VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TIẾN
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN TIẾN
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Tiến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM
GIA GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ ................................................................. 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ......................................................................................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ ...................................................................... 16
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG ................. 25
2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang ......................................................... 25
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang. ............................... 46
CHƢƠNG 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM
QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ ...................... 63
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................. 63
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................. 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPLHS
: Áp dụng pháp luật hình sự
ATGT
: An toàn giao thông
ATGTĐB
: An toàn giao thông đường bộ
BLHS
: Bộ luật hình sự
CQTHTT
: Cơ quan tiến hành tố tụng
CTTP
: Cấu thành tội phạm
CTTPCB
: Cấu thành tội phạm cơ bản
ĐTD
: Định tội danh
GTĐB
: Giao thông đường bộ
HĐXX
: Hội đồng xét xử
NLTNHS
: Năng lực trách nhiệm hình sự
QĐHP
: Quyết định hình phạt
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
THTT
: Tiến hành tố tụng
TNGT
: Tai nạn giao thông
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ với tội phạm nói chung từ năm 2012 – 2016........................ 33
Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ đã bị xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ
năm 2012 – 2016. ............................................................................................ 34
Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ bị xét xử phúc thẩm về
tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ năm
2012 – 2016. .................................................................................................... 34
Bảng 2.4: Cơ cấu loại và mức hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ từ năm
2012 – 2016. .................................................................................................... 55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ quốc gia nào, ngành giao thông luôn có vị trí và vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhận thức được điều đó, trong
những năm qua, dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng Đảng, Nhà
nước ta vẫn luôn quan tâm đầu tư mạnh mẽ cho ngành này. Xác định đây là
ngành kinh tế mũi nhọn, tạo tiền đề cho sự phát triển các ngành kinh tế khác.
Mặc dù vậy, cùng với sự phát triển thì tình hình TNGT nói chung và
TNGT đường bộ nói riêng đã và đang diễn biến hết sức phức tạp. Trước tình
hình đó, Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng đã có nhiều giải pháp
nhằm làm giảm, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ TNGT có thể xảy ra. Tuy
nhiên, trên thực tế, số vụ TNGT vẫn chưa có chiều hướng suy giảm mà đáng
báo động hơn số vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng xảy ra ngày càng nhiều.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình TNGT tăng mà chủ yếu là
các điều kiện bảo đảm cho sự thống nhất trong hoạt động giao thông chưa
đồng bộ. Cụ thể, phương tiện giao thông các loại đều tăng nhưng chất lượng
chưa đảm bảo. Hạ tầng giao thông phát triển nhanh, mạnh nhưng chất lượng
còn kém, nhiều loại đường và công trình phục vụ cho giao thông đã xuống
cấp chưa được sửa chữa kịp thời. Người tham gia giao thông tăng cao nhưng
ý thức khi tham gia giao thông còn kém. Mặt khác, việc xử lý các hành vi vi
phạm, tội phạm trong lĩnh vực này của cơ quan nhà nước có lúc, có nơi còn
thiếu nghiêm minh, chưa mang tính răn đe cao và chưa tương xứng với những
hậu quả xảy ra. Từ đó, chưa thật sự có giải pháp quyết liệt nhằm ngăn chặn và
đẩy lùi TNGT.
Ngoài ra, việc quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ tại điều 202 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 2009 còn nhiều điểm, khoản chưa cụ thể, rõ ràng… và dù có
1
nhiều văn bản hướng dẫn nhưng chưa kịp thời và đầy đủ. Trong khi trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của một số Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm
phán chưa cao dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn nhiều khó khăn, bất cập.
Do vậy, cần phải xác định nhiệm giải quyết vấn đề được xem là “quốc
nạn” này không phải là của riêng ai mà là của cả hệ thống chính trị. Trước hết,
chúng ta cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ. Từ đó tìm ra những khó khăn, bất cập
và nguyên nhân của chúng. Kịp thời có những giải pháp nhằm bảo đảm áp
dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này trong thời gian tới.
Chính lý do trên và với vị trí công tác hiện tại là Kiểm sát viên - Viện
kiểm sát nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Tác giả lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” làm luận văn
Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn, đó là các giáo trình của các trường
đại học, các luận án, luận văn, sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo… đề cập
đến loại tội phạm này, cụ thể:
* Thứ nhất, các giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học gồm:
- GS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2001), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Chương X – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
(Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS. Nguyễn Ngọc
Hòa (chủ biên, 2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XXV – Các
tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Tập II), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội; GS.TS. Đỗ Ngọc Quang (2001, tái bản năm 2003 và 2007),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn
2
công cộng, trật tự công cộng (Phần các tội phạm), do GS.TS. Lê Cảm chủ
biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội và Thạc sĩ Đinh Văn Quế (2012) Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng (Tập 5), Nxb Lao động, Hà Nội.
* Thứ hai, các luận văn, luận án gồm:
- Phan Thị Thanh Thảo (2008), Đấu tranh phòng chống tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tại tỉnh Long An, Luận
văn Tiến sĩ, Trường đại học luật TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Nghiệp
(2011), Phòng ngừa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Luận văn Thạc sĩ, Trường đại
học luật Hà Nội và Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng chống tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
* Thứ ba, có nhiều bài báo, bài nghiên cứu ngắn phân tích về tội vi
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:
- Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai (2009), Một số vướng mắc trong thực tiễn
giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đường bộ, Tạp chí Tòa án
nhân dân số 22, tháng 11 năm 2009; Lê Văn Luật (2011), Xác định lỗi khi định
tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ - một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 01, tháng 01 năm 2012, trang 10-14 và Cao Việt
Cường (2014), Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định tại điều 202 BLHS
năm 1999 tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4, trang 18 - 20.
Nhìn chung, các công trình trên đều nghiên cứu về tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Thế nhưng, có một số
chủ yếu nghiên cứu về những vấn đề cơ sở lý luận chung về tội phạm này, đây
3
cũng chính là nền tảng cho những bước nghiên cứu tiếp theo. Một số công
trình chủ yếu nghiên cứu về vấn đề đấu tranh, phòng chống tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ dưới góc độ tội phạm
học. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, trong phạm vi 02 cấp của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Tiền Giang chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ,
toàn diện ở cả góc độ lý luận và thực tiễn đối với tội danh này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và nay là tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, luận văn đề
xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung điều 260 của BLHS năm 2015 và
một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội
nói trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả đề ra các nhiệm vụ cần giải quyết
sau:
- Phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cũng như các quy định của
pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ
trước năm 1985 đến năm 2015.
- Nghiên cứu thực tiễn ĐTD và QĐHP đối với tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, từ
đó tìm ra được những khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố và
xét xử về tội phạm này.
- Lập luận và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật hình sự cũng như các giải pháp khác nhằm bảo đảm áp dụng đúng
4
quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự
và thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ tại Tòa án 02 cấp tỉnh Tiền Giang để nghiên cứu các nội dung
nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, dù điều luật đã đổi tên nhưng chưa có hiệu
lực trên thực tế nên luận văn chủ yếu nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên cơ sở có sự so sánh với điều 260
BLHS năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự. Bên cạnh, các số liệu về tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ, tác giả còn viện dẫn các ví dụ chứng minh
hành vi vi phạm của người tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn của tỉnh
Tiền Giang trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016 để làm cơ sở cho việc
so sánh, nhận thức và áp dụng đúng điều 260 của BLHS năm 2015. Do nội
dung của áp dụng pháp luật rất rộng nên luận văn chỉ tập trung vào vấn đề
ĐTD và QĐHP.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta về tội phạm, hình phạt; về phòng, chống tội phạm; về cải cách
tư pháp; về quyền con người và bảo vệ quyền con người... làm phương pháp
luận để nghiên cứu.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: thu thập tài liệu, phân tích, hệ thống, chứng minh để so sánh nghiên
cứu các nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện từ những vấn đề lý
luận đến thực tiễn xét xử về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ của Tòa án 02 cấp tỉnh Tiền Giang. Tác giả đã nêu ra những
hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó, đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung điều
260 của BLHS năm 2015 cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt
động ĐTD và QĐHP đối với loại tội phạm này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có một ý nghĩa nhất định nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Qua
đó, góp một phần nhỏ công sức vào công tác đấu tranh, phòng chống tội
phạm. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho đội
ngũ những người THTT như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…trong
quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, danh
mục các chữ viết tắt và danh mục các bảng biểu, luận văn có kết cấu gồm 03
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi
6
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết
định hình phạt đúng đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đƣờng bộ
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 có tên là “Tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” được quy định tại điều
202. Sau khi BLHS năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam thông qua ngày 27/11/2015, tội danh nói trên được đổi tên thành “Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điều 260 thuộc
Chương XXI – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Theo quy định tại điều 8 của BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội
8
phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”[22, tr.284]. Như vậy, khái
niệm tội phạm trên bao gồm 04 dấu hiệu: là hành vi có tính nguy hiểm (đáng
kể) cho xã hội; là hành vi có tính trái pháp luật hình sự; là hành vi có tính có
lỗi và là hành vi có tính phải chịu hình phạt.
Tại khoản 1 điều 260 BLHS năm 2015, nhà làm luật quy định:“Người
nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”[22, tr.284]. Như vậy, theo quy định
tại khoản 1 trên thì các nhà làm luật vẫn chưa đưa ra được khái niệm về tội
phạm này có đầy đủ 04 dấu hiệu về tội phạm mà chỉ mới dừng lại ở mức độ
liệt kê một số yếu tố của CTTP.
Trong khi đó trong khoa học luật hình sự có khá nhiều khái niệm được
đưa ra về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Chẳng hạn,
có quan điểm cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ là hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại
cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác” [25, tr.196].
Theo một quan điểm khác: “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông
trong khi điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho
tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người
khác”[15, tr.8].
Cả hai định nghĩa trên có một điểm chung là chưa đề cập đến vấn đề
NLTNHS của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
9
Kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trên và trên cơ sở so
sánh các quy định của BLHS năm 1999 và 2015, tác giả đưa ra định nghĩa
như sau: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi
của người tham gia giao đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ, do người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện
một cách vô ý, gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sức khỏe, tài sản của người khác”.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
Các dấu hiệu pháp lý có trong các yếu tố CTTP tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ chính là cơ sở pháp lý của việc ĐTD tội này.
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có 04 yếu tố CTTP
gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội
phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
được xác định là trật tự an toàn của hoạt động GTĐB và sự an toàn về tính
mạng, sức khỏe và tài sản của người khác [27, tr.417].
Hiện nay, các quy định về trật tự ATGTĐB được quy định tại Luật
giao thông đường bộ được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008. Đây cũng là
căn cứ để xác định hành vi tham gia giao thông đường bộ đã vi phạm hay
chưa vi phạm.
* Mặt khách quan của tội phạm
Theo quan điểm truyền thống thì mặt khách quan của tội phạm bao
gồm: hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả. Cũng giống như các tội phạm khác, mặt khách
quan của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, gồm:
10
- Hành vi khách quan của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là hành vi vi phạm các quy định về ATGTĐB. Nó được hiểu là
hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc GTĐB được
quy định trong luật GTĐB năm 2008 như: hành vi vi phạm quy định về tốc độ
và khoảng cách giữa các xe, sử dụng làn đường, vượt xe, chuyển hướng xe…
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ là gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm
trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác. Thiệt hại được coi là nghiêm
trọng thuộc một trong các trường hợp sau:
“a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người với tỷ
lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 03 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng” [22, tr.284].
- Mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả: giữa hành vi vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ và hậu quả của hành vi đó phải có mối quan
hệ nhân quả với nhau, nghĩa là hành vi phạm tội đó phải có trước và là
nguyên nhân gây ra hậu quả đó.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể phải chịu TNHS theo quy định tại điều 260 của BLHS năm
2015 là người tham gia giao thông đường bộ gồm: người điều khiển, người sử
dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ, người điều khiển, dẫn dắt
súc vật và người đi bộ. Mặc dù, BLHS năm 2015 đã sửa đổi quy định về độ
tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên do tội này là tội vô ý và có mức hình phạt tối đa
11
chỉ đến 15 năm tù nên chủ thể của tội phạm này là người từ đủ 16 tuổi trở lên
và có NLTNHS.
* Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ là lỗi vô ý (vì quá tự tin hoặc cẩu thả).
- Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội nhận thức được
hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ của mình có
thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng với niềm tin chủ quan, thiếu
cơ sở nên đã cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được và hậu quả thực tế đã xảy ra.
- Lỗi vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước
được hành vi vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ của
mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả đó và hậu quả thực tế đã xảy ra.
1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với một số tội phạm khác
1.1.2.1.Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội giết người quy định tại điều 123 BLHS năm 2015
* Những điểm giống nhau: Chủ thể của tội phạm đều do những người
có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện và động cơ, mục đích đều
không phải là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của 02 tội này.
* Những điểm khác nhau:
- Về mặt khách thể của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động GTĐB và an toàn về
tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, còn tội giết người xâm phạm
đến quyền được bảo vệ tính mạng của con người.
- Về mặt khách quan của tội phạm:
12
+ Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành
vi vi phạm các quy định về ATGTĐB của người tham gia giao thông được thể
hiện dưới dạng hành động, còn giết người là hành vi tước đoạt trái pháp luật
tính mạng hoặc có khả năng gây ra cái chết cho người khác, được thể hiện
dưới dạng hành động và không hành động.
+ Hậu quả: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây
thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản
của người khác, còn tội giết người gây hậu quả chết người.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý (vì quá tự tin hoặc cẩu thả), còn
tội giết người được thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).
- Địa điểm phạm tội: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ xảy ra trên đường trong khi tham gia giao thông, còn tội giết người
là ở bất kỳ địa điểm nào.
1.1.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
quy định tại điều 138 BLHS năm 2015
* Những điểm giống nhau: Theo quy định tại điều 138 của BLHS năm
2015 thì tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác được hiểu là hành vi vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên do người có
NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc cẩu
thả. Như vậy, so với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
có những điểm giống nhau như sau: Chủ thể của tội phạm là những người có
NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS và tội phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi
vô ý, bao gồm cả lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc cẩu thả.
* Những điểm khác nhau:
13
- Về mặt khách thể của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động GTĐB và an toàn về
tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, còn tội vô ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xâm phạm đến quyền được bảo
vệ sức khỏe của con người.
- Về mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành
vi vi phạm các quy định về ATGTĐB của người tham gia giao thông được thể
hiện dưới dạng hành động, còn vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng,
không đầy đủ các quy tắc an toàn gây nên thương tích cho nạn nhân.
+ Hậu quả: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây
thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản
của người khác, còn tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên.
- Địa điểm phạm tội: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ xảy ra trên đường trong khi tham gia giao thông, còn tội vô ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là ở bất kỳ địa
điểm nào.
1.1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ với tội đua xe trái phép quy định tại điều 266 BLHS năm 2015
* Những điểm giống nhau: Theo quy định tại điều 266 của BLHS năm
2015 thì tội đua xe trái phép được hiểu là hành vi của hai hay nhiều người
điều khiển xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm, do người có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
14
Như vậy, tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ và tội
đua xe trái phép đều do chủ thể có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện
và đều xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và đe dọa xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác.
* Những điểm khác nhau:
- Về mặt khách thể của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động GTĐB và an toàn về
tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, còn tội đua xe trái phép xâm
phạm đến ATGTĐB và ATGT đô thị, đồng thời còn đe đọa xâm phạm tính
mạng, sức khỏe và tài sản của người khác.
- Về mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành
vi vi phạm các quy định về ATGTĐB của người tham gia giao thông được thể
hiện dưới dạng hành động, còn đua xe trái phép là hành vi đua trái phép xe ô
tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho tính mạng
và sức khỏe, tài sản của người khác.
+ Hậu quả: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ gây
thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản
của người khác, còn tội đua xe trái phép gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây
thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe và tài sản của người khác, hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm.
- Về mặt chủ quan của tội phạm: tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý (vì quá tự tin hoặc cẩu thả), còn
tội đua xe trái phép được thực hiện với lỗi cố ý (cố ý trực tiếp).
- Địa điểm phạm tội: tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ xảy ra trên đường trong khi tham gia giao thông, còn tội đua xe trái
15
phép là nơi công cộng nhưng chủ yếu là các tuyến đường lớn nhân các dịp lễ
lớn…
* Ý nghĩa của việc phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ với một số tội phạm khác:
Việc phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
và một số tội phạm nói trên giúp ta nhận thức rõ từng yếu tố CTTP của tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đồng thời, tìm ra những
điểm tiến bộ trong các tội phạm được quy định tại các điều trên. Từ đó, đề
xuất những sửa đổi, bổ sung điều 260 BLHS năm 2015 theo hướng hợp lý
hơn.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đƣờng bộ
1.2.1. Trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cách mạng tháng 8/1945 thành công đập tan chế độ thống trị của thực
dân phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cùng với
việc xây dựng Nhà nước kiểu mới thì hệ thống pháp luật cũng được xây dựng,
bao gồm: Hiến pháp, Sắc lệnh, Nghị định…Nhằm bảo vệ chính quyền còn
non trẻ, đập tan những âm mưu phá hoại của các thế lực phản động. Nhà nước
đã ban hành Sắc lệnh số 21 ngày 14/02/1946, trong đó quy định các tội gián
điệp, tội âm mưu lật đổ chính quyền, tội hoạt động phỉ…Tuy nhiên, tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chưa được quy định ở thời
kỳ này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý xã hội.
Ngày 03/12/1955, Luật đi đường bộ được ban hành kèm theo Nghị định số
348-NĐ của Bộ giao thông và Bưu điện. Đây được xem là văn bản pháp lý
đầu tiên của Nhà nước ta về ATGTĐB. Văn bản này tạo cơ sở cho việc ban
16
hành hàng loạt các văn bản pháp lý khác như: Thông tư số 442/TTg ngày
19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định Liên bộ Giao thông Bưu
điện – Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận
tải đường bộ...
Thông tư số 442/TTg được xem là văn bản pháp luật hình sự đầu tiên
của Nhà nước ta quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ. Tại điều 4 của Thông tư này quy định: “Không cẩn thận hay không
theo luật đi đường mà gây tai nạn làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 3
tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người có thể bị phạt tù đến 10
năm”[8, tr.135]. Sau hơn 01 năm thực hiện đến ngày 29/6/1956, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Thông tư số 556/TTg bổ khuyết vào điều 4 Thông tư
số 442/TTg về phần hình phạt, cụ thể: “Không cẩn thận hay không theo luật
đi đường mà làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm.
Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù đến 10 năm. Trường hợp
gây ra tai nạn lớn làm chết nhiều người và thiệt hại lớn đến tài sản của nhân
dân thì có thể bị phạt đến tù chung thân hoặc tử hình”[9, tr.135].
Trong thời kỳ này, tội phạm này đều được điều tra, truy tố và xét xử theo
các Thông tư trên. Với đường lối xử lý là trừng trị thích đáng đối với những vi
phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời phải thận trọng xem xét mọi tình tiết.
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Chính phủ đã ban hành
Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với
hành vi xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân
dân. Tại điều 9 của Sắc luật này quy định: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây
tai nạn nghiêm trọng với các khung hình phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, trường
hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị
phạt tiền đến 1000 đồng ngân hàng”.
17
Như vậy có thể thấy, trước khi có BLHS năm 1985, tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ chưa được quy định thành một tội độc
lập. Đến năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dưới dạng Sắc luật
quy định về tội phạm và hình phạt đối với tội này. Tuy nhiên, hình phạt đối
với tội phạm này có thể xử phạt đến tử hình, dù thực tiễn chưa áp dụng trường
hợp nào.
1.2.2. Trong Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII đã thông qua
BLHS Việt Nam và đây cũng chính là BLHS đầu tiên của nước ta.
Tuy nhiên, trong Bộ luật này, tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ chưa có tên riêng mà được quy định chung trong tội: “Vi
phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”
tại điều 186 chương VIII – các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật
tự quản lý hành chính.
So với các quy định trước đó, điều 186 BLHS năm 1985 đã có bước cải
tiến lớn cả về nội dung lẫn kỹ thuật lập pháp. Cụ thể:
-Tên của tội đã được xác định và mô tả rõ các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội phạm cũng như quy định các khung hình phạt tương ứng với
tính chất và mức độ của từng hành vi phạm tội.
- Đường lối xử lý đối với người phạm tội so với các quy định trước đây
cũng nhẹ hơn, cụ thể chỉ xử phạt tối đa đến 20 năm tù.
- Các tình tiết định khung TNHS được quy định cụ thể, đầy đủ và rõ
ràng hơn. Trong đó, có quy định nhiều tình tiết mới so với trước đây.
Tuy nhiên, điều 186 BLHS năm 1985 cũng còn bộc lộ hạn chế đó là
quy định 04 loại hành vi trong 04 lĩnh vực về đường bộ, đường sắt, đường
thủy và đường không có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn rất
khác nhau trong cùng một điều luật. Điều này đã ảnh hưởng đến việc xác định
18
tính chất và mức độ nguy hiểm cũng như phân hóa TNHS của hành vi phạm
tội.
Kể từ khi được ban hành đến trước năm 1999, BLHS năm 1985 đã
được sửa đổi, bổ sung 04 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua các
lần sửa đổi, bổ sung, chỉ có sự thay đổi về tên tội danh (sửa đổi, bổ sung vào
năm 1991) từ tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu
quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải.
1.2.3. Trong Bộ luật hình sự năm 1999
BLHS năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2000. Trong BLHS năm 1999, tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại điều 202, chương XIX Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
So với điều 186 BLHS năm 1985, điều 202 BLHS năm 1999 có nhiều
điểm tiến bộ:
- Lần đầu tiên tội này được quy định thành một điều luật độc lập, có tên
gọi riêng, cụ thể và rõ ràng với quy định có CTTPCB trong điều luật, tên tội
phù hợp với nội dung của hành vi phạm tội, bảo đảm tính chính xác cao, tránh
sự nhầm lẫn giữa tội này với tội khác.
- Việc quy định thành một tội độc lập sẽ cụ thể hóa được các dấu hiệu
của chủ thể tội phạm. Từ đó quy định loại và mức hình phạt tương xứng.
- Tuy chủ đề của tội phạm trong cả hai BLHS đều không đổi, vẫn là
hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông nhưng cách thể hiện
hành vi khách quan của điều 202 chính xác và ngắn gọn hơn. Theo đó, đã giới
hạn hành vi khách quan chỉ là vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ.
19