VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VĂN THỊNH
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VĂN THỊNH
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS VÕ KHÁNH VINH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan bài luận văn là công trình nghiên cứu của tôi.
Nội dung của bài luận văn và các số liệu chứng minh là trung thực, không
sao chép từ bất cứ các công trình nào khác.
Người cam đoan
Bùi Văn Thịnh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH
SỰ........................................................................................................................... 7
1.1. Người bào chữa trong Tố tụng hình sự ....................................................... 7
1.2. Người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ............................20
1.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của người bào
chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự .....................................................25
1.4. Những yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự ...........................................................................................31
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH...................................................................................................................36
2.1. Khái quát thực tiễn hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh .....................................36
2.2. Kết quả hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh .......................................................40
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
trong hoạt động của người bào chữa ở giai đoạn xét xử phúc thẩm tại Thành
phố Hồ Chí Minh ..............................................................................................44
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
..............................................................................................................................60
3.1. Quan điểm nâng cao vai trò của người bào chữa trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự...................................................................................60
3.2. Các giải pháp nâng cao hoạt động của người bào chữa trong giai đoạn xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự .............................................................................62
KẾT LUẬN .........................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................72
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
- BCVND
Bào chữa viên nhân dân
- CQĐT
Cơ quan điều tra
- CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
- HĐXX
Hội đồng xét xử
- HLPL
Hiệu lực pháp luật
- NBC
Người bào chữa
- NĐDHP
Người đại diện hợp pháp
- TA
Tòa án
- TAND
Tòa án nhân dân
- TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
- TTHS
Tố tụng hình sự
- THTT
Tiến hành tố tụng
- TGTT
Tham gia tố tụng
- VA
Vụ án
- VAHS
Vụ án hình sự
- VKS
Viện kiểm sát
- VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
- VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- VPPL
Vi phạm pháp luật
- XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở nước ta được
quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Đảm bảo thực hiện các quyền hiến định
và luật định trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Quyền con người được bảo đảm
thực hiện trong thực tiễn cuộc sống là thước đo của nền dân chủ, văn minh, của
tự do và tiến bộ xã hội. Qua đó, thể hiện bản chất tốt đẹp của Nhà nước.
Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được
tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp, thì nhu cầu bào chữa cũng
như quyền bào chữa của công dân, đặc biệt là công dân bị buộc tội ngày càng trở
thành nhu cầu thiết yếu. Khi ấy, vai trò của NBC trong TTHS ngày càng trở nên
quan trọng. Từ nhận thức đó, ngay trong Hiến pháp - văn bản pháp lý cao nhất
quốc gia - quyền bào chữa đã được ghi nhận như một nguyên tắc được bảo đảm
thực hiện xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án. Ngày nay, nguyên tắc này
cũng được thể chế trong BLTTHS, thể hiện tính nhân văn của nhà nước ta và
phù hợp với xu hướng tiến bộ của các quốc gia trên thế giới.
Hiến pháp năm 2013 quy định “ Người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa”. Việc ghi nhận và thực hiện nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa trong tố tựng hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo; đồng
thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách
quan, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp
phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà, đáp ứng được yêu cầu cải
cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ chính trị về “ Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Vì vậy, việc
nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của NBC trong TTHS có ý nghĩa quan trọng
1
trong việc bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân bị buộc tội trong TTHS nói riêng - một nhiệm vụ trọng tâm của các
thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ.
Do đó, nhằm góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận, những vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng của chế định NBC trong hoạt động bào chữa, đặc biệt là
ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vai trò của
người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hố Chí Minh” với mong muốn đóng
góp một số ý kiến, giải pháp nhằm phát huy và nâng cao vai trò của người bào
chữa trong quá trình tham gia tố tụng, đặc biệt là trong xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
NBC tham gia vào hoạt động TTHS với vị trí, vai trò rất quan trọng. Hoạt
động của NBC trong TTHS góp phần bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa trong TTHS. Việc nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện về chế định NBC có ý nghĩa không chỉ về mặt nhận thức mà cả về hoạt
động thực tiễn tố tụng hình sự, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, hạn chế tình trạng oan sai trong TTHS, giúp cơ quan THTT giải quyết
vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong thời gian qua, đã có
nhiều công trình nghiên cứu và bài viết khác nhau của nhiều tác giả như: “Vai
trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thu Thủy; “ Vai trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét xử
vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Cảnh Tuyến; “Người bào chữa trong TTHS”
của tác giả Trần Văn Bảy; “Các chức năng tố tụng cơ bản trong TTHS” của tác
giả Lê Tiến Châu; “Luật sư và hoạt động bào chữa của luật sư” của tác giả Đinh
Văn Quế… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chỉ nghiên cứu một vài khía
cạnh liên quan đến vai trò của NBC nói chung, mà chưa đi sâu nghiên cứu về vai
trò của NBC trong giai đoạn xét xử phúc thẩm VAHS.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
“Vai trò của người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” là đi
sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của NBC, liên
quan đến tính chất và ý nghĩa của việc quy định trình tự phúc thẩm, để từ đó thấy
được vai trò của NBC trong giai đoạn phúc thẩm được thể hiện như thế nào, qua
đó nghiên cứu về những quy định của pháp luật liên quan đến chế định của NBC
trong xét xử phúc thẩm từ lý luận đến thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất một số ý
kiến nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của người bào chữa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của người bào
chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự; Thực trạng vai trò của người bào
chữa trong xét xử phúc thẩm VAHS tại Thành phố Hồ Chí Minh và những quan
điểm, giải pháp nâng cao vai trò của người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ
VAHS
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa, về tính chất ý nghĩa của việc quy định trình tự xét xử
vụ án hình sự, đặc biệt là xét xử phúc thẩm VAHS, để qua đó thấy được vai trò
của người bào chữa được thực hiện như thế nào trên thực tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến hoạt động của NBC ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, còn những vấn
đề khác, tác giả chỉ nghiên cứu một cách khái quát tạo điều kiện để tiếp cận vấn
đề mà luận văn muốn hướng đến.
3
- Về thời gian, nghiên cứu việc thực hiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự liên quan đến vai trò của người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ
án hình sự giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành đến
nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của triết học Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật,
về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Vai trò của người bào chữa trong xét
xử phúc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, luật học so sánh và dự báo qua những tài
liệu thứ cấp để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm vi đề tài.
Cụ thể:
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống, nhằm làm rõ vị trí, vai trò của
người bào chữa trong quá trình tham gia xét xử vụ án hình sự nói chung và giai
đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua việc tổng hợp, phân
tích các tư liệu, nhất là tư liệu sơ cấp (các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam) làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng của pháp luật Tố tụng hình sự
trong việc đảm bảo việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội trên
thực tiễn.
Thứ ba, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn được sử dụng xuyên
suốt trong luận văn nhằm phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật TTHS
liên quan đến việc thực hiện quyền bào chữa cũng như vai trò của NBC trong xét
xử phúc thẩm VAHS để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp giải pháp nhằm
4
đảm bảo cho hoạt động bào chữa của người bào chữa, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của người bào chữa trong xét xử VAHS nói chung và giai đoạn
xét xử phúc thẩm VAHS nói riêng.
Thứ tư, phương pháp luật so sánh (so sánh các quy định pháp luật trong
các thời kỳ lịch sử) để thấy được những điểm mới, tiến bộ của pháp luật, tạo cơ
sở pháp lý vững chắc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo; đồng thời giúp cơ quan tiến hành tố tụng giải
quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, làm sáng tỏ những vấn đề mang
tính lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng các quy định pháp luật liên quan đến
quyền bào chữa và NBC, qua đó giúp cho người đọc có nhận thức đúng đắn và
thống nhất về vai trò của NBC, đặc biệt là vai trò của NBC trong giai đoạn phúc
thẩm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cho thấy những hạn chế
trong thực tiễn hoạt động và áp dụng các quy định của pháp luật liên quan đến
NBC trong xét xử phúc thẩm, từ đó, đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của NBC nói chung và hoạt động của NBC
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cơ
cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về vai trò của người bào
chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Chương 2. Thực trạng vai trò của người bào chữa trong xét xử phúc thẩm
VAHS tại Thành phố Hồ Chí Minh
5
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của người bào chữa
trong xét xử phúc thẩm vụ VAHS
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Người bào chữa trong Tố tụng hình sự
1.1.1. Khái quát chức năng bào chữa trong Tố tụng hình sự
Các chức năng cơ bản của TTHS bao gồm: Chức năng bào chữa, chức
năng buộc tội, chức năng xét xử. Mỗi chức năng có một vị trí và vai trò nhất
định. Muốn nhận thức được một một cách đầy đủ và toàn diện từng chức năng tố
tụng cơ bản, thì phải đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng giữa các chức
năng với nhau. Vì vậy, khi tìm hiểu về chức năng bào chữa chúng ta phải tìm
hiểu sơ qua hai chức năng: Chức năng buộc tội và chức năng xét xử.
Chức năng buộc tội: Là một trong những chức năng cơ bản của TTHS, là
một dạng họat động tố tụng nhằm phát hiện tội phạm, chứng minh lỗi của người
đó, đảm bảo phán xử và hình phạt đối với họ. “Chức năng buộc tội - nhất là hình
thức buộc tội nhân danh Nhà Nước - có vai trò là động lực của TTHS. Nó được
coi là trục chính thu hút hoạt động của tất cả những người tham gia phiên tòa”
[21, tr. 24]. Chức năng buộc tội được tiến hành bởi quyền công tố của VKS và
với trách nhiệm chứng minh sự thật vụ án thuộc về cơ quan điều tra - điều tra
viên.
Ở giai đoạn điều tra, điều tra viên có nghĩa vụ thu thập chứng cứ, tài liệu
để xác định sự thật vụ án. Khi có đầy đủ chứng cứ xác định có tội phạm và bị
can thì cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra và đề nghị VKS truy tố.
Ở giai đoạn xét xử, hoạt động buộc tội thuộc về VKS, Kiểm sát viên tham
gia phiên tòa giữ quyền công tố chính thức buộc tội bị cáo trước phiên tòa bằng
bản cáo trạng. Trong TTHS, không có chức năng buộc tội sẽ không có chức năng
bào chữa, bởi vì buộc tội xuất hiện thì bào chữa mới xuất hiện “ở đâu có buộc
tội, ở đó có bào chữa”. Chức năng bào chữa xuất hiện cùng lúc với buộc tội và
hệ quả tất yếu của hai chức năng này là chức năng xét xử.
7
Chức năng xét xử: Là hoạt động tố tụng của Tòa án có thẩm quyền xem
xét, quyết định người bị buộc tội có tội hay không có tội và các biện pháp tư
pháp đối với người có tội.
Chức năng xét xử có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho TTHS vận
hành theo đúng quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý và công bằng trong
xã hội. Chức năng xét xử được coi là chức năng trung tâm của TTHS giữ vai trò
quyết định. Điều 9 BLTTHS “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [23]. Điều này đã khẳng định Tòa án là
chủ thể duy nhất thực hiện chức năng xét xử, và chỉ có Tòa án thông qua hoạt
động xét xử của mình thì mới có quyền kết tội đối với một người. Vì vậy, nếu
không có chức năng xét xử thì các chức năng trước đó, chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa bị xem là vô nghĩa. Hoạt động xét xử được thực hiện tại
phiên tòa với sự tham gia của các bên, trên cơ sở đánh giá và làm rõ các tình tiết
mang tính buộc tội và các tình tiết có ý nghĩa gỡ tội, Tòa án ra phán quyết cuối
cùng cho bị cáo. Thông qua hoạt động xét xử, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm ngày càng được nâng cao.
Chức năng bào chữa: Là một dạng hoạt động tố tụng được pháp luật đảm
bảo cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình hay nhờ người khác đưa
ra những chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ
TNHS cho mình mà còn đưa ra những gì có lợi cho họ trong quá trình tố tụng
[5].
Chức năng bào chữa có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết
VAHS, là điều kiện tiên quyết trong việc thực hiện nhiệm vụ xét xử “đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật”, thông qua việc thực hiện chức năng bào chữa,
tính dân chủ và pháp chế được đảm bảo. Chức năng này được đảm bảo thực hiện
bởi cơ quan nhà nước. Điều 103 Hiến Pháp 2013 ghi nhận: “Quyền bào chữa
của bị cáo được bảo đảm…” [24]. Việc pháp luật ghi nhận quyền bào chữa của
8
người bị buộc tội không chỉ bởi vì nó là một trong những quyền tự nhiên của con
người được thừa nhận ở bất cứ đâu, trong bất kỳ phạm vi không gian nào mà còn
là do vai trò quan trọng, không thể thiếu của chức năng bào chữa. Bởi lẽ, khi
người bị buộc tội chưa bị kết án bởi Tòa án thông qua phiên tòa công khai, bình
đẳng, thì họ phải được hiểu theo hướng không có tội. Cho nên chúng tôi cũng
hoàn toàn đồng ý khi cho rằng “sẽ là phi dân chủ và không khoa học nếu không
thừa nhận trong TTHS song song tồn tại với chức năng buộc tội còn có chức
năng bào chữa” [14].
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng buộc tội hiện nay trong
TTHS vẫn còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Tuy nhiên, theo quan điểm
cá nhân, chúng tôi cho rằng chức năng bào chữa xuất hiện từ khi khởi tố bị can
và kết thúc từ khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Trong
trường hợp có người bị tạm giữ thì chức năng bào chữa sẽ xuất hiện từ lúc có
quyết định tạm giữ. Đây là quan điểm chính thống, được thể hiện trong pháp luật
hình sự nước ta. Cụ thể, tại điều 11 BLTTHS quy định: “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”[23]. Theo đó,
chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
người bào chữa cho họ.
1.1.2. Quyền bào chữa trong Tố tụng hình sự
Quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan trọng trong mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy nó là chế định cơ bản nhất trong
các bản Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, sự phát triển của lịch
sử nhân loại đã chứng minh sức mạnh của nhu cầu về quyền và tự do của con
người.
Khác hẳn về chất so với các xã hội trước đây, quyền con người ngày nay
luôn được tôn trọng ở mọi xã hội, trong đó, xã hội XHCN luôn tạo ra mọi khả
năng và điều kiện thuận lợi để đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân.
“Quyền con người ngày nay ghi nhận ở Hiến pháp và các văn bản pháp luật của
9
mỗi quốc gia. Song nó sẽ chỉ là những dòng chữ chết nếu các quốc gia không tạo
những điều kiện cần thiết để thực hiện và đảm bảo quyền con người, khả năng
để con người thực hiện các quyền của mình là tiêu chí đánh giá sự tiến bộ và
văn minh của xã hội” [13,tr.48].
Ở nước ta quyền con người được ghi nhận trong hiến pháp và pháp luật.
Cụ thể, tại điều 14 Hiến pháp 2013 “Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa
và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”[24].
Trong lĩnh vực TTHS cũng vậy, làm thế nào để pháp luật được công
minh, đảm bảo được quyền công dân, đặc biệt là những người bị buộc tội. Với
nhu cầu như vậy thì pháp luật đã trang bị cho người bị buộc tội một vũ khí sắc
bén đó là quyền bào chữa và nó được pháp luật TTHS ghi nhận là một nguyên
tắc cơ bản. Đó là “nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo” trong TTHS [23]. Nguyên tắc này được tất cả các nước trên thế giới
ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong BLTTHS. Vì việc thực hiện
nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa trong TTHS chẳng những thể hiện tính dân
chủ mà còn thể hiện tính nhân đạo của họat động tư pháp trong xã hội XHCN điều mà trong các xã hội bóc lột trước đây hoặc không thể có hoặc không thể nào
thực hiện được trong thực tế.
Hiện nay, trong khoa học luật TTHS có nhiều ý kiến khác nhau về quyền
bào chữa, nhưng tựu trung hầu hết các tác giả thường tập trung vào bốn loại
quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền bào chữa là tổng hòa các hành vi tố
tụng đối với việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc làm
giảm trách nhiệm của bị can [14, tr.14]. Cùng với quan điểm trên, quyền bào
chữa cũng được hiểu đó là quyền của bị can, tuy nhiên, quyền bào chữa của bị
can theo tác giả này được hiểu rộng hơn, đó là quyền bào chữa không chỉ dừng
10
lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm nhẹ
TNHS của bị can mà nó còn được thể hiện trong việc bảo đảm các quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan đến việc làm
giảm nhẹ TNHS của bị can trong vụ án [14, tr.18].
Theo chúng tôi, cách hiểu trên là quá hẹp và không chính xác, bởi lẽ, một
người TGTT với tư cách là bị can khi cơ quan có thẩm quyền có đủ căn cứ xác
định họ là người đã thực hiện hành vi phạm tội và ra quyết định khởi tố bị can
đối với họ (khoản 1, Điều 49 và khoản 1, điều 126 BLTTHS Việt Nam). Mặt
khác, trong TTHS Việt Nam, khái niệm bị can chỉ tồn tại cho đến thời điểm
trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau đó, nếu vụ án được tiếp tục thì
họ TGTT với tư cách là bị cáo (khoản 1, Điều 50 BLTTHS Việt Nam). Và nếu
chỉ thừa nhận quyền bào chữa của bị can thì vô hình chung chúng ta tước bỏ đi
quyền bào chữa đối với chủ thể này. Bởi vì, rõ ràng trong giai đoạn này họ vẫn là
đối tượng bị buộc tội, việc buộc tội đối với bị cáo thể hiện ở việc truy tố của
VKS và Tòa án xem xét bị cáo có tội hay không có tội, thực tiễn cho thấy, chính
trong giai đoạn này, quyền bào chữa của bị cáo mới được thể hiện rõ nét nhất, vì
họ được bình đẳng công khai đưa ra các chứng cứ, được tham gia tranh luận tại
phiên toà… để thanh minh, bác bỏ lời buộc tội, thực hiện quyền bào chữa của
mình. Chính vì vậy, quyền bào chữa không thể chỉ là quyền của bị can trong
VAHS.
Quan điểm thứ hai khác hẳn với quan điểm trên, cho rằng quyền bào chữa
không chỉ thuộc về bị can, bị cáo mà còn thuộc về những người TGTT khác như
người bị kết án [14, tr.29-30]. Thậm chí, có một số tác giả còn cho rằng “không
chỉ có bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa, nhân chứng, giám
định viên và cả người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại” [39,
tr.107].
Theo chúng tôi hiểu như vậy là quá rộng và không hoàn toàn đúng với ý
nghĩa bào chữa trong TTHS. Mặt khác, việc hiểu như trên dẫn đến sự nhằm lẫn
11
giữa khái niệm quyền bào chữa với khái niệm chung về việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Theo đó, quan điểm trên không được chấp nhận.
Quan điểm thứ ba cho rằng quyền bào chữa chỉ thuộc về bị can, bị cáo
chứ không thuộc về đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác
bỏ một phần hay toàn bộ lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị
cáo [31, tr.41].
Đây là quan điểm được nhiều người đồng tình ủng hộ, và quan điểm này
được Bộ luật TTHS Việt Nam ghi nhận trong một thời gian khá lâu kể từ khi
BLTTHS đầu tiên ra đời cho đến thời điểm trước khi BLTTHS sữa đổi lần thứ tư
có hiệu lực vào ngày 01/07/2004. Những người theo quan điểm trên cũng xuất
phát từ quan niệm cho rằng trong TTHS sự buộc tội và bào chữa phải song song
tồn tại, ở đâu có buộc tội thì ở đó có bào chữa. Bị can, bị cáo có quyền bào chữa
bởi họ bị buộc tội, những người TGTT khác không bị buộc tội nên vấn đề bào
chữa không đặt ra đối với họ [31, tr.41].
Tuy nhiên, hiểu như trên vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Mà chúng tôi ủng
hộ với quan điểm BLTTHS Việt Nam hiện hành khi quy định “người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa” [23]. Như ở
phần trên chúng tôi đã phân tích, thì ngoài bị can, bị cáo có quyền bào chữa thì
người bị tạm giữ cũng có quyền bào chữa, bởi vì người bị tạm giữ cũng là đối
tượng bị buộc tội trong TTHS, vì vậy, họ đương nhiên cũng là chủ thể của quyền
bào chữa.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra kết luận:
Thứ nhất, bào chữa trong TTHS được hiểu là tất cả những hành vi mà
người bị buộc tội và NBC sử dụng để chống lại toàn bộ hay một phần sự buộc
tội, làm sáng tỏ những tình tiết về sự vô tội của người bị buộc tội hoặc làm giảm
nhẹ trách nhiệm cho họ. Như vậy, khi nói đến chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa trong TTHS, thì đối với người bị buộc tội là quyền, còn đối với NBC thì đó
là nghĩa vụ. NBC có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
12
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bảo vệ. Điều này cho thấy,
nội dung của chức năng bào chữa chính là quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
TTHS quy định cho người bị buộc tội và NBC sử dụng để chống lại sự buộc tội,
làm sáng tỏ những tình tiết về sự vô tội, làm giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc
tội.
Thứ hai, quyền bào chữa chỉ có thể là quyền của người bị buộc tội. Hay
nói cách khác, quyền bào chữa chính là tổng thể các quyền mà pháp luật cho
phép người bị buộc tội có thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự
buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ. Và vấn đề đặt ra ở đây là tại sao bào chữa
lại coi là quyền của người bị buộc tội? Để lý giải vấn đề này, chúng tôi cho rằng:
- Một là, bào chữa tồn tại khách quan như là một trong những quyền cơ
bản của con người. Trong TTHS, sự buộc tội luôn chỉ hướng tới một con người,
một cá nhân cụ thể. Do đó, một người khi tham gia tố tụng với tư cách là người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, điều đó có nghĩa là họ trở thành đối tượng của chức
năng buộc tội, bản thân họ bị hạn chế về quyền hiến định, đó là quyền bất khả
xâm phạm về thân thể. Do đó, họ có nhu cầu được bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, một trong những quyền đó là quyền bào chữa.
- Hai là, như đã phân tích, TTHS có ba chức năng cơ bản: buộc tội, bào
chữa và xét xử, mỗi chức năng tồn tại là một thành tố đảm bảo sự tồn tại của các
chức năng còn lại. Chức năng buộc tội sẽ không tồn tại nếu thiếu các chức năng
bào chữa, chức năng xét xử và ngược lại. Trong TTHS, việc xác định chân lý
khách quan của vụ án không thể thực hiện được nếu chủ thể không sử dụng biện
pháp so sánh, đánh giá các dữ kiện và cọ xát với các quan điểm khác nhau của
bên buộc tội và bên bào chữa [13]. Vì vậy, trong TTHS, chức năng bào chữa tồn
tại song song với chức năng buộc tội như một nhu cầu tất yếu khách quan. Mặt
khác, sẽ không xuất hiện sự tranh tụng nếu TTHS chỉ đơn thuần hoặc là bào
chữa hoặc là buộc tội. Chính sự tồn tại khách quan của các chức năng cơ bản
13
trong TTHS, trong đó có chức năng bào chữa là cơ sở tồn tại quyền bào chữa
trong TTHS.
Thứ ba, chủ thể của quyền bào chữa bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Theo quy định của BLTTHS Việt Nam thì:
Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội
quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu
thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ (khoản 1, Điều 48).
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (khoản 1, Điều 49).
Bị cáo là người đã bị TA quyết định đưa ra xét xử (khoản 1, Điều 50).
Vậy quyền bào chữa chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất trong TTHS, đó là
người bị buộc tội, tuy nhiên ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau thì người bị buộc
tội có những tên gọi khác nhau.
Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa của
mình, Hiến pháp và pháp luật TTHS nước ta quy định: “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan Điều
tra, VKS, TA có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện
quyền bào chữa của họ”. Ngoài việc quy định người bị buộc tội có quyền bào
chữa, Hiến pháp và pháp luật nước ta quy định cả những bảo đảm cần thiết để
quyền bào chữa của họ được thực hiện.
Để tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa của
mình, thì pháp luật còn quy định người bị buộc tội có quyền nhờ người khác bào
chữa và quyền nhờ người khác bào chữa trở thành một bộ phận cấu thành nội
dung quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Mặt khác, pháp luật
còn quy định trách nhiệm của các cơ quan THTT trong việc đảm bảo cho người
bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa của mình. Bản thân các cơ quan, người
THTT khi thực hiện một biện pháp gây bất lợi cho người bị buộc tội cũng phải
hết sức thận trọng vì nhiệm vụ của họ không chỉ là “không bỏ lọt tội phạm” mà
còn “không làm oan người vô tội” Chính vì vậy, chế định quyền bào chữa được
14
ghi nhận trong TTHS nước ta sẽ không trở nên mang tính hình thức khi trong
quá trình thực hiện nó, đã được đảm bảo bởi một cơ chế do pháp luật quy định.
Việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không mâu
thuẫn với việc giải quyết đúng đắn VAHS, ngược lại, khi các hoạt động bào
chữa được thực hiện có hiệu quả tức là việc buộc tội oan sai đã được hạn chế ở
mức tối đa.
1.1.3. Người bào chữa trong Tố tụng hình sự
Như chúng tôi đã phân tích, thì quyền bào chữa là quyền đặc thù của
người bị buộc tội trong TTHS, cụ thể là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, trong đó
quyền có người bào chữa chiếm vị trí quan trọng. Việc tham gia tố tụng của
người bào chữa sẽ góp phần cùng với cơ quan tư pháp nhanh chóng tìm ra sự
thật vụ án, nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân và nhà nước. Người bị buộc tội bằng cách tự mình hoặc
nhờ người bào chữa thực hiện quyền bào chữa của mình phù hợp với quy định
pháp luật. Việc nhờ người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho mình là một công cụ
pháp lý quan trọng mà pháp luật đã trang bị cho người bị buộc tội – người có vị
thế yếu trong TTHS.
Vì vậy, tham gia tố tụng với tư cách là bên thứ ba, người có vị trí, vai trò
đặc biệt, tách biệt với cơ quan công quyền (CQĐT, VKS, Tòa án) là hết sức
quan trọng. Tuy nhiên, cho đến nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng
vẫn chưa đưa ra được khái niệm người bào chữa một cách thống nhất. Xung
quanh vấn đề người bào chữa đã xuất hiện không ít các quan niệm khác nhau, có
nhiều cách hiểu khác nhau về người bào chữa. Có quan điểm cho rằng“ Người
bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần
thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra bản án có căn cứ và đúng pháp luật”[45,
tr.53] và theo giải thích của PGS.TS Luật học Võ Khánh Vinh, trong quyển
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự”, thì: “Người bào chữa là người
tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến sự thật
15
của vụ án nhằm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết”[44, tr.128-129].
Một quan điểm khác lại cho rằng “Người bào chữa là người TGTT để
giúp đỡ Toà án” [16].
Tuy nhiên, mục đích cũng như ý nghĩa của việc tham gia tố tụng đầu tiên
của người bào chữa là xuất phát từ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội. Họ TGTT để góp phần vào mục đích chung đó là bảo vệ
quyền lợi công dân (người bị buộc tội) đảm bảo công bằng, dân chủ trong hoạt
động tố tụng, bên cạnh đó, giúp cơ quan THTT thực hiện được nhiệm vụ giải
quyết vụ án được “đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” tránh được những sai
sót cần thiết trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Điều đó không có nghĩa là họ là
những người THTT, nhân danh quyền lực công để giúp đỡ Tòa án, họ cũng
không phải là một bên tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, mà họ là người
tham gia tố tụng có vị trí độc lập, và vị trí độc lập của họ là độc lập “phái sinh”,
bởi lẽ, việc họ TGTT không phải đương nhiên mà phải xem xét đến lợi ích của
người được họ bào chữa.
Trên thực tế, có quan điểm cho rằng NBC là người tham gia tố tụng với vị
trí độc lập, họ cho rằng khi thực hiện chức năng bào chữa, NBC được pháp luật
trao cho những quyền và nghĩa vụ nhất định và họ có thể tự bày tỏ quan điểm mà
không phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. Như chúng tôi đã phân tích ở
trên, quyền bào chữa là quyền năng pháp lý thuộc về một chủ thể duy nhất là
người bị buộc tội, NBC tham gia tố tụng để giúp người bị buộc tội thực hiện
quyền bào chữa của mình một cách có hiệu quả, qua đó góp phần bảo đảm sự
cân bằng giữa hai chức năng đối trọng nhau trong TTHS (chức năng buộc tội và
chức năng bào chữa), vì vậy, chúng tôi cho rằng, quyền của NBC được bắt
nguồn từ quyền của người bị buộc tội, và việc pháp luật quy định cho NBC có
những quyền và nghĩa vụ cụ thể khi tham gia tố tụng, đó chỉ là công cụ pháp lý
để đảm bảo cho NBC thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đó là bảo vệ
16
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN trong quá trình
giải quyết vụ án, đảm bảo cho NBC có những quyền và nghĩa vụ nhất định cũng
có nghĩa là đảm bảo cho NBC (chủ thể thực hiện chức năng bào chữa) được bình
đẳng với bên buộc tội trong việc thực hiện chức năng buộc tội, có như vậy mới
bảo đảm được công bằng, dân chủ trong TTHS, vì vậy, không thể coi NBC là
người TGTT với vị trí độc lập như là một chủ thể của quyền bào chữa, theo
chúng tôi “NBC là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị buộc tội”.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về NBC thì chúng ta cần phân biệt khái niệm
NBC trong TTHS với người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án.
BLTTHS đã đưa ra tiêu chí để phân biệt 2 khái niệm trên là “dựa vào chức năng
và đối tượng mà họ bào chữa, bảo vệ” [43].
NBC tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự TGTT chủ yếu là
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự và người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án.
Nghiên cứu về NBC thì BLTTHS năm 2003 không đưa ra khái niệm về
NBC mà chỉ quy định “NBC có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân”[23]. Tuy nhiên,
BLTTHS năm 2015 đã chính thức đưa ra khái niệm về NBC trong TTHS, cụ thể
tại điều 72 quy định: “ Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào
chữa hoặc cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”[27]. Như vậy, theo quy định
trên thì NBC có thể là:
Luật sư: Theo quy định tại Điều 2 Luật luật sư năm 2006, được sửa đổi,
bổ sung năm 2012 thì: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của Luật này, thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức”[25]. Như vậy, luật sư là NBC chuyên nghiệp, và theo
17
Điều 10 của Luật này thì chỉ những người hội đủ các điều kiện sau mới được
tham gia vào Đoàn Luật sư: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc;Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;Có phẩm chất đạo đức tốt;Có bằng cử
nhân luật; Đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật
sư; Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư”[25].
Như vậy, một người hội đủ những điều kiện theo quy định của Điều 2 và
Điều 10, đồng thời không rơi vào trường hợp cấm theo khoản 4 Điều 17 của
Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 thì được cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư, và đủ điều kiện được TGTT với tư cách là người bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật. Và chỉ những luật sư TGTT
bảo vệ quyền lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong VAHS mới được gọi
là NBC. Điều này cũng được hiểu tương tự đối với BCVND và NĐDHP của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc nhấn mạnh này có ý nghĩa trong việc hiểu
đúng và chính xác về luật sư và NBC. Bởi vì, trong TTHS khi luật sư TGTT bảo
vệ quyền lợi cho những người khác không phải là người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ TGTT với tư cách là người bảo vệ quyền lợi
cho đương sự.
Người đại diện của người bị buộc tội:
Cho đến hiện nay, BLTTHS của nước ta chưa có một quy định một cách
cụ thể về NĐDHP của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong VAHS. Tìm hiểu
vấn đề này, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của TANDTC,
VKSNDTC hướng dẫn một số quy định của BLTTHS trong đó có phần hướng
dẫn về NĐDHP của bị cáo là người chưa thành niên với nội dung: “đại diện hợp
pháp của bị cáo là người chưa thành niên là bố mẹ hoặc người đở đầu của họ”.
Theo đó, vấn đề “người đại diện hợp pháp” của người bị buộc tội chỉ đặt ra khi
họ là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần. Và NĐDHP có thể là cha mẹ hoặc người đỡ đầu của những người này. Từ
18
đó cũng có thể hiểu người đủ 18 tuổi trở lên, không có nhược điểm về thể chất
hoặc nhược điểm về tâm thần sẽ không có NĐDHP khi TGTT với tư cách là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bào chữa viên nhân dân: ngoài luật sư, người đại diện của người bị buộc
tội thì BLTTHS còn quy định BCVND cũng có thể TGTT với tư cách là NBC. Ở
nước ta, trước khi có Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 thì việc bào chữa cho
bị can, bị cáo do BCVND đảm nhận. Hoạt động bào chữa của BCVND không
phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư. Từ khi BLTTHS năm
1988 có hiệu lực thi hành cho đến khi BLTTHS năm 2015 được ban hành vẫn
chưa có một văn bản chính thức nào quy định khái niệm về BCVND. Tuy nhiên,
tại khoản 3, điều 72 BLTTHS năm 2015 đã chính thức đưa ra khái niệm về
BCVND, cụ thể: “BCVND là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành
với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, đủ sức khoẻ bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc
tội là thành viên của tổ chức mình”[27].
Chính vì vậy, bào chữa viên nhân dân có thể được hiểu là thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc được
tổ chức mình cử ra để tham gia tố tụng nhằm thực hiện chức năng bào chữa, trợ
giúp pháp lý cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức[15,
tr.21].
Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý: được tham gia TTHS với tư cách là NBC
là một trong những quy định mới của BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm
2003. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì Trợ giúp viên trợ
giúp pháp lý là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn
sau đây: “Có năng lự hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt; Có bằng
cử nhân luật; Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ trợ giúp pháp lý; Có thời gian
làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên; Có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành
19
nhiệm vụ được giao”[28]. Và theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì trợ giúp
viên trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách là NBC “trong trường hợp
người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý”[27].
1.2. Người bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Người bào chữa tham gia vào hoạt động TTHS với một sứ mệnh cao cả.
Sự tham gia của người bào chữa đã thể hiện rõ nét tính nhân dân trong tố tụng
hình sự, với sự hiểu biết pháp luật và bản lĩnh nghề nghiệp, họ TGTT với vị trí
khách quan, ngang bằng với bên buộc tội, giúp cơ quan THTT kịp thời phát hiện
những sai lầm thiếu sót, khắc phục kịp thời, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động tố tụng.
Trong TTHS, vai trò của NBC thể hiện cụ thể qua các giai đoạn của quá
trình giải quyết vụ án, đó là khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử VAHS.
Ở giai đoạn điều tra, thì thông qua việc thực hiện quyền năng tố tụng của
thì NBC góp phần tích cực cùng với cơ quan điều tra trong việc thu thập chứng
cứ, những tình tiết có lợi cho người bị buộc tội. Việc tham gia tố tụng của NBC
trong giai đoạn điều tra vừa giúp cho người bị buộc tội đảm bảo quyền lợi của
mình, bên cạnh đó, nâng cao trách nhiệm của cơ quan tư pháp trong công tác
điều tra nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội, hạn chế tình trạng oan
sai và những vi phạm tố tụng trong quá trình điều tra, tạo điều kiện cho việc giải
quyết vụ án được nhanh chóng kịp thời và chính xác.
Ở giai đoạn xét xử, đây là giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa quyết định bị
cáo có tội hay không ? và vấn đề hình phạt?
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, NBC có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với việc bảo vệ quyền và lợi ích của bị cáo. Tại đây, NBC sẽ tranh luận dân chủ
công khai với bên buộc tội, đưa ra những chứng cứ, luận cứ để thuyết phục
HĐXX, thực hiện nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất tại phiên toà,
góp phần giúp cơ quan THTT xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp toà án
20