Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.3 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÀNH LONG

ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÀNH LONG

ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC
Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS VÕ KHÁNH VINH



HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng
dẫn của GS.TS Võ Khánh Vinh . Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi
có tham khảo một số bài viết, công trình nghiên cứu và các tài liệu liên quan của các
tác giả, cơ quan Nhà nước, những số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Việc sử dụng các nguồn tham khảo được trích dẫn, chỉ ra trong Danh mục tài
liệu tham khảo.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên.

TÁC GIẢ

LÊ THÀNH LONG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI ....7
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội ...................................................................................................................7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với người
chưa thành niên phạm tội ......................................................................................26
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC ...............49
2.1. Tổng quan kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án có bị cáo là người chưa

thành niên phạm tội ...............................................................................................49
2.2. Kết quả áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn
tỉnh Bình Phước.....................................................................................................51
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ÁN TREO
ĐÚNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ...............................................64
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với người chưa thành niên
phạm tội .................................................................................................................64
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với người chưa thành niên
phạm tội .................................................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

NCTN

: Người chưa thành niên

NCTNPT

: Người chưa thành niên phạm tội


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Thống kê số vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên đã thụ lý
trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến 2015...............................................50
Bảng 2.2. Các tội phạm mà bị cáo là người chưa thành niên thực hiện đã thụ lý và
giải quyết trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2011 đến 2015...............................50
Bảng 2.3. Tình hình áp dụng án treo của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đối với
NCTNPT từ năm 2011 đến năm 2015…..…………………………………………52
Bảng 2.4. Tình hình áp dụng án treo của các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh
Bình Phước từ năm 2011 đến năm 2015 ...................................................................54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã hội. Người Việt
Nam vốn có truyền thống yêu thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là
nguồn hạnh phúc mà còn là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm
tin và sự hãnh diện. Vì vậy, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em. Nhiều chủ
trương, chính sách ra đời hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển
toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của trẻ em. Nhà nước đã ban hành và tổ

chức thực hiện nhiều chính sách tầm chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng và
đã đào tạo được những lớp người giàu lòng yêu nước, có sức khỏe, có văn hóa, hết
lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội
được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày
20-2-1990), là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công
ước này. Điều đó đã làm thay đổi khá nhanh nhận thức và hành động đối với trẻ em
về thực hiện quyền trẻ em ở Việt Nam. Chúng ta đã ban hành luật, chính sách, văn
bản hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy chuẩn, chương trình hành động, chương trình
mục tiêu, các dự án, xây dựng tổ chức bộ máy, bố trí và đào tạo cán bộ quản lý, xây
dựng và phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ
em. Nhờ đó công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã có những chuyển biến
tích cực. Sự nghiệp này được kết tinh bởi tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
công tác giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Chính sách chăm sóc,
bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được
sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ,
tinh thần và đạo đức; …”
Tuy nhiên, vấn đề người chưa thành niên phạm tội hiện nay vẫn đang thu hút
sự quan tâm của xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong những năm gần đây,
tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật, người chưa thành niên phạm tội
gia tăng, sự trẻ hóa của tội phạm chưa thành niên đòi hỏi phải có những biện pháp
thích hợp, không chỉ nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội mà còn nhằm để bảo vệ
sự phát triển bền vững của cộng đồng trong tương lai. Trong khi đó BLHS năm
1


1999 là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng ngừa tội
phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo được
các nguyên tắc phân hóa TNHS, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, BLHS
quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để
áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội.
Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã
hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt
được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất - trong một số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng
biện pháp khác, không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù. Một
biện pháp được áp dụng nhiều trong thực tiễn là án treo.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện quan
điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh
nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo
chính là ở sự kết hợp đó.
Tuy nhiên, thực tiễn vận dụng án treo đối với NCTNPT trên địa bàn tỉnh
Bình Phước trong thời gian qua bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, còn làm
bộc lộ những hạn chế nhất định trong cả pháp luật thực định và trong quá trình áp
dụng các quy định đó. Chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho
hưởng án treo hiện nay ở một số tòa án huyện, thị còn không chuẩn xác, đó là cho
hưởng án treo cả những đối tượng đã có tiền án, tiền sự hoặc ngược lại những người
có nhân thân tốt nhất thời phạm tội đáng được xử treo nhưng lại xử giam, có nơi có
lúc còn xử quá nhẹ dưới mức 3 năm tù để rồi cho bị cáo được hưởng án treo. Việc
thi hành, giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Bình
Phước ở nhiều xã, phường, thị trấn còn chưa chặt chẽ, thậm chí có nơi không thực
hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc phối hợp giữa
Tòa án với cơ quan thực hiện việc giám sát, giáo dục và gia đình người được hưởng
án treo còn lỏng lẻo, mang tính hình thức dẫn tới việc quản lý, giám sát, giáo dục
chưa hiệu quả do vậy vẫn còn trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới

trong thời gian thử thách.

2


Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách sâu rộng và toàn
diện về chế định án treo đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như thực tiễn
áp dụng tại ở tỉnh Bình Phước là cần thiết góp phần hoàn thiện hơn các quy định về
án treo và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trên thực tế. Với ý nghĩa
đó, tác giả chọn và nghiên cứu "Áp dụng án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng chế
định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước
đối với người phạm tội. Vì vậy, đề tài cũng đã được rất nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau.
Ở cấp độ giáo trình, có: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội... Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ cập nhật ở
mức độ cơ bản.
Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu, có: "Tội phạm học, luật
hình sự và tố tụng hình sự’’, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, "Hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam" (sách chuyên khảo của tập thể nghiên cứu khoa
học của Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1995, "Chế
định án tích và mô hình lý luận của nó" của GS.TSKH Lê Cảm; luận văn thạc sĩ của
tác giả Nguyễn Hữu Nhuận với đề tài: "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" và một
số cuốn sách chuyên khảo như "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả
Phạm Thị Học, Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1996, "Chế định án treo
trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Lê Văn Luật do Nhà xuất bản Tư pháp ấn

hành năm 2007... Trong các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách
chuyên khảo nêu trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở đề cập một cách tổng thể hoặc
từng khía cạnh nào đó của chế định án treo.
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết đăng trên
các tạp chí như: "Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo", của
Vũ Thế Đoàn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1990; "Án treo và thực tiễn
áp dụng", của Đỗ Văn Chỉnh, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007 và các
số 12, 13, 14/2013; “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội”
của tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí kiểm sát số 6/2007),…
3


Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu
những lý luận cao của án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng ở tỉnh Bình Phước thì chưa có một công
trình khoa học nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận của án
treo và áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình
sự Việt Nam; xây dựng, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả án
treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh
Bình Phước.
Quá trình nghiên cứu của luận văn là tiếp cận tổng thể đi từ cái chung đến cái
cụ thể, từ lý luận đến đánh giá thực tiễn để từ đó để tìm ra những nguyên nhân tồn
tại, thông qua đó đề ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự
Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT; Thực tiễn áp dụng án treo đối với

NCTNPT trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Đồng thời thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn đưa ra các
yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với NCTNPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng án treo
đối với NCTNPT từ thực tiễn tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật hình
sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội; Thực tiễn áp dụng án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội;
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu việc áp dụng quy định pháp luật hình sự
Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT từ năm 2011 đến 2015;
- Về không gian, đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng án treo đối với
NCTNPT tại địa bàn tỉnh Bình Phước.

4


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu triển khai trên cơ sở hệ thống các quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình phạt và giáo dục, cải tạo
con người; Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình sự nói chung,
chính sách hình sự nói riêng. Đặc biệt là các quan điểm về giáo dục, phòng ngừa tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp của triết học
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử dụng các phương pháp
thống kê hình sự; Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp dựa trên các số liệu,

bản án, báo cáo, thống kê từ khảo sát thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước
và nghiên cứu dưới góc độ của ngành, liên ngành, đa ngành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa luận của luận văn
Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận văn thạc sĩ luật
học về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự
Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện nội dung chế định
án treo trong luật hình sự Việt Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao
nhận thức về án treo, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng
thời định hướng cho việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội
được chính xác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo đối với người phạm tội nói
chung và đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng ở tỉnh Bình Phước, từ đó
góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, có thể
làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng pháp luật hình sự, góp phần
khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm nâng cao hiệu quả của
chế định này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:

5


Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về áp dụng án treo đối
với người chưa thành niên phạm tội
Chương 2: Thực tiễn áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm
tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đối với người
chưa thành niên phạm tội

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ÁN
TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên là những người chưa đủ 18
tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi
thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm (Điều 12 của Bộ luật hình sự).
Vấn đề đặt ra là tại sao pháp luật hình sự lại quy định người chưa đủ 14 tuổi
không phải chịu trách nhiệm hình sự và người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nhất định? Quy định này của BLHS
về mặt lý luận có thể hiểu, người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự
về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra vì người chưa đủ 14 tuổi trí tuệ chưa
phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của
mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức
là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự
(loại trừ trách nhiệm hình sự). Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được

coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ cũng chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về một số tội phạm (rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm
trọng) chứ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Quy định này
cũng thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Một trong những vấn đề quan trọng khi xác định một người phạm tội là người chưa
thành niên để từ đó quyết định hình phạt và lựa chọn việc áp dụng loại hình phạt nào

là dựa trên tuổi của người phạm tội.
Từ những quy định nêu trên, có thể rút ra khái niệm như sau: Người chưa
thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm

7


hình sự chưa đầy đủ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, bị luật hình
sự quy định là tội phạm.
1.1.1.2. Các đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội
Do là chủ thể đặc biệt nên NCTNPT có một số đặc điểm khác biệt so với
người đã thành niên, như sau:
- Sự biến đổi nhanh về thể chất và tinh thần
Đây là giai đoạn NCTN có sự phát triển mạnh mẽ về thể chất, sự biến đổi
sâu sắc về đời sống tâm lý. Do vậy, NCTN thường có nhu cầu độc lập, mong muốn
tự hành động, tự đưa ra quyết định theo cách phù hợp với nhận thức bản thân hơn là
để thỏa mãn đòi hỏi của xã hội, được biểu hiện dưới dạng các hành vi như ngang
bướng, cố chấp, bảo thủ, côn đồ như một cách khẳng định sức mạnh của bản thân
mà lại thiếu kìm chế được cảm xúc, dễ bị lôi kéo kích động, thực hiện hành vi phạm
tội.
Ý nghĩa của đặc điểm này giúp cho gia đình, nhà trường và xã hội nắm bắt
được tâm sinh lý của NCTN trong giai đoạn này, từ đó có những biện pháp phù hợp
trong việc giáo dục, đào tạo nhằm ngăn ngừa tình trạng NCTN vi phạm pháp luật.

- Dễ bị môi trường tác động
Đối với những NCTN có điều kiện, mức sống bình thường thì hoạt động xã
hội của họ ở giai đoạn này chủ yếu là môi trường học tập tại nhà trường. Tính cách
của các em thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ đã là người lớn và
mong muốn người xung quanh thừa nhận; do vậy, thường gặp sai lầm trong khi
muốn xử lý gấp mọi vấn đề khó khăn gặp phải, nhằm chứng tỏ sự trưởng thành của
mình. Khác với người thành niên khi vi phạm pháp luật luôn có động cơ, mục đích
cụ thể, những NCTN thường vi phạm pháp luật với suy nghĩ rất đơn giản, thậm chí
chỉ do nguyên nhân hiếu thắng, không tự chủ, họ thường có xu hướng sử dụng bạo
lực thể chất, như gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích...
Như vậy, đặc điểm trước hết trong vi phạm pháp luật của NCTN hầu hết là
do tác động của môi trường, điều này cũng giải thích vì sao động cơ, mục đích vi
phạm pháp luật của NCTN thường là bộc phát, nhất thời và không rõ ràng. Cũng do
hành động a dua, hùa theo bạn bè làm trái pháp luật, nên vi phạm pháp luật của
NCTN còn có yếu tố vi phạm tập thể, tuy chưa đến mức vi phạm pháp luật có tổ

8


chức (vì thiếu dấu hiệu thống nhất ý chí, phân công thực hiện…), nhưng là cách
thức nhiều người cùng thực hiện một loại hành vi trái pháp luật, điều này thể hiện rõ
nhất trong các vụ gây rối trật tự công cộng, đua xe trái phép…
Ý nghĩa của đặc điểm này giúp ta khái quát được nguyên nhân cơ bản dẫn
đến vi phạm pháp luật của NCTN, từ đó có biện pháp chủ động trong ngăn chặn,
phòng ngừa vi phạm, tội phạm ở các lứa tuổi chưa thành niên.
- Nhận thức pháp luật hạn chế
Đây là đối tượng còn rất non nớt về kiến thức xã hội và ý thức pháp luật,
thường có trình độ văn hóa thấp, có quan niệm sai lệch về nghĩa vụ và trách nhiệm,
họ không ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Nhiều trường hợp khi
bị bắt các em vẫn chưa biết mình phạm tội, nhưng sau khi được giải thích thì các

em tỏ ra rất ăn năn và hối hận về hành vi của mình.
- Luôn có nhu cầu khám phá cái mới
Do đây là độ tuổi mà các em bắt đầu có sự nhận thức về thế giới của người
lớn, các em rất muốn khám phá thế giới tự nhiên, khám phá cuộc sống xã hội xung
quanh mình. Sự tò mò, hiếu động, luôn tìm kiếm, khám phá những cái mới là đặc
điểm dễ nhận thấy nhất ở các em trong giai đoạn này. Chính xu hường này sẽ hình
thành ở các em những hứng thú tiêu cực nếu không có sự kiểm tra, giám sát, uốn
nắn của gia đình và nhà trường. Một số em sẽ bắt đầu tập tành thực hiện những
hành vi của người lớn nhằm để chứng tỏ bản lĩnh, để chứng minh mình đã trưởng
thành trước người khác. Nếu không có sự giáo dục đúng đắn, NCTN rất dễ vi phạm
pháp luật.
- Cách thức thực hiện tội phạm đơn giản
So với người thành niên, NCTN có hành vi vi phạm pháp luật đơn giản hơn
nhiều. Các em này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nên dễ bị người lớn xúi
giục hoặc tự mình tham gia những việc làm trái pháp luật; có thể có đồng phạm
cùng tham gia, nhưng chỉ là vi phạm pháp luật mang tính tổ chức giản đơn nên
quyết tâm vi phạm pháp luật không cao… Và khi thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật thì hành vi vi phạm pháp luật của các em thường có đặc điểm dễ nhận thấy là
hành động phạm pháp đơn giản, nhanh lẹ vội vã và ít có quyết tâm thực hiện đến

9


cùng nếu bị ngăn trở. Nghiên cứu thấu đáo đặc điểm này sẽ giúp xem xét dấu hiệu
lỗi trong mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật của NCTN.
- Phạm vi thực hiện tội phạm hạn chế
Theo quy định của pháp luật hình sự, một số tội danh không thừa nhận chủ
thể thực hiện hành vi phạm tội là NCTN. Vì lý do đó, NCTN chỉ có khả năng thực
hiện hành vi phạm tội đối với một số tội phạm nhất định, hay nói theo quan điểm
cấu thành tội phạm thì NCTN chỉ có thể có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất

định được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: Điều 116, BLHS quy định Tội dâm ô đối với trẻ
em: “Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. Quy định này từ đầu đã loại ngay chủ thể là NCTN ra khỏi
cấu thành tội phạm. Nếu NCTNPT mà có hành vi dâm ô với trẻ em thì không chịu
trách nhiệm hình sự mà có thể bị xử lý bằng các quy phạm pháp luật khác.
Hoặc có những quan hệ xã hội mà dù có cố ý, NCTN cũng không thể tham
gia, không thể có điều kiện thực hiện hành vi trái pháp luật, như trong các quan hệ
pháp luật về chức vụ, về các hoạt động tư pháp hoặc quản lý kinh tế... Như vậy,
hành vi phạm tội của NCTN còn có đặc điểm là chỉ có thể xảy ra trong những môi
trường, hay nói cách khác là trong một số quan hệ xã hội nhất định.
1.1.2. khái niệm, bản chất pháp lý, những đặc điểm cơ bản của án treo và
việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội
1.1.2.1. khái niệm án treo
Án treo là một chế định pháp lý ra đời rất sớm trong quá trình xây dựng và
phát triển pháp luật hình sự Việt Nam. Tại Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/12/1946, án
treo được xác định là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Trước
khi BLHS năm 1985 ra đời, án treo luôn được quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật về hình sự. Các Pháp lệnh về trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh
trừng trì các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; Sắc luật 003/SL của Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam v.v… đều có quy định về chế định án treo.
Quan niệm án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được
coi là một quan niệm thống nhất trong các văn bản pháp luật và trong nhận thức
chung của mọi người. Quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự 1985 là quy

10


định được pháp điển hóa đầu tiên của Pháp luật hình sự Việt Nam. Mặc dù BLHS
có những thay đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng chế định án treo vẫn được quy định

như là một chế định truyền thống, không thể thiếu của pháp luật hình sự Việt Nam.
Về áp dụng chế định án treo, Tòa án nhân dân tối cao và các ngành có liên
quan đã ban hành rất nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện. Đơn cử một số văn bản
sau đây:
- Thông tư số 2308-NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn các Tòa án áp dụng án treo;
- Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC ngày 05/01/1986 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình
sự, trong đó phần II của Nghị quyết hướng dẫn về án treo;
- Thông tư số 01/NCP2 ngày 06/4/1988 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn bổ sung về việc áp dụng án treo;
- Nghị quyết số 01/89/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo;
- Công văn số 140/NCPL ngày 05/7/1990;
- Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, trong đó có hướng dẫn cụ thể về căn cứ cho hưởng án treo, thời
gian thử thách của án treo, tổng hợp hình phạt;
- Công văn số 36/NCPL ngày 30/4/1992 của Tòa án nhân dân tối cao về yêu
cầu các Tòa án nhận thức đúng đắn về án treo;
- Công văn số 596/CT-HS ngày 30/12/1992 với tinh thần là nhắc nhở Tòa án
các cấp áp dụng án treo đúng quy định của pháp luật;
- Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Công văn số 99/TANDTC ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng về án treo (Điều 1).
- Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao;
Ngoài ra, còn có các Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 01/02/1990 của
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ


11


Công an), Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy
định của Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung, trong đó có một số hướng dẫn về án treo.
Như vậy, vấn đề áp dụng án treo luôn là vấn đề được quan tâm tương đối đặc
biệt trong suốt quá trình ra đời, phát triển. Một nét nổi lên là ở mỗi giai đoạn khác
nhau thì các hướng dẫn về án treo có những điểm không thật đồng nhất với nhau,
tạo ra sự nhận thức khác nhau trong áp dụng pháp luật về án treo. Đây cũng là vấn
đề bình thường của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự, hoàn thiện
từ những quy định riêng, nhóm quy định hoặc toàn thể các quy định để tạo ra một
bộ luật tương đối hoàn chỉnh.
BLHS 1999, tại điều 60 quy định "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm" [15]. Như vậy, án treo là một biện pháp không
buộc người bị phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam, không buộc họ phải
cách ly khỏi xã hội, họ được tự cải tạo, giáo dục trong môi trường xã hội trong một
thời gian thử thách nhất định với sự giám sát, giáo dục và giúp đỡ của các cơ quan
hoặc chính quyền địa phương cùng gia đình người bị kết án. Hiện nay đã có nhiều ý
kiến khác nhau về án treo.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Án treo là án tù không phải thi hành ngay,
nhưng sẽ thi hành nếu trong thời gian quy định người bị kết án lại phạm tội và bị xử
án lần nữa". Quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất pháp lý của án treo.
Từ điển Bách khoa toàn thư Mở (Wikipedia) định nghĩa: Án treo là chế định
pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt. Án treo được hiểu là việc
tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, hình phạt đối với người vi phạm
luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù không quá ba năm, có nhân thân
tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết trở lên), và xét thấy không cần phải

cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được, Tòa án có thể
miễn chấp hành tại trại giam mà có thể tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo
dục tại địa phương cư trú của chính quyền sở tại.

12


Có nhà khoa học quan niệm ngắn gọn và đầy đủ "Án treo là một biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với
người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều
kiện do pháp luật hình sự quy định" [4, tr. 810].
Gần đây, có tác giả thể hiện bản chất pháp lý và ý nghĩa của việc cho hưởng
án treo khi viết:
Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện kèm theo
một thời gian thử thách đối với người phạm tội, do Tòa án áp dụng khi có những
điều kiện do Bộ luật hình sự quy định, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra
khỏi đời sống xã hội mà vẫn bảo đảm công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, cũng như yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội .
Như vậy, từ những quan điểm trên đây có thể hiểu: Án treo là biện pháp
miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không
cần thiết phải chấp hành hình phạt tù.
Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình
phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ phương
châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục, thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo
trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Người phạm tội được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù trong
trại giam, không bị mất tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong cộng đồng xã
hội. Tuy nhiên, trong thời gian thử thách người phạm tội bị hạn chế một phần quyền

tự do của mình so với những người bình thường khác, đó là phải chịu sự quản lý,
giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc
chính quyền địa phương nơi người đó thường trú và họ luôn bị răn đe là nếu phạm
tội mới thì họ sẽ không được hưởng án treo nữa mà phải chấp hành hình phạt tù của
bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn
đe nhưng lại có tác dụng khuyến khích người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không
vi phạm điều kiện thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt tù.

13


Vì người được hưởng án treo được tự giáo dục, cải tạo ngay trong môi
trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động nên nó thu hút đông đảo thành viên
trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ, giáo dục và cải tạo người phạm tội, góp
phần xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội. Điều này có hiệu quả rất cao, giúp
người bị kết án thêm tin yêu vào cuộc sống, khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp vốn
có của chính mình. Việc xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội cũng chính là
góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của quần chúng nhân dân.
Trong luật hình sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và mang
tính giáo dục, cải biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu sắc. Tuy
nhiên, việc áp dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp, nhất là trong
điều kiện cơ sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều kiện cải tạo, giáo
dục người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được thực hiện tốt. Qua thực tiễn
cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các loại hình phạt
mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo, bởi lẽ đây cũng là một trong những loại hình
phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận dụng. Nếu tất cả các bị án phạt tù này đều
được đưa đi thi hành tại các trại cải tạo thì sẽ là một gánh nặng rất lớn đối với nhà
nước về vấn đề con người quản lý giáo dục, về cơ sở vật chất là rất tốn kém. Hơn
nữa, theo kết quả điều tra xã hội học và tội phạm học thì trong một số trường hợp
người phạm tội vào chấp hành hình phạt tù trong trại giam đã chịu ảnh hưởng xấu

của những phạm nhân khác nên hình thành những nhân cách xấu hơn trước khi vào
tù và khi ra tù họ trở thành những người còn hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn.
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của án treo
Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy một người bị
phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi xử phạt tù không quá ba
năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét
thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy, việc xem xét cho
hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết định hình phạt, được đặt ra trong
trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống. Tòa án đã quyết định một hình phạt đối
với người phạm tội, sau đó nếu hình phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào
nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải

14


bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo. Như vậy, án treo không
phải là hình phạt mà là một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp hành
hình phạt tù mặc dù họ đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được
hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định
buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản
án mới. Do đó, nếu người phạm tội cải tạo tốt mà không phạm tội mới trong thời
gian thử thách thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù mà được miễn chấp hành
hình phạt tù. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới và
bị xét xử thì người đó không được hưởng án treo nữa và phải chấp hành hình phạt
đã tuyên. Khi xem xét quyết định cho người bị phạt tù hưởng án treo Tòa án tin
tưởng rằng người đó sẽ tự giáo dục, cải tạo trong môi trường xã hội trong thời gian
thử thách nhất định với sự giám sát của gia đình, cơ quan, đơn vị hoặc chính quyền
địa phương. Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho
người được hưởng án treo làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của

mình ngay trong môi trường xã hội bình thường. Hình phạt tù đã tuyên sẽ được thi
hành nếu người phạm tội vi phạm điều kiện đã được ấn định trong thời gian thử
thách. Người phạm tội không vi phạm điều kiện của án treo trong thời gian thử
thách thì chứng tỏ họ đã trở thành người lương thiện, vì vậy không phải chấp hành
hình phạt tù đã tuyên trong bản án. Do đó cần khẳng định bản chất pháp lý của án
treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
1.1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo
Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần cách ly
người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ đồng thời là một chế
định pháp lý độc lập thể hiện nguyên tắc nhân đạo và phương châm xử lý trong
chính sách hình sự của Nhà nước ta "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị
kết hợp với giáo dục, thuyết phục".
Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo
quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống hình phạt bao gồm bảy hình phạt
chính và chín hình phạt bổ sung (được quy định từ Điều 28 đến Điều 40 Bộ luật
hình sự năm 1999), trong đó có hình phạt tù có thời hạn. Người chịu hình phạt tù có

15


thời hạn có thể được hưởng án treo. Trong các loại hình phạt được quy định tại
Điều 28 Bộ luật hình sự không có quy định án treo, như vậy không thể coi án treo là
hình phạt. Vì mối quan hệ giữa án treo và tù có thời hạn nên nhiều người coi án treo
là hình phạt. Tuy nhiên án treo không phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là người được hưởng án treo
là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn việc chấp
hành hình phạt tù tại trại giam. Việc cho người phạm tội hưởng án treo là cho phép
họ tự cải tạo mà không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội dưới sự kiểm tra, giám
sát của các cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để họ tích cực cải tạo và

tránh được những hình vi sai trái.
Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục
của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong một thời gian thử thách
nhất định do Tòa án ấn định.
Thời gian thử thách là khoảng thời gian nhất định do Tòa án ấn định để kiểm
tra, đánh giá việc tự cải tạo của người phạm tội. Pháp luật quy định về thời gian thử
thách đối với người phạm tội từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách được
Tòa án xác định dựa trên cơ sở mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu.
Trong trường hợp người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian thử thách và
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì không phải chấp hành hình phạt đã tuyên.
Ngược lại, đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách
thì Tòa án quyết định buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình
phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật.
1.1.2.4. Ý nghĩa của việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội
Áp dụng án treo đối với NCTNPT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị
và pháp luật. Chỉ khi hình phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng,
thì mục đích hình phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người
phạm tội, ngăn ngừa tội phạm mới và giáo dục người khác. Hình phạt được quyết
định quá nhẹ so với tính chất và mức dộ nguy hiểm của tội phạm đã thực hiện, sẽ
sinh ra ở người phạm tội và ở những người khác thái độ xem thường pháp luật.
Hình phạt được quyết định quá nặng, sẽ gây ra ở người bị án không tin tưởng vào

16


tính công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cả
hai tình trạng đó đều dẫn đến hậu quả là làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và
phòng ngừa chung của hình phạt. Quyết định hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội đúng đắn sẽ góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự

và kỷ cương xã hội.
1.1.3. Các nguyên tắc của việc áp dụng án treo đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.1.3.1. Các nguyên tắc chung
Khi áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội, trước hết cần
phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là việc tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh
và triệt để từ các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân. Để xây dựng một nhà
nước pháp quyền thì trước tiên và quan trọng hơn hết các cơ quan nhà nước khi
tham gia các quan hệ pháp luật phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và
trong việc áp dụng án treo cũng không ngoại lệ.
Áp dụng án treo là khâu cuối cùng của quyết định hình phạt. Do đó khi quyết
định hình phạt và cho người phạm tội được hưởng án treo, Tòa án phải tuân thủ
nghiêm chỉnh và triệt để các quy định của pháp luật hình sự. Đây là nguyên tắc cực
kỳ quan trọng, vì chỉ có thể áp dụng các nguyên tắc khác vào thực tiễn quyết định
hình phạt khi tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc này.
- Trước tiên, nguyên tắc này được thể hiện trong các quy định của BLHS cụ
thể là: Tại Điều 2 BLHS 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”; Điều 26 BLHS quy định:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong
BLHS và do Tòa án quyết định”; Điều 45 BLHS quy định “Khi quyết định hình
phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự…”. Ở phần các tội phạm cụ
thể, nguyên tắc pháp chế thể hiện qua các quy định cụ thể, rõ ràng từng khung hình
phạt cũng như loại hình phạt áp dụng cho từng tội phạm cụ thể.

17



- Thứ hai, là phải định tội danh đúng hành vi phạm tội của bị cáo. Đây là cơ
sở pháp lý vững chắc, là điều kiện đầu tiên cho việc quyết định một hình phạt đúng
pháp luật, công bằng và hợp lý. Việc định tội danh sai dẫn đến Tòa án quyết định
hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội và như vậy sẽ vi phạm các nguyên tắc khác như nguyên tắc công
bằng, nguyên tắc nhân đạo.
-Thứ ba, khi quyết định hình phạt Tòa án phải tuân thủ các quy định của
BLHS về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các loại hình phạt. Điều đó có nghĩa
là Tòa án tuyên một hình phạt phải có tính xác định, có căn cứ lập luận và bắt buộc
phải có lý do. Tính xác định của hình phạt thể hiện: Hình phạt được quyết định đối
với bị cáo phải cụ thể về loại, mức hình phạt và thời hạn. Tính có căn cứ lập luận và
bắt buộc phải có lý do đòi hỏi Tòa án phải nghiên cứu kỹ và làm sáng tỏ các tình
tiết có trong vụ án để làm căn cứ cho việc quyết định hình phạt. Những tình tiết đó
phải là nhũng tình tiết được xét hỏi, kiểm tra lại trong quá trình xét xử và được Hội
đồng xét xử đánh giá, nhận xét. Một đòi hỏi khác của nguyên tắc pháp chế là tính
hợp lý của quyết định hình phạt, thể hiện khi quyết định hình phạt việc lựa chọn
loại, mức hình phạt và thời hạn vừa phải đúng luật, vừa phải phù hợp với tính chất
của hành vi phạm tội, mức độ nguy hiểm của hành vi đó, nhân thân người phạm tội
và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
b. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Nhân đạo là đối xử nhân từ, độ lượng, khoan dung đối với con người, chăm
lo cho con người, coi con người là vốn quý nhất của xã hội. Khi quyết định hình
phạt, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Tòa án phải cân nhắc lợi ích của xã hội, của nhà
nước và của người phạm tội trong một tổng thể hài hòa, thống nhất và hợp lý. Nhân
đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn về lợi ích của toàn xã hội và
Nhà nước lẫn lợi ích của người phạm tội. Vì không thể nói đến nhân đạo khi quyết
định hình phạt quá đề cao lợi ích của Nhà nước, của xã hội mà xem thường lợi ích
của người phạm tội và ngược lại. Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế
sự trừng trị, điều đó có nghĩa trong một vụ án, khi quyết định Tòa án phải xác định,
lựa chọn mức hình phạt tối thiểu cần thiết đối với người phạm tội chứ không cho

phép Tòa án tuyên một mức hình phạt “dự trữ” quá mức cần thiết đối với bị cáo.

18


- Trong quyết định hình phạt, Tòa án cân nhắc đến một số tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự như: “…Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn
khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện
sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” [12] Nguyên tắc này còn được thể hiện
thông qua các quy định về quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt
như: “…Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội,
đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội
hoặc khi xét xử” [12].
- Về mục đích của hình phạt, Điều 27 BLHS quy định: “Hình phạt không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa,
ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Mục đích của hình phạt là
nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm chứ không nhằm
mục đích đày đọa hay trả thù người phạm tội. Con người dù là người phạm tội thì
họ vẫn có đầy đủ quyền con người, một hình phạt tuyên với họ nhằm mục đích làm
cho họ từ bỏ con đường phạm tội và hướng thiện chứ không nhằm triệt tiêu học
khỏi xã hội.
- Mặc dù hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
nhưng hệ thống hình phạt nước ta có tính nhân đạo sâu sắc. Điều này thể hiện trong
hệ thống hình phạt có nhiều loại hình phạt không tước quyền tự do của người phạm
tội, trong đó có chế định án treo. Bên cạnh đó, hệ thống hình phạt không quy định
những loại hình phạt mà nội dung của nó khi áp dụng có thể gây đau đớn về thể xác
hoặc hạ thấp phẩm giá con người. Mặt khác, hình phạt tù chung thân và tử hình chỉ
được áp dụng trong các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và áp dụng cũng

hạn chế, hình phạt tù chung thân và tử hình không áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội.
- Nhằm cụ thể hóa chính sách nhân đạo trong việc xử lý phạm tội, bên cạnh
hệ thống hình phạt, BLHS còn quy định hệ thống miễn, giảm hình phạt như: Miễn
trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, các trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự… Thông qua các quy định của BLHS về miễn, giảm

19


×