Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.72 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THÀNH LONG
ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: GS.T Võ Khánh Vinh

Phản biện 1: PG.TS Trần Đình Nhã
Ủy ban Quốc phòng – An ninh của Quốc hội

Phản biện 2: TS Phan Anh Tuấn
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 11
tháng 10 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em có vai trò đặc biệt quan trọng đối với gia đình và xã
hội. Vì vậy, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, Đảng và Nhà nước ta đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ
em. Nhiều chủ trương, chính sách ra đời hướng tới mục tiêu vì lợi ích
tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức
của trẻ em. Tuy nhiên, vấn đề người chưa thành niên phạm tội hiện
nay vẫn đang thu hút sự quan tâm của xã hội và các cơ quan bảo vệ
pháp luật. Trong những năm gần đây, tình hình người chưa thành
niên vi phạm pháp luật, người chưa thành niên phạm tội gia tăng, sự
trẻ hóa của tội phạm chưa thành niên đòi hỏi phải có những biện
pháp thích hợp, không chỉ nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội mà
còn nhằm để bảo vệ sự phát triển bền vững của cộng đồng trong
tương lai. Trong khi đó BLHS năm 1999 là một trong những công cụ
sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các tội
phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm,
đảm bảo được các nguyên tắc phân hóa TNHS, cá thể hóa hình phạt
đối với người phạm tội, BLHS quy định một hệ thống hình phạt rất
phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng
tội phạm, từng người phạm tội.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập,
thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật
hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan
hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó.
Tuy nhiên thực tiễn vận dụng án treo đối với NCTNPT trên
địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua bên cạnh những mặt tích

cực là chủ yếu, còn làm bộc lộ những hạn chế nhất định trong cả
1


pháp luật thực định và trong quá trình áp dụng các quy định đó. Từ
những phân tích trên đây tác giả chọn và nghiên cứu "Áp dụng án
treo đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và
việc áp dụng chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện
chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy đề
tài cũng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ
và mức độ khác nhau.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam.
Tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu những lý luận cao của án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn áp dụng ở tỉnh Bình Phước thì chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt
lý luận của án treo và áp dụng án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam; xây dựng, đề xuất một số
kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả án treo đối với người chưa
thành niên phạm tội trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Bình
Phước.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận và
pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT;

2


Thực tiễn áp dụng án treo đối với NCTNPT trên địa bàn tỉnh Bình
Phước.
Đồng thời thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong
muốn đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng
đối với NCTNPT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng án treo đối với NCTNPT từ thực tiễn tỉnh Bình Phước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài nghiên cứu các quy định hiện hành của
pháp luật hình sự Việt Nam về người chưa thành niên phạm tội;
Thực tiễn áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội;
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu việc áp dụng quy định pháp
luật hình sự Việt Nam về áp dụng án treo đối với NCTNPT từ thực
năm 2011 đến 2015;
- Về không gian, đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng án treo
đối với NCTNPT tại địa bàn tỉnh Bình Phước.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu triển khai trên cơ sở hệ thống các
quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
hình phạt và giáo dục, cải tạo con người; Các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về pháp luật hình sự nói chung, chính sách hình sự nói

riêng. Đặc biệt là các quan điểm về giáo dục, phòng ngừa tội phạm
do người chưa thành niên thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương
pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, trong đó
3


chú trọng sử dụng các phương pháp thống kê hình sự; Phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp dựa trên các số liệu, bản án, báo cáo,
thống kê từ khảo sát thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bình Phước và
nghiên cứu dưới góc độ của ngành, liên ngành, đa ngành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa luận của luận văn
Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận
văn thạc sĩ luật học về áp dụng án treo đối với người chưa thành niên
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một
cách sâu sắc và toàn diện nội dung chế định án treo trong luật hình
sự Việt Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao nhận thức
về án treo, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, có thể làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng
pháp luật hình sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong
thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội nhằm nâng cao hiệu quả của chế
định này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự về áp
dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội
Chương 2: Thực tiễn áp dụng án treo đối với người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng án
treo đối với người chưa thành niên phạm tội

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
PHẠM TỘI
1.1 Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội
1.1.1.Khái niệm, đặc điểm của người chưa thành niên
phạm tội
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên là
những người chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ những người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình
sự về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi
trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm (Điều 12 của Bộ luật hình sự).
1.1.1.2. Các đặc điểm của người chưa thành niên phạm
tội

Do là chủ thể đặc biệt nên NCTNPT có một số đặc điểm
khác biệt so với người đã thành niên, như sau:
-Sự biến đổi nhanh về thể chất và tinh thần
-Dễ bị môi trường tác động
-Nhận thức pháp luật hạn chế
-Luôn có nhu cầu khám phá cái mới
5


-Cách thức thực hiện tội phạm đơn giản
-Phạm vi thực hiện tội phạm hạn chế
1.1.2. khái niệm, bản chất pháp lý, những đặc điểm cơ
bản của án treo và việc áp dụng án treo đối với người chưa thành
niên phạm tội
1.1.2.1. khái niệm án treo
BLHS 1999, tại điều 60 quy định "Khi xử phạt tù không quá
ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết
giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì
Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm
đến năm năm" .
Như vậy, có thể hiểu : Án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ
xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù.
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của án treo
Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy
một người bị phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi
xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp
hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian

thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy, việc xem xét cho
hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết định hình phạt, được
đặt ra trong trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống. Tòa án đã
quyết định một hình phạt đối với người phạm tội, sau đó nếu hình
phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải bắt
6


chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo. Như vậy, án
treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp không bắt người
phạm tội phải chấp hành hình phạt tù mặc dù họ đã bị xử phạt tù.
1.1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo
Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp
không cần cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù
tương đối nhẹ đồng thời là một chế định pháp lý độc lập thể hiện
nguyên tắc nhân đạo và phương châm xử lý trong chính sách hình sự
của Nhà nước ta "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết
hợp với giáo dục, thuyết phục".
Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện.
Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự
giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa
phương trong một thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định.
1.1.2.4. Ý nghĩa của việc áp dụng án treo đối với người
chưa thành niên phạm tội
Áp dụng án treo đối với NCTNPT có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi hình phạt được quyết định
một cách chính xác và công bằng, thì mục đích hình phạt mới đạt

được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn
ngừa tội phạm mới và giáo dục người khác.
1.1.3. Các nguyên tắc của việc áp dụng án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội
1.1.3.1. Các nguyên tắc chung

7


Khi áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội,
trước hết cần phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là việc tuân thủ pháp luật một
cách nghiêm chỉnh và triệt để từ các cơ quan nhà nước, tổ chức và
công dân. Để xây dựng một nhà nước pháp quyền thì trước tiên và
quan trọng hơn hết các cơ quan nhà nước khi tham gia các quan hệ
pháp luật phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh và trong
việc áp dụng án treo cũng không ngoại lệ.
b. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Khi quyết định hình phạt, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi Tòa
án phải cân nhắc lợi ích của xã hội, của nhà nước và của người phạm
tội trong một tổng thể hài hòa, thống nhất và hợp lý. Nhân đạo xã hội
chủ nghĩa đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn về lợi ích của toàn xã hội
và Nhà nước lẫn lợi ích của người phạm tội. Vì không thể nói đến
nhân đạo khi quyết định hình phạt quá đề cao lợi ích của Nhà nước,
của xã hội mà xem thường lợi ích của người phạm tội và ngược lại.
c. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Cá thể hóa hình phạt là việc từng cá nhân phạm tội cụ thể
phải chịu mức hình phạt tương xứng với đặc điểm nhân thân và hành
vi phạm tội của mình. Ngay cả trong một vụ án có nhiều bị cáo thì

mỗi bị cáo phải chịu hình phạt theo hành vi phạm tội mà người ấy
tham gia.
d. Nguyên tắc công bằng
Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt được hiểu
là hình phạt do Tòa án tuyên phải phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm
8


tội. Hình phạt càng phù hợp với hành vi phạm tội thì nguyên tắc
công bằng càng được thể hiện triệt để.
1.1.3.2 .Các nguyên tắc đặc thù
Quyết định hình phạt và áp dụng án treo đối với người chưa
thành niên phạm tội là trường hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt của
trường hợp này thể hiện hình phạt được quyết định nhẹ hơn so với
người đã thành niên phạm tội có các tình tiết khác tương đương và
mức giảm nhẹ phụ thuộc vào độ tuổi của người phạm tội. Sở dĩ
người chưa thành niên phạm tội được hưởng chính sách giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của Nhà nước vì họ là người chưa phát triển đầy
đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện. Nhận thức của họ
thường non nớt thiếu chính chắn và đặc biệt họ dễ bị kích động, lôi
kéo bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu hoặc không
được chăm sóc, giáo dục chu đáo, người chưa thành niên dễ bị ảnh
hưởng thói hư, tật xấu dẫn đến phạm pháp. Bên cạnh đó, so với
người đã thành niên, ý thức phạm tội của người chưa thành niên nói
chung chưa sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo dục của xã hội, nhà trường
cũng như của gia đình để từ bỏ con đường phạm tội. Do vậy, không
thể buộc người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự giống
như người đã thành niên. Chính vì thế, hình phạt áp dụng đối với

người chưa thành niên phạm tội phải nhẹ hơn so với người đã thành
niên.
1.2 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về áp dụng
án treo đối với người chưa thành niên phạm tội
1.2.1. Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về án treo
a. quy định chung về án treo
9


Tại Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách Tòa án giao người được hưởng
án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền
địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình
người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức chính
quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ
sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định được quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ
luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần
hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ
quan tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục, Tòa án có thể rút
ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong
thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình
phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo

quy định tại Điều 51 Bộ luật này.
b. Thời gian, điều kiện thử thách của án treo, hậu quả và
trách nhiệm pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách
Điều 60 BLHS quy định "Khi xử phạt tù không quá ba năm,
căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,
nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
10


cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến
năm năm".
Điểu 3 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013
hướng dẫn "Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, Tòa án phải
ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng
không được dưới 1 năm và không được quá 5 năm".
Công văn số 27/TANDTC- KHXX ngày 17.02.2014 của Tòa
án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc ấn định thời gian thử thách
đối với người bị xử phạt tù được hưởng án treo quy định: "Đối với
trường hợp người bị xử phạt tù được hưởng án treo mà trước đó đã bị
tạm giữ, tạm giam thì thời gian họ bị tạm giữ, tạm giam không được
trừ vào thời gian thử thách".
1.2.2. Quy định của Bộ luât hình sự hiện hành đối với
người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, hình phạt
được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau:
“Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình
phạt sau đây đối với mỗi tội phạm (Điều 71): 1. Cảnh cáo; 2. Phạt
tiền; 3. Cải tạo không giam giữ; 4. Tù có thời hạn”.
1.2.3. Căn cứ của việc áp dụng án treo đối với người chưa
thành niên phạm tội

1.2.3.1. Các căn cứ chung
a. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và Nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo
được quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự hiện hành: "1.
Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người
11


phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt
chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời
gian thử thách từ một năm đến năm năm" .
- Quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(Điều 46), quyết định hình phạt trong các trường hợp đặc biệt (Điều
47)…
- Các quy định đối với người chưa thành niên được quy định
tại Chương X, BLHS năm 1999.
-Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
b. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được nhà làm
luật sử dụng làm căn cứ chủ yếu khi quy định tội phạm, loại hình
phạt và khung chế tài đối với từng loại tội phạm cụ thể. Vì vậy, khi
quyết định hình phạt, Tòa án bắt buộc phải căn cứ vào tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi để quyết định hình phạt tương xứng
với hành vi tội phạm.
c. Căn cứ về nhân thân người phạm tội
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Bộ luật hình sự thì
việc áp dụng chế định án treo phải xem xét khi xử phạt tù không quá

ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội.
Theo văn bản hướng dẫn mới nhất của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày
06.11.2013 hướng dẫn cụ thể hơn:
Có nhân thân tốt được
Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;
12


d. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp
luật
Tại Điều 60 BLHS quy định về chế định án treo thì điều kiện
cho người bị kết án được hưởng chế định án treo như sau:
Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của
người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện
Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo trong đó có quy định về các tình
tiết giảm nhẹ như sau:
Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ
các điều kiện sau đây:
a. ...
d. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định
tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có một
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm

nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
đ. Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành
hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng .
1.2.3.2. Các căn cứ đặc thù

13


Điều 69 BLHS hiện hành quy định những nguyên tắc chung
trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. Đây là những
nguyên tắc quan trọng có tính định hướng cho việc xây dựng các
điều luật khác tại Chương X- Các quy định đối với người chưa thành
niên phạm tội, đồng thời đóng vai trò kim chỉ nam cho cơ quan và
người tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự để xử lý người chưa thành niên phạm tội.
Kết luận chương 1
Khi đề cập đến các đặc điểm tâm sinh lý của người chưa
thành niên phạm tội trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố độ
tuổi, môi trường gia đình, nhà trường và xã hội có thể thấy, nguyên
nhân và điều kiện thúc đẩy người chưa thành niên thực hiện hành vi
phạm tội chủ yếu xuất phát từ việc do người chưa thành niên đang
trong quá trình hoàn thiện nhận thức nên dễ chịu tác động và ảnh
hưởng của môi trường xã hội, cả yếu tố tích cực lẫn yếu tố tiêu cực.
Những vướng mắc, bất cập trong việc nuôi dưỡng, giáo dục, tổ chức
quan hệ xã hội của người lớn như: Hoàn cảnh gia đình khó khăn,
thiếu thốn, gia đình không hạnh phúc, bỏ học sớm, bạn bè là những
thành phần không tốt; Thêm vào đó người chưa thành niên không
được chăm sóc, giáo dục chu đáo nên họ dễ dàng đi đến phạm tội.
Điều này đặt ra một đòi hỏi hết sức chính đáng là người chưa thành

niên phạm tội cần có sự quan tâm và bảo trợ đặc biệt của gia đình,
nhà trường, xã hội và pháp luật. Sự bảo trợ đó không chỉ cần thiết khi
người chưa thành niên là chủ thể của các hành vi phạm tội, mà ngay
cả khi họ là đối tượng bị xâm hại. Quan điểm chủ đạo của Nhà nước
ta không cho phép pháp luật áp đặt lên nhóm người chưa thành niên

14


phạm tội, các biện pháp cưỡng chế có tính nghiêm khắc ngang bằng
đối với người đã thành niên.
Từ những dấu hiệu đặc trưng nêu trên cùng với việc tuân thủ
nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự, BLHS 1999 đã quy
định trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội thành một chương độc lập (Chương X: Những
quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, từ Điều 68 đến
Điều 77 Bộ luật hình sự).

15


Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC

2.1. Tổng quan kết quả thụ lý và giải quyết các vụ án có
bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
Qua số liệu thống kê tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước,
số vụ phạm pháp hình sự xảy ra trung bình mỗi năm khoảng 1.500
vụ. Tỉnh là địa bàn chiếm tỉ lệ tương đối ít so với số vụ phạm pháp

hình sự trong cả nước, nhưng với những diễn biến ngày càng phức
tạp, tinh vi, cơ cấu các loại tội phạm có sự thay đổi theo hướng
chuyển dịch sang các loại tội phạm có tính chất nghiêm trọng như
cướp tài sản, cướp giật tài sản, cố ý gây thương tích… Tuy nhiên,
trong năm 2011 đến năm 2015 tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội
tương đối cao. Các hành vi phạm pháp hình sự của người chưa thành
niên cũng rất đa dạng chiếm hầu hết ở các tội danh hình sự nói
chung. Trong đó, chủ yếu tập trung vào các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con người; Các tội cướp tài sản, cướp
giật tài sản, trộm cắp tài sản; Các tội về ma túy.
-Về độ tuổi của bị cáo là người chưa thành niên đã bị xét xử
chủ yếu tập trung trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
2.2 Kết quả áp dụng án treo đối với người chưa thành
niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Bình Phước
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng án treo
Việc xây dựng và hoàn thiện về chế định án treo trong luật
hình sự Nhà nước ta là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn và chính
xác, nó phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, phù hợp
16


với các thông lệ quốc tế trên con đường phát triển, hội nhập. Thực
tiễn áp dụng án treo trong thời gian vừa qua cho thấy đã thu được
những kết quả tốt mang một ý nghĩa hết sức to lớn, chúng ta đã thể
hiện được tính nghiêm khắc trong pháp luật hình sự Nhà nước ta là
kiên quyết trừng trị kẻ phạm tội song cũng phần nào thể hiện tính
nhân đạo của pháp luật Nhà nước trong việc khoan hồng đối với
những người lần đầu lầm lỡ, biết ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả
do tội phạm mà mình đã gây ra. Như vậy về ý nghĩa, mục đích của
hình phạt đã đạt được là chúng ta lấy giáo dục làm chính mà hoàn

toàn không phải nhất thiết bắt họ phải cách ly khỏi đời sống xã hội.
Tuy nhiên không phải ở đâu, không phải mọi nơi mọi chỗ
đều hiểu và vận dụng một cách chuẩn xác những quy định về chế
định án treo, chính từ đó đã có rất nhiều những sai sót trong quá trình
vận dụng việc áp dụng chế định án treo này.
2.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng án treo đối với
người chưa thành niên phạm tội
Thực tiễn áp dụng án treo đối với NCTNPT ở tỉnh Bình
Phước cũng cho thấy người bị phạt tù không quá ba năm được hưởng
án treo phần nhiều là những người phạm tội "Vi phạm các quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ", "Trộm cắp tài sản",
"Gây rối trận tự công cộng", "Cố ý gây thương tích"...Đa số các
trường hợp cho hưởng án treo đều đúng với quy định của pháp luật
và các văn bản hướng dẫn của TANDTC, tuy nhiên một số Tòa án
nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Bình Phước vẫn có một số những
sai sót, vi phạm. Cụ thể:
Về điều kiện nhân thân người phạm tội để xem xét cho
hưởng án treo.
17


Về các tình tiết giảm nhẹ là một trong những điều kiện để
Tòa án xem xét cho người bị phạt tù hưởng án treo.
"Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại,
khắc phục hậu quả" cũng là tình tiết được sử dụng nhiều trên thực tế
nhưng vẫn còn nhiều tranh luận về việc xác định tình tiết này cũng
như mức độ của việc sửa chữa, bồi thường đến đâu thì mới được áp
dụng.
Về tình tiết "phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà
không phải do mình tự gây ra".

Về tình tiết "phạm tội mà chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt
hại không lớn", luật không quy định giới hạn nào để Tòa án xác định
là phạm tội gây thiệt hại không lớn. Do vậy, có trường hợp áp dụng
tình tiết này chưa đúng và không thống nhất giữa các Tòa.
Về tình tiết "phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng".
Về tình tiết "người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải"
2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong
việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội
Những tồn tại nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong
đó có nguyên nhân từ áp dụng luật pháp và hướng dẫn áp dụng pháp
luật và nguyên nhân từ phía người làm công tác pháp luật.
Thứ nhất, nguyên nhân từ góc độ hướng dẫn áp dụng pháp
luật: Hệ thống văn bản hướng dẫn chưa cụ thể dẫn đến việc áp dụng
không thống nhất giữa các Tòa.
Thứ hai, nguyên nhân từ phía cơ quan áp dụng pháp luật, cụ
thể nhất ở đây phải nói tới đội ngũ các Điều tra viên, Kiểm sát viên
18


và Thẩm phán trực tiếp làm công tác điều tra, truy tố, xét xử người
phạm tội có hạn chế về năng lực trình độ, tinh thần trách nhiệm.
Thứ ba, nguyên nhân từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội và các cá nhân có liên quan. Chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan được giao theo dõi, quản lý, giám sát giáo dục
người bị kết án, chưa có sự phân công phân định rõ ràng gắn với
trách nhiệm trong công tác quản lý, giáo dục người được hưởng án
treo tại các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc chính quyền địa
phương.

Kết luận chương 2
Việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
việc xử lý người chưa thành niên phạm tội nói chung và việc xét xử
bị cáo là người chưa thành niên nói riêng, hiển nhiên cũng nhằm góp
phần thực hiện mục tiêu "Giành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ
em". Mặc dù, Bộ luật tố tụng hình sự đã có những quy định riêng về
thủ tục tố tụng đối với những vụ án liên quan đến người chưa thành
niên phạm tội, nhưng thực tiễn áp dụng vẫn còn có nhiều sai sót cần
khắc phục. Qua thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự chúng ta cần phải tập trung nghiên cứu và hoàn thiện hơn các
quy định về trình tự, thủ tục tố tụng trong việc xử lý người chưa
thành niên phạm tội nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, góp phần vào
công cuộc chung của xã hội là đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm.

19


Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ÁN
TREO ĐÚNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
3.1 Các yêu cầu bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với
người chưa thành niên phạm tội
Sau nhiều năm thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về
cải cách tư pháp, thực tiễn áp dụng án treo đối với cả nước nói chung
và áp dụng án treo đối với NCTNPT trên địa bàn tỉnh Bình Phước
nói riêng vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế đòi hỏi việc áp dụng
án treo cần thực hiện một số yêu cầu cơ bản sau:
* Xuất phát từ đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

* Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp
* Xuất phát từ những bất cập của thực trạng áp dụng án treo
*Xuất phát từ yêu cầu bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng án treo đúng đối với
người chưa thành niên phạm tội
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về án
treo
3.2.2. Hướng dẫn thi hành pháp luật
Thực tiễn việc áp dụng án treo ở tỉnh Bình Phước cho thấy rõ
những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế,
vướng mắc. Để nâng cao hiệu quả áp dụng án treo ở tỉnh Bình Phước
cần phải khắc phục những hạn chế, vướng mắc này. Bên cạnh những
giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và văn bản hướng dẫn áp

20


dụng pháp luật về án treo trên phạm vi cả nước thì cụ thể ở tỉnh Bình
Phước cần thực hiện tốt những biện pháp sau đây.
3.2.2.1. Tăng cường công tác hướng dẫn và giải thích pháp
luật; công tác kiểm tra giám sát của cấp trên và của Hội đồng nhân
dân các cấp
Đối với các cơ quan trung ương cần kết phối hợp ban hành
những thông tư liên ngành để áp dụng pháp luật một cách đầy đủ, rõ
ràng hơn về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sao cho đến kết quả
cuối cùng là việc thực hiện chế định án treo được dễ hiểu, rõ ràng
nhất, đồng thời cần hướng dẫn và giải thích pháp luật cho các cơ
quan tiến hành tố tụng cấp dưới thực hiện một cách thống nhất.
3.2.2.2 Tập huấn nghiệp vụ và nâng cao năng lực của người

tiến hành tố tụng và luật sư
a. Trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
Đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Xây dựng đội ngũ xét xử trong sạch, đủ năng lực, trình độ
chuyên môn để thực hiện nhiệm vụ; bảo đảm đạo đức; phẩm chất; có
tinh thần trách nhiệm, bản lĩnh chính trị và nghề nghiệp.
Đối với Kiểm sát viên
Trong thời gian tới, Viện kiểm sát cần có một lộ trình hợp lý,
những bước đi vững chắc nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Đối với Điều tra viên
Trong công tác điều tra, điều tra viên cần thu thập thông tin,
chứng cứ để không chỉ làm rõ tất cả những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự mà còn nhằm xác định rõ những vấn đề khác
theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự. Phải vận dụng
21


một cách có căn cứ những nguyên tắc quy định tại Điều 69 Bộ luật
Hình sự. Chúng ta thấu hiểu và đồng tình với quan niệm “Nhà tù là
lựa chọn cuối cùng để xử lý người chưa thành niên phạm tội
Đối với Luật sư:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, môi trường pháp lý nhằm đề cao
vị thế, hình ảnh dấn thân bảo vệ công lý của đội ngũ luật sư.
b. Trong giai đoạn thi hành án
Đối với Tòa án: Phải kịp thời ra các quyết định nhanh, gọn,
đúng thời gian quy định.
3.2.2.3. Tăng cường các biện pháp giám sát đối với người
được hưởng án treo
Ủy ban nhân dân xã thực hiện việc giám sát, giáo dục người

được hưởng án treo cũng cần đảm bảo các quyền lợi hợp pháp của họ
trong thời gian thử thách.
3.2.2.4 Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân về
án treo
Các cơ quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, Sở Tư pháp
cần phối hợp thực hiện tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cho quần chúng nhân dân trong đó có việc tuyên truyền,
phổ biến Luật thi hành án hình sự năm 2010 của Chính phủ quy định
về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, phải coi đây là một
mặt quan trọng trong phòng chống tội phạm.
3.2.2.5. Cần hoàn thiện tổ chức Tòa gia đình và người chưa
thành niên
Mô hình Tòa gia đình và NCTN có thể coi là một mô hình tư
pháp lý tưởng xét trên nhiều phương diện. Nó giúp cho chúng ta
nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về sự phát triển của trẻ em và
22


NCTN. Để từ đó, đảm bảo những nhu cầu của trẻ em để các em đạt
được tối đa tiềm năng phát triển của mình, đảm bảo an toàn và cuộc
sống tốt đẹp cho trẻ em- “Trẻ em, tương lai ngày mai”. Đó chính là
thiết chế hữu hiệu bảo vệ cho NCTN tại Việt Nam.
Kết luận chương 3
Khi áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội,
Tòa án phải áp dụng pháp luật thật chính xác, phải dựa trên các căn
cứ quyết định hình phạt, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc, đặc
biệt là nguyên tắc “Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa
thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai làm, phát
triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”. Có như thế
mới đảm bảo quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên

phạm tội một cách nghiêm minh, đúng pháp luật, công bằng, nhân
đạo và nâng cao hiệu quả của hình phạt.

23


×