhập lãi thuần của phân khúc
cho vay tiêu dùng đạt khoảng 20% so trung bình ngành ngân hàng là 2,9%, tức gấp gần 7
lần ngân hàng. Chính mức lãi hấp dẫn này khiến cuộc cạnh tranh của thị trường này cũng
ngày một gay gắt hơn.
Cuối năm 2014, NHNN ra dự thảo yêu cầu Ngân hàng thương mại có nhu cầu cấp
tín dụng tiêu dùng cho những đối tượng khách hàng phi chuẩn phải thành lập công ty tài
chính.
Từ đó đến nay, hàng loạt các ngân hàng đổ xô đi mua công ty tài chính tiêu dùng.

Mở màn là HDBank mua lại công ty Công ty Tài chính Việt Société Générale (SGVF)
sau đó chuyển thành HDFinance có vốn điều lệ 550 tỷ, sau đó HDBank bán 49% cổ phần
của HDFinance cho tập đoàn Credit Saison (Nhật Bản) và 1% cho công ty chứng khoán
HSC, sau thương vụ này HDFinance đổi sang thương hiệu HD Saison.
Thương vụ thứ hai diễn ra vào tháng 6/2015 là Techcombank mua lại công ty tài
chính cổ phần Hóa Chất (VCFC) của Tập đoàn hóa chất và chuyển thành Công ty tài
chính TNHH MTV Kỹ thương (Techcom Finance) vốn 600 tỷ đồng.
Cũng trong tháng 6/2015, Maritime Bank mua lại Công ty tài chính cổ phần Dêt may
(TFC) của Tập đoàn Dệt may và đổi thành công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng
TMCP Hàng hải Việt Nam.
Thương vụ thứ tư, VPBank mua lại Công ty TNHH MTV Tài chính Than Khoáng
sản Việt Nam (CMF) và đổi tên thành Công ty Tài chính NH VPBank (VPB FC – FE
Credit), vốn 1.000 tỷ.
Thương vụ thứ 5, SHB mua lại công ty tài chính Viettel Vinaconex sau đó SHB
xin lập công ty tài chính 1.000 tỷ SHB Finance.
Thứ sáu, vào đầu tháng 3 năm 2016, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội đã
chính thức sáp nhập Công ty tài chính cổ phần Sông Đà (SDFC) và đổi tên thành Công ty
Tài chính TNHH MTV MB (M Finance) với số vốn 500 tỷ đồng.
Như vậy, sau hàng loạt sự ra đời của các công ty tài chính mới cũng như những
cuộc sát nhập,thì cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, Việt Nam có 16 công ty tài chính
đang hoạt động.
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY TÀI CHÍNH
(Đến 31/12/2016)


Đơn vị: Tỷ đồng
TT

Vốn điều
TT

lệ

Tên công ty

(Post
and
Telecommunication
Fiannce
Company
Limited)

500

9

(Maritime Bank Finance
Company Limited)

500

10

(tên cũ: Công ty tài
chính cổ phần Dệt may
Việt Nam)
Công ty tài chính cổ
phần Điện Lực
3

(EVN Finance

Stock Company.)

Joint

Công ty tài chính cổ
phần Handico
4

(Handico Finance Joint
Stock Company)

2.500

550

5

600

11

Công ty tài chính TNHH
MTV Mirae Asset (Việt

550

12

13


500

14

616,2

(Prudential Vietnam Finance
Company Limited)

(JACCS
International
Vietnam Finance Company
Limited)
Công ty tài chính TNHH
MTV Công nghiệp Tàu thuỷ

(tên cũ: Công ty tài
chính cổ phần Hoá chất)
6

Công ty tài chính TNHH
MTV Prudential Việt Nam
(100% vốn nước ngoài)

Công ty tài chính TNHH
MTV Quốc tế Việt Nam
JACCS

Công ty tài chính TNHH
MTV Kỹ thương

(Vietnam
Chemical
Finance Joint Stock
Company)

(Home
Credit
Vietnam
Finance Company Limited)
(Tên cũ: Công ty tài chính
TNHH MTV PPF Việt Nam)

Công ty tài chính TNHH
MTV Ngân hàng TMCP
Hàng Hải Việt Nam
2

Vốn điều
lệ

Công ty tài chính TNHH
MTV Home credit Việt Nam
(100% vốn nước ngoài)

Công ty tài chính TNHH
MTV Bưu điện
1

Tên công ty


(Vietnam
Shipbuilding
Finance Company Limited)
Công ty tài chính TNHH
MTV Toyota Việt Nam
(100% vốn nước ngoài)

550

2.523

500

(Toyota Financial Services
Vietnam Company Limited)
Công ty tài chính cổ phần
Vinaconex-Viettel

1.000


Nam) (100% vốn nước
ngoài)

(Vinaconex-Viettel Finance
Joint Stock Company)

(Mirae Asset Finance
Company
(Vietnam)

Limited)
Công ty tài chính TNHH
MTV Ngân hàng Việt
Nam Thịnh Vượng
7

(VPBank
Finance
Company Limited)

2.790

Công ty tài chính cổ phần Xi
Măng
15

(Tên cũ: Công ty TNHH
MTV tài chính Than –
Khoáng sản.)

(Cement Finance Joint Stock
Company)

605

Công ty tài chính TNHH
HD Saison
(Tên cũ: Công ty tài
800
8 chính TNHH MTV

Ngân hàng TMCP Phát
triển TP Hồ Chí Minh
(HD Finance))
Nguồn: Thống kê của NHNN Việt Nam

16

Công ty tài chính TNHH
MTV Ngân hàng Quân đội

500

Nhờ sự ra đời của những công ty tài chính mới và sự sát nhập, mà tổ chức tín dụng
này có nhiều sự thay đổi to lớn về quy mô, tổ chức,…. Thông qua đó, đạt được những thành
tựu đáng chú ý trong những năm gần đây.
Theo số liệu thống kê một số chỉ tiêu tài chính cơ bản hệ thống tín dụng của
NHNN, tính đến cuối tháng 12/2016, tổng tài sản của toàn hệ thống tín dụng đã tăng hơn
16% so với đầu năm, vượt mức 8,5 triệu tỷ đồng, tương đương hơn 378 tỷ USD.
Hơn 45% tổng tài sản toàn hệ thống các TCTD tới từ nhóm ngân hàng thương mại
Nhà nước, nhóm thương mại cổ phần đứng thứ 2 với chiếm hơn 40%.
Trong năm 2016, tất cả TCTD trong hệ thống đều ghi nhận tổng tài sản tăng
trưởng so với giai đoạn đầu năm. Trong đó, nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước và
thương mại cổ phần cùng có mức tăng trưởng xấp xỉ 17% lần lượt đạt 3,86 triệu tỷ đồng
và 3,42 triệu tỷ đồng.


Cũng sở hữu đà tăng tổng tài sản tương đối ấn tượng là các ngân hàng liên doanh,
ngân hàng nước ngoài với mức tăng gần 10% đạt hơn 828.322 tỷ đồng.
Với việc tăng mạnh hoạt động cho vay tài chính tiêu dùng và nhiều công ty tài
chính được thành lập trong năm 2016, tổng tài sản nhóm công ty tài chính và cho thuê tài

chính đã tăng hơn 30% so với đầu năm đạt mức 114.370 tỷ đồng. Đây cũng là nhóm
TCTD có mức tăng trưởng tổng tài sản mạnh nhất.
Cùng với mức tăng tổng tài sản, vốn điều lệ toàn hệ thống TCTD trong năm qua
cũng tăng hơn 6% so với đầu năm đạt 488.424 tỷ đồng. Trong đó, TCTD có vốn điều lệ
lớn nhất chính là Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) với hơn 37.234
tỷ đồng.
Tổng vốn điều lệ tại các ngân hàng thương mại Nhà nước đạt 146.543 tỷ đồng,
tương đương mức tăng gần 7% so với đầu năm. Nhóm ngân hàng thương mại cổ phần
tăng 3,6% lên mức 200.855 tỷ đồng. Các ngân hàng liên doanh, liên kết, ngân hàng nước
ngoài, vốn điều lệ trong năm 2016 đã tăng 11% đạt mức 104.103 tỷ đồng.
Các công ty tài chính và cho thuê tài chính ghi nhận 19.701 tỷ đồng vốn điều lệ,
tăng 7% so với đầu năm 2016. Ngoài ra, quỹ tín dụng nhân dân cũng ghi nhận sự gia tăng
13% vốn điều lệ, đạt 3.502 tỷ đồng.
Một chỉ số đặc biệt quan trọng trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam đó là tỷ lệ
vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn của toàn hệ thống hiện ở mức 35%. Với nghiệp vụ
chính là huy động tiền trong dân cư rồi cho vay, nhóm ngân hàng chính và công ty tài
chính là nhóm có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn cao hơn mức trung bình của
hệ thống.
Cụ thể, tỷ lệ này tại các ngân hàng thương mại Nhà nước là 37% và ngân hàng
thương mại cổ phần xấp xỉ 40%, tại các công ty tài chính và cho thuê tài chính với đặc
thù cho vay tín dụng tiêu dùng nên tỷ lệ này là hơn 45%.


Ngoài ra, ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước tiếp tục là nhóm có tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu thấp (CAR) nhất dưới 10%, trong khi nhóm ngân hàng liên doanh, liên
kết và ngân hàng nước ngoài là nhóm có tỷ lệ lên tới 33%.
Đến tháng 5 năm 2017, theo thống kê của NHNN, các chỉ tiêu trên tiếp tục có sự
thay đổi theo hướng tích cực.

Loại TCTD


Tổng tài sản có
Số tuyệt Tốc
đối
độ
tăng
(Tỷ đồng) trưởn
g

Vốn tự có
Số
tuyệt
đối
(Tỷ
đồng)

(%)
NHTM
Nhà nước
Ngân hàng
Chính
sách

hội
NHTM Cổ
phần

4,076,004

5.54


173,464

8.68

3,610,798

5.49

Tốc
độ
tăng
trưởn
g
(%)

242,582

269,464

5.70

6.03

Vốn điều lệ

Tỷ lệ an Tỷ lệ
toàn vốn vốn
Số tuyệt Tốc độ tối thiểu ngắn
đối

tăng
hạn
trưởng
cho
(Tỷ đồng)
vay
(%)
(%)
trung,
dài hạn
147,653

0.76

10,696

0.00

203,335

1.24

9.76

37.16

11.46

35.76



NH Liên
doanh,
nước
ngoài
Công ty tài
chính, cho
thuê
Ngân hàng
Hợp tác xã
Quỹ
tín
dụng nhân
dân
Toàn HT

858,120

3.60

144,274

10.17

111,917

7.51

34.31


-

126,028

10.19

21,375

0.06

19,204

-2.52

18.75

47.94

25,600

-2.98

3,695

0.02

3,025

0.01


28.18

21.26

97,145

7.80

3,724

6.32

8,967,158

5.45

499,553

2.28

12.66

33.35

681,390

6.52

Nguồn: Thống kê của NHNN Việt Nam
Bằng sự phát triển vượt bậc, nhóm công ty tài chính đã có những đóng góp ngày

càng nhiều hơn về cả mặt kinh tế và xã hội cho Việt Nam.
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ riêng dư nợ tín dụng của nhóm các công ty tài chính
đang chi phối thị trường gồm FE Credit, Home Credit, HD Saison, Prudential Finance đã
đạt khoảng 2,5 – 2,7 tỷ USD trong năm 2016, tương đương khoảng 50.000 tỷ đồng. Con
số dù chỉ chiếm khoảng 0,1% tổng dư nợ của nền kinh tế nhưng lại có ý nghĩa quan trọng
vì phân khúc mà các khoản vay này dành cho là những người có thu nhập thấp, không có
tài sản đảm bảo – đối tượng không thể tiếp cận được với tín dụng của ngân hàng.
Việc cấp vốn cho các đối tượng là khách hàng dưới chuẩn này giúp bản thân các
khách hàng giải ngay được bài toán về vốn, thoát khỏi tình trạng phải phụ thuộc vào tín
dụng đen với lãi suất “cắt cổ”, lại vừa giúp cho nền kinh tế bớt đi gánh nặng trong việc
tìm kiếm nguồn vốn để phục vụ các đối tượng đó, đồng thời giúp giảm đi đáng kể các
tình trạng bất ổn trong xã hội do tín dụng đen gây nên bấy lâu nay.


Các công ty tài chính với nhu cầu nhân lực lớn đã giúp xã hội giải quyết bớt phần
nào vấn đề việc làm.
Thống kê cho thấy, riêng Fe Credit đã có hơn 15.000 nhân viên, tương đương nhân
sự của Vietcombank và cao hơn tất cả các ngân hàng cổ phần tư nhân khác, ngoại trừ
Sacombank.
Home Credit Việt Nam có hơn 10.000 nhân viên, tương đương số nhân sự của
VPBank và nhiều hơn nhân sự của Techcombank, Ngân hàng Quân đội, VIB…
Công ty tài chính HD Saison – liên doanh giữa công ty tài chính của HDBank với
Credit Saison của Nhật – cũng có tới hơn 9.000 nhân sự.
Công ty tài chính Prudential không cho biết số lượng nhân sự cụ thể, tuy nhiên
dựa vào thị phần tương đương HD Saison thì thấy rằng số nhận sự cũng không dưới vài
nghìn người.
Như vậy, riêng nhóm các công ty tài chính đang dẫn đầu thị trường đã có số nhân
sự lên đến gần 40.000 người – một con số khổng lồ. Ở các công ty tài chính khác chiếm
thị phần nhỏ và mới thành lập, nhân sự cũng lên đến hàng nghìn người.
Bên cạnh những đóng góp tích cực, các công ty tài chính vẫn tồn tại một số hạn

chế, làm ngăn cản sự phát triển của nhóm tổ chức này.
Hiện nay, mức lãi suất cho vay của ngân hàng và các công ty tài chính có sự chênh
lệch rõ ràng. Các ngân hàng hiện nay thường cho vay phổ biến với hai hình thức là vay
tín chấp (vay không cần tài sản đảm bảo) và vay thế chấp (vay có tài sản bảo đảm). Với 2
hình thức vay này, lãi suất vay ngân hàng đang áp dụng khác nhau, tùy thuộc vào từng
chương trình khuyến mãi của từng ngân hàng. Cụ thể, các ngân hàng đang áp dụng mức
lãi suất từ 5%-6%/năm với hình thức cho vay thế chấp còn vay tín chấp là 13% –
15%/năm. Còn mức lãi suất cho vay tiền của các công ty tài chính rất khác nhau và cao
hơn ngân hàng nhiều, khoảng từ 30%-40%/năm, có khi đến 60%.


Không phải ngẫu nhiên mà có sự chênh lệch lãi suất lớn như thế. Việc cho vay với
lãi suất cao hơn nhiều so với các ngân hàng được giải thích rằng có 3 nguyên nhân cơ
bản:
Thứ nhất, chi phí đầu vào của các công ty tài chính cao hơn chi phí huy động vốn
của các ngân hàng thương mại.
Ở nước ta hiện tại, trong khi các ngân hàng càng dễ dàng huy động nguồn vốn
bao nhiêu, thì các tổ chức tài chính càng khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn huy
động bấy nhiêu. Khách hàng vay vốn thường lựa chọn các ngân hàng vì họ có niềm tin
vào tổ chức này hơn. Ngoài ra, các ngân hàng cũng thường xuyên đưa ra những chương
trình vay vốn ưu đãi hấp dẫn dành cho khách hàng để gia tăng nguồn vốn huy động. Điều
đặc biệt là, quan niệm gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng dường như đã in sâu vào tâm trí
của người dân. Cùng với đó là quy định các công ty tài chính không được huy động vốn
bằng các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài
khoản của khách hàng. Từ những lý do đó mà các tổ chức tài chính gặp nhiều khó khăn
để có được một nguồn vốn huy động. Các công ty tài chính thường hay huy động vốn
bằng cách vay lại từ các ngân hàng, hay nguồn vốn được tạo ra từ hình thức phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu, tín phiếu nên chi phí vốn đầu vào tất nhiên cao hơn nhiều so với ngân
hàng.
Thứ hai, rủi ro cho vay cao thì lãi suất vay càng lớn.

Những đối tượng khách hàng đi vay ngân hàng thường là những đối tượng có lịch
sử tín dụng tốt, họ thường có thời gian để chuẩn bị hồ sơ vay một cách rõ ràng. Hơn nữa,
các ngân hàng thường có các điều kiện vay khắt khe hơn, nên hồ sơ cần chuẩn bị rất đầy
đủ, kĩ càng. Còn đối với các tổ chức tín dụng, yêu cầu đơn giản hơn nên hồ sơ cần chuẩn
bị cũng nhanh chóng hơn.
Những người lựa chọn vay tại đây thường là những người vay tiền phục vụ cho
những trường hợp khẩn cấp hoặc họ không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của các ngân


hàng. Chính vì lý do này nên rủi ro trong việc thu hồi vốn giữa ngân hàng và tổ chức tài
chính cũng có sự chênh lệch nên lãi suất cho vay khác nhau là chuyện đương nhiên.
Nếu lãi suất cho vay của mỗi ngân hàng thường có một mức cố định dành cho
khách hàng vay vốn thì mỗi công ty tài chính lại có nhiều mức lãi suất khác nhau, dựa
vào lịch sử tín dụng, đặc thù của sản phẩm vay, khả năng chi trả của từng khách hàng.
Những khách hàng nào có thể chứng minh khả năng trả nợ cao sẽ được hưởng mức lãi
suất cho vay của công ty tài chính tương đối thấp. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay cũng phụ
thuộc vào thời gian vay hay khoản trả trước.
Thứ ba, đặc thù sản phẩm cho vay khác nhau.
Mặc dù, nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính đang ngày càng cố gắng mở rộng
phạm vi đối tượng khách hàng của mình, tạo sự đa dạng cho sản phẩm để phục vụ khách
hàng, nhưng cho đến thời điểm này, các sản phẩm cho vay giữa hai tổ chức này vẫn có
những sự khác nhau nhiều.
Các ngân hàng hiện nay đều hướng đến các đối tượng vay mua nhà, vay mua ô tô,
với các khoản tiền vay lớn, thời gian vay vốn kéo dài, và có tài sản đảm bảo khi vay để
được hưởng mức lãi suất thấp nhất. Còn với các tổ chức tài chính, họ hướng đến khách
hàng có nhu cầu vay các khoản nhỏ lẻ, thời gian ngắn như vay vốn tiêu dùng để mua sản
phẩm thông thường như đồ điện tử, xe máy… dẫn đến các chi phí thẩm định, chi phí đòi
nợ, chi phí quản lý khoản vay, chi phí phục vụ cao hơn bình thường.
Nguồn bài viết:










PHẦN 4 : PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH, HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ ĐINH HƯỚNG
4.1 Tình hình hoạt động những năm gần đây
Năm 1998 Công ty tài chính đầu tiên tại Việt Nam ra đời mang tên “Công ty Tài
Chính Cao su( cấp phép 6/10/1998), tiếp đến công ty TNHH một thành viên tài chính
Bưu Điện( cấp phép 10/10/1998) .Đến năm 2010 có 18 CTTC và đến nay có thêm nhiều
công ty tài chính khác nhau nữa
Công ty tài chính tuy mới chỉ được thành lập khoảng hơn 10 năm cho tới nay
nhưng đã mang lại những thành tựu đáng kể cho thị trường tài chính cũng như góp phần
hoàn thiện hơn nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hội nhập như hiện nay. Chúng ta
có thể kể đến những thành tựu mà công ty tài chính đã mang lại:
 Thứ nhất: Với nghiệp vụ huy động vốn và cho vay các công ty tài chính

huy động được một lượng vốn khá lớn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các
công ty, doanh nghiệp để triển khai các dự án đầu tư đúng tốc độ tạo điều
kiện tiền đề phát triển kinh tế của đất nước.
 Thứ hai: Các công ty tài chính nhận chiết khấu tái chiết khấu các giấy tờ có
giá tạo điều kiện giúp đỡ các công ty doanh nghiệp bù đắp lượng vốn thiếu


hụt tạm thời, tăng tốc độ quay vòng vốn tạo ra thêm nhiều hàng hóa để đáp
ứng cho thị trường.

 Thứ ba: Các công ty tài chính dùng nguồn vốn huy động được đem đi đầu
tư phát triển kinh tế đất nước.
 Thứ tư: Các Công ty tài chính có thể bảo lãnh một hoặc nhiều công ty phát
hành trái phiếu ra thị trường đảm bảo an toàn về rủi ro trả nợ cho các trái
phiếu tạo tính thanh khoản cho trái phiếu ở ngoài thị trường.
4.2 Mô hình hoạt động công ty tài chính điển hình tại Việt Nam
Tổng công ty Tài Chính cổ phần Dầu khí Việt Nam( PVFC)
-

PVFC được thành lập đi vào hoạt động 19/06/2000 là một công ty tài chính tiêu
biểu tại Việt Nam, ra đời với phương châm hoạt động vì sự phát triển vững mạnh

-

của tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Là công ty có 100% vốn nhà nước, khởi nghiệp với vốn điều lệ 100 tỷ đồng, sau 7
năm vốn đã tăng lên gấp 30 lần đạt tới 3.000 tỷ đồng, trên cơ sở đó đã thu xếp vốn
cho các dự án nghành dầu khí với con số đáng khâm phục 6.700 tỷ đồng. Hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh hàng đầu và nhiệm vụ trọng tâm là bảo đảm nguồn vốn

-

cho sự phát triển vượt bậc của PVN
Thực hiện sứ mệnh quan trọng là thu xếp nguồn vốn PVFC đã chủ động hợp tác
với các tổ chức tín dụng, định chế tài chính lớn trong và ngoài nước; xây dựng và
triển khai kế hoạch, thu xếp vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu về vốn cho các đơn vị
thành viên triển khai các dự án đầu tư đúng tiến độ, đảm bảo yêu cầu tăng trưởng
của ngành dầu khí.
Những giải thưởng mà PVFC đã đạt được trong quá trình hoạt động kinh doanh:
- Huân chương Lao động hạng nhì(19/06/2010)

- Giải sao vàng Đất Việt liên tiếp các năm 2005,2007,2008,2009,2010
- Top 10 thương hiệu nổi tiếng Quốc gia năm 2010
- Qủa cầu Vàng 2007
- Được xếp hạng công ty Nhà nước loại 1 ngày 15/12/2005


- Doanh nghiệp Thương mại Dịch vụ Xuất sắc – Top Trade Services: các năm
2007, 2009( đứng thứ 4 trong top 10 DN xuất sắc)
......
4.3 Định hướng và đề xuất giải pháp
Hiện nay, còn tồn tại một số vấn đề ở các công ty tài chính Việt Nam như các công
ty tài chính chưa hoàn thành tốt những nhiện vụ quan trọng mà tập đoàn giao; đặc biệt
trước yêu cầu và đòi hỏi ngày càng cao về tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả.
Trong thời gian qua, tỷ lẹ thu xếp vốn thành công trên tổng nhu cầu về vốn cần thu xếp
của tập đoàn thấp. Đặc biệt các dự án có quy mô lớn, các công ty tài chính chưa có khả
năng thu xếp, hình thức thu xếp còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, nhiều hình thức như
vay tài trợ xuất khẩu, huy động vốn từ các tổ chức quốc tế chưa triển khai...
Nguyên nhân là do các tập đoàn kinh tế chưa có định hướng phát triển công ty tài
chính và chưa có cơ chế vận hành phù hợp. Cơ cấu tổ chức công ty tài chính chưa hợp lí,
còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh với các trung gian
tài chính khác trong tập đoàn.Vai trò vị thế tài chính chưa được phát huy triệt để.
4.3.1 Đối với công ty tài chính
Cần định hướng rõ ràng về mô hình và cơ chế hoạt động của công ty tài chính
trong tập đoàn kinh tế
Có giải pháp để phát triển hoạt động
-

Đa dạng hóa các hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng, hiện đại hóa các

-


nghiệp vụ
Chủ động trong quá trình tìm kiếm khách hàng để từ đó tạo được sự phát triển

-

nhanh và bền vững.
Coi trọng chiến lực phát triển nguồn nhân lực đặt trong công tác tuyển dụng, đào

-

tạo đội ngũ với chế độ đãi ngộ hợp lý, môi trường văn minh hiện đại.
Xây dựng văn hóa công ty góp phàn nâng cao bộ mặt công ty chuyên về lĩnh vực
tài chính.


4.3.2 Đối với Nhà nước
-

Tạo ra môi trường pháp lý và mối tương quan kinh tế thuận lợi
Tiếp tục duy trì sự ổn định nền kinh tế, phát triển các yếu tố cơ sở.

4.3.3.Đối với Ngân hàng Nhà nước
-

Sửa đổi những bất hợp lý trong các bộ luật nghị định để trình Quốc Hội xem xét,

-

sửa đổi tạo điều kiện hơn cho hoạt động của các công ty tài chính.

Hoàn thiện các quy chế và tiến hành giám sát chặt chẽ sự hoạt động của các Công

-

ty tài chính ( về quy chế an toàn, dự phòng rủi ro, thanh tra giám sát...)
Có biện pháp hỗ trợ nhằm duy trì lòng tin của công chúng.

4.3.4 Đối với các Tổng công ty chủ quản của các công ty tài chính .
-

Ủy thác cho Công ty tài chính đại diện trong huy động vốn từ các tổ chức tín dụng

ủy thác cho Công ty tài chính quản lý nguồn vốn tự tích lũy.
-

Giao cho Công ty tài chính xây dựng các phương án huy động vốn phát hành trái

phiếu và các nghiệp vụ liên quan.
-

Tạo lậo cơ chế điều hòa vốn nhàn rỗi giao cho Công ty tài chính xây dựng

phương án và tổ chức thực hiện, từng bước giao cho Công ty tài chính quản lý các quỹ,
phân tiền tạm thời nhàn rỗi.
-

Tăng vốn Điều lệ cho các Công ty tài chính nhằm mở rộng năng lực của các Tổng

Công ty tài chính.
-


Hoàn chỉnh chiến lược phát triển của các Tổng Công ty, tích cực triển khai mô

hình tập đoàn kinh tế trong đó có xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
Công ty tài chính.



×