Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.37 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TIẾN

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG

Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự
Mã số: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hồ Sỹ Sơn
Phản biện 1: TS. Đặng Quang Phương

Phản biện 2: TS. Trần Thị Quang Vinh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại Học viện khoa học xã hội lúc 15 giờ 00 ngày 10 tháng 10
năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ quốc gia nào, ngành giao thông luôn có vị trí và vai
trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Nhận thức được
điều đó, trong những năm qua, dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó
khăn nhưng Đảng, Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đầu tư mạnh mẽ
cho ngành này. Xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn, tạo tiền đề
cho sự phát triển các ngành kinh tế khác.
Mặc dù vậy, cùng với sự phát triển thì tình hình TNGT nói
chung và TNGT đường bộ nói riêng đã và đang diễn biến hết sức
phức tạp. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức
năng đã có nhiều giải pháp nhằm làm giảm, hạn chế đến mức thấp
nhất số vụ TNGT có thể xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, số vụ TNGT
vẫn chưa có chiều hướng suy giảm mà đáng báo động hơn số vụ
TNGT đặc biệt nghiêm trọng xảy ra ngày càng nhiều.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình TNGT tăng mà
chủ yếu là các điều kiện bảo đảm cho sự thống nhất trong hoạt động
giao thông chưa đồng bộ. Cụ thể, phương tiện giao thông các loại
đều tăng nhưng chất lượng chưa đảm bảo. Hạ tầng giao thông phát
triển nhanh, mạnh nhưng chất lượng còn kém, nhiều loại đường và
công trình phục vụ cho giao thông đã xuống cấp chưa được sửa chữa
kịp thời. Người tham gia giao thông tăng cao nhưng ý thức khi tham
gia giao thông còn kém. Mặt khác, việc xử lý các hành vi vi phạm,
tội phạm trong lĩnh vực này của cơ quan nhà nước còn thiếu nghiêm
minh, chưa mang tính răn đe cao. Từ đó, chưa thật sự có giải pháp
quyết liệt nhằm ngăn chặn và đẩy lùi TNGT.
Ngoài ra, việc quy định tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ tại điều 202 Luật sửa đổi, bổ sung
1



một số điều của BLHS năm 2009 còn nhiều điểm, khoản chưa cụ thể,
rõ ràng. Trong khi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của một số Điều
tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa cao.
Do vậy, chúng ta cần nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Từ
đó tìm ra những khó khăn, bất cập và nguyên nhân của chúng. Kịp
thời có những giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật hình sự về tội phạm này trong thời gian tới.
Chính vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học và cán bộ làm công tác thực tiễn, đó là các giáo
trình của các trường đại học, các luận án, luận văn, sách báo, tạp chí,
tài liệu tham khảo… đề cập đến loại tội phạm này.
Thế nhưng, có một số chủ yếu nghiên cứu về những vấn đề
cơ sở lý luận chung về tội phạm này. Một số công trình chủ yếu
nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện
tại, trong phạm vi 02 cấp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện ở cả
góc độ lý luận và thực tiễn đối với tội danh này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
luận văn đề xuất những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung điều 260
2



của BLHS năm 2015 và một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của pháp luật hình sự về tội nói trên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích khái niệm, các dấu hiệu pháp lý cũng như các quy
định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ từ trước năm 1985 đến năm 2015.
- Nghiên cứu thực tiễn ĐTD và QĐHP đối với tội vi phạm
quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn
tỉnh Tiền Giang, từ đó tìm ra được những khó khăn, vướng mắc trong
quá trình điều tra, truy tố và xét xử về tội phạm này.
- Lập luận và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự cũng như các giải pháp khác nhằm bảo
đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật
hình sự và thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ tại Tòa án 02 cấp tỉnh Tiền Giang
để nghiên cứu các nội dung nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, dù điều
luật đã đổi tên nhưng chưa có hiệu lực trên thực tế nên luận văn chủ
yếu nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ trên cơ sở có sự so sánh với điều 260 BLHS năm
2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành luật hình
sự và tố tụng hình sự. Bên cạnh, các số liệu về tội vi phạm quy định
3



về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, tác giả còn viện dẫn
các ví dụ chứng minh hành vi vi phạm của người tham gia giao thông
đường bộ từ thực tiễn của tỉnh Tiền Giang trong thời gian từ năm
2012 đến năm 2016 để làm cơ sở cho việc so sánh, nhận thức và áp
dụng đúng điều 260 của BLHS năm 2015. Do nội dung của áp dụng
pháp luật rất rộng nên luận văn chỉ tập trung vào vấn đề ĐTD và
QĐHP.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn lấy phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm, hình phạt; về
phòng, chống tội phạm; về cải cách tư pháp; về quyền con người và
bảo vệ quyền con người... làm phương pháp luận để nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng trong một tổng thể các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: thu thập tài liệu, phân tích, hệ thống, chứng
minh để so sánh nghiên cứu các nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện từ những
vấn đề lý luận đến thực tiễn xét xử về tội vi phạm quy định điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ của Tòa án 02 cấp tỉnh Tiền
Giang. Tác giả đã nêu ra những hạn chế, bất cập trong các quy định
của pháp luật, những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
pháp luật. Từ đó, đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung điều 260 của BLHS
năm 2015 cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động ĐTD
4



và QĐHP đối với loại tội phạm này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có một ý nghĩa nhất
định nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với
loại tội phạm này. Qua đó, góp một phần nhỏ công sức vào công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm. Ngoài ra,luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ những người THTT như
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán…trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham
khảo, danh mục các chữ viết tắt và danh mục các bảng biểu, luận văn
có kết cấu gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ.
Chương 2: Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh
và quyết định hình phạt đúng đối với tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là
hành vi của người tham gia giao đường bộ vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ, do người có năng lực và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý, gây thiệt hại cho tính mạng
hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người
khác.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
* Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ là trật tự an toàn của hoạt động GTĐB và sự an toàn
về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác.
* Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan của tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ là hành vi vi phạm các quy định về ATGTĐB.
- Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ là gây thiệt hại cho tính mạng, sức
khỏe, tài sản của người khác.

6


* Chủ thể của tội phạm này là người điền khiển, người sử

dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ, người điều khiển,
dẫn dắt súc vật và người đi bộ. Độ tuổi chịu TNHS của tội phạm này
là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có NLTNHS.
* Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ là lỗi vô ý (vì quá tự tin hoặc
cẩu thả).
1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ với một số tội phạm khác
1.1.2.1. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ với tội giết người quy định tại điều 123 BLHS năm
2015
- Giống nhau: Chủ thể của tội phạm đều do những người có
NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện và động cơ, mục đích đều
không phải là dấu hiệu bắt buộc.
- Khác nhau về mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan của tội phạm.
1.1.2.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác quy định tại điều 138 BLHS năm 2015
- Giống nhau: Chủ thể của tội phạm là những người có
NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS và tội phạm được thực hiện bởi hình
thức lỗi vô ý, bao gồm cả lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc cẩu thả.
- Khác nhau về mặt khách thể, mặt khách quan của tội
phạm.
1.1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ với tội đua xe trái phép quy định tại điều 266 BLHS
năm 2015
7



- Giống nhau: đều do chủ thể có NLTNHS và đủ tuổi chịu
TNHS thực hiện và đều xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự
công cộng và đe dọa xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản
của người khác.
- Khác nhau về mặt khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan của tội phạm.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Trước khi có BLHS năm 1985, tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ chưa được quy định thành một tội độc lập.
Đến năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dưới dạng Sắc
luật quy định về tội phạm và hình phạt đối với tội này. Tuy nhiên,
hình phạt đối với tội phạm này có thể xử phạt đến tử hình, dù thực
tiễn chưa áp dụng trường hợp nào.
1.2.2. Trong Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27/6/1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII đã
thông qua BLHS Việt Nam và đây cũng chính là BLHS đầu tiên của
nước ta. Tuy nhiên, Điều 186 BLHS năm 1985 còn bộc lộ hạn chế đó
là quy định 04 loại hành vi trong 04 lĩnh vực về đường bộ, đường sắt,
đường thủy và đường không có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo
đảm an toàn rất khác nhau trong cùng một điều luật. Điều này đã ảnh
hưởng đến việc xác định tính chất và mức độ nguy hiểm cũng như
phân hóa TNHS của hành vi phạm tội.
1.2.3. Trong Bộ luật hình sự năm 1999
So với điều 186 BLHS năm 1985, điều 202 BLHS năm
1999có nhiều điểm tiến bộ:

8



- Lần đầu tiên tội này được quy định thành một điều luật độc
lập, có tên gọi riêng, cụ thể và rõ ràng với quy định có CTTPCB
trong điều luật.
- Việc quy định thành một tội độc lập sẽ cụ thể hóa được các
dấu hiệu của chủ thể tội phạm. Từ đó quy định loại và mức hình phạt
tương xứng.
1.2.4. Trong Bộ luật hình sự năm 2015
So với Điều 202 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS
năm 2009 thì điều 260 của BLHS năm 2015 có những tiến bộ đáng
ghi nhận sau:
- Sửa tên gọi của điều luật thành tội “Vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ”. Việc sửa đổi này một mặt làm cho
tên điều luật ngắn gọn hơn, mặt khác bao hàm đầy đủ các chủ thể
phải chịu TNHS.
- Đã định lượng hóa hậu quả trong CTTPCB và cấu thành
tăng nặng.

9


Chương 2
THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH TIỀN GIANG
2.1. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
2.1.1. Cách tiếp cận để nhận diện thực tiễn định tội danh
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

2.1.1.1. Khái niệm định tội danh
Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ là một trong những dạng hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo
quy định pháp luật để xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm
tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ hay không, nếu đúng thì nó thuộc
điểm, khoản nào của điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 và đưa ra
kết luận bằng một văn bản áp dụng pháp luật.
2.1.1.2. Các trường hợp định tội danh đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản:
- Định tội danh theo khách thể của tội phạm.
- Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm.
- Định tội danh theo chủ thể của tội phạm.
- Định tội danh theo mặt chủ quan của tội phạm.
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng theo quy
định tại khoản 2 điều 260 BLHS

10


+ Điểm a khoản 2 điều 260 BLHS quy định: “Không có giấy
phép lái xe theo quy định”.
+ Điểm b khoản 2 điều 260 BLHS năm 2015 quy định:
“Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở
có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng chất ma túy
hoặc các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng”.
+ Điểm c khoản 2 điều 260 BLHS năm 2015 quy định:
“Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không

giúp người bị nạn”.
+ Điểm d khoản 2 điều 260 BLHS năm 2015 quy định:
“Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn
giao thông”.
+ Điểm đ, e, g và h khoản 2 điều 260 BLHS năm 2015 quy
định: làm chết 02 người; gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe
của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên
mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến
200%; gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới
1.500.000.000 đồng.
* Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng theo quy
định tại khoản 3 điều 260 BLHS
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
2.1.2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
Theo số liệu thống kê, trong 05 năm từ năm 2012 đến 2016,
tổng số tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh Tiền Giang là 4732 vụ, với
7515 bị cáo, trung bình mỗi năm xảy ra 946 vụ. Trong đó, tội vi
11


phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
604 vụ/618 bị cáo, (chiếm 12,7% số vụ, 8,2% số bị cáo). Cụ thể như
sau: Năm 2012, toàn ngành Tòa án tỉnh Tiền Giang xét xử 780
vụ/989 bị cáo, trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là 97 vụ/98 bị cáo, (chiếm 12,4% số vụ,
9,9% số bị cáo). Năm 2013, xét xử 795 vụ/1139 bị cáo, trong đó tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là

96 vụ/96 bị cáo, (chiếm 12,1% số vụ, 8,4% số bị cáo). Năm 2014, xét
xử 1060 vụ/1801 bị cáo, trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ là 111 vụ/114 bị cáo, (chiếm 10,5%
số vụ, 6,3% số bị cáo). Năm 2015, xét xử 1012 vụ/1598 bị cáo, trong
đó tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ là 119 vụ/121 bị cáo, (chiếm 11,8% số vụ, 7,6% số bị cáo). Năm
2016, xét xử 1085 vụ/1988 bị cáo, trong đó tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là 181 vụ/189 bị cáo,
(chiếm 16,7% số vụ, 9,5% số bị cáo).
2.1.2.2. Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ
bản
* Định tội danh đúng theo cấu thành tội phạm cơ bản
Nghiên cứu 604 vụ/618 bị cáo đã xét xử có 415 vụ/415 bị
cáo bị xét xử theo khoản 1 (chiếm 68,7% số vụ, 67,2% số bị cáo) và
chiếm tỉ lệ cao nhất trong các khoản của điều 202 BLHS. Đa số các
vụ án được xét xử theo khoản này đều áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về ĐTD.
* Những khó khăn, sai lầm trong định tội danh theo cấu
thành tội phạm cơ bản
- Các CQTHTT xác định không đúng lỗi dẫn đến việc tuyên
bị cáo không phạm tội.
12


- Do khoản 1 điều 202 BLHS không quy định chủ thể chịu
TNHS đối với tội này là người đi bộ nên khi người đi bộ tham gia
giao thông có lỗi gây ra hậu quả nhưng không thể xử lý được.
- Khó khăn trong giải quyết các vụ việc xe máy chuyên dùng
gây tai nạn, người bị hại từ chối giám định thương tật, người gây tai
nạn bỏ trốn nhằm trốn tránh trách nhiệm.

* Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng
- Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng quy định
tại khoản 2 điều 202 BLHS.
+ Định tội danh theo tình tiết “Không có giấy phép hoặc
bằng lái xe theo quy định”
Giai đoạn từ 2012 – 2016, trong tổng số 604 vụ/618 bị cáo
đã xét xử có 178 vụ /190 bị cáo xét xử theo khoản 2 (chiếm 29,5% số
vụ và 30,7% số bị cáo). Trong đó có 30 vụ/36 bị cáo xét xử theo tình
tiết này (chiếm 16,9% số vụ và 18,9 % số bị cáo).Đa số các vụ án đã
xét xử có tình tiết này đều có căn cứ và đúng luật định. Tuy nhiên,
thực tiễn còn phát sinh trường hợp do sự chủ quan của Điều tra viên,
Kiểm sát viên dẫn đến việc áp dụng không đúng khoản của điều luật.
+ Định tội danh theo tình tiết “Trong tình trạng có sử dụng
rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức
quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp
luật cấm sử dụng”.
Trong số 178 vụ/190 bị cáo đã xét xử theo khoản 2, có 118
vụ /124 bị cáo xét xử theo tình tiết này (chiếm 66,3% số vụ và 65,3%
số bị cáo). ĐTD với tình tiết này chiếm tỷ lệ cao nhất theo khoản 2
điều 202 BLHS. Đa số các vụ án đã xét xử đều áp dụng đúng tình tiết
này khi ĐTD.

13


+ Định tội danh theo tình tiết “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để
trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn”.
Nghiên cứu 178 vụ/ 190 bị cáo đã xét xử, có 11 vụ /11 bị cáo
xét xử theo tình tiết này (chiếm 6,2% số vụ và 5,8 % số bị cáo). Đa
số các vụ án đã xét xử đều áp dụng đúng tình tiết này. Tuy nhiên, có

01 vụ án gặp khó khăn, vướng mắc khi áp dụng tình tiết này.
+ Định tội danh theo tình tiết“Không chấp hành hiệu lệnh
của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông”: Thực tiễn giai đoạn từ năm 2012 – 2016, chưa ghi nhận
trường hợp nào xét xử theo tình tiết này.
+ Định tội danh theo tình tiết“Gây hậu quả rất nghiêm
trọng”: Giai đoạn từ năm 2012 – 2016, có 19 vụ/19 bị cáo xét xử
theo tình tiết này (chiếm 10,7% số vụ và 10% số bị cáo). Các vụ án
này đều đã xét xử đúng pháp luật, chưa phát hiện sai sót.
- Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng quy định
tại khoản 3 điều 202 BLHS
Giai đoạn năm 2012 – 2016, chỉ xảy ra 11 vụ với 13 bị cáo
xét xử theo khoản 3 (chiếm 1,8% số vụ và 2,1% số bị cáo). Về cơ
bản, khi ĐTD theo khoản này, các CQTHTT đều đã xác định chính
xác các tình tiết của vụ án để đối chiếu với các quy định của khoản
này từ đó đều đã ĐTD đúng và có cơ sở pháp lý.
2.1.2.3. Thực tiễn định tội danh trong trường hợp đặc biệt
Giai đoạn từ năm 2012 – 2016, trong tổng số 604 vụ/ 618 bị
cáo đã xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ chỉ 05 vụ/05 bị cáo bị xét xử với trường hợp này,
chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Cả 05 vụ án đều đã áp dụng đúng các quy định
của pháp luật khi ĐTD, chưa phát hiện có khó khăn, sai lầm gì.

14


2.1.2.4. Nguyên nhân của việc định tội danh đúng, định tội
danh sai
Nguyên nhân của việc định tội danh đúng:
- Có được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời

của các cấp ủy Đảng mà trực tiếp là các đồng chí lãnh đạo các
CQTHTT ở địa phương. Do trình độ năng lực, chuyên môn, nghiệp
vụ của hầu hết đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán
được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì
thực tiễn vẫn còn tình trạng ĐTD sai vì:
* Nguyên nhân khách quan:
- Do tính chất phức tạp của các vụ TNGT, hiện trường xảy
ra thường không còn nguyên vẹn do công tác cấp cứu người bị nạn,
người chứng kiến thường không có vì đa phần xảy ra vào ban đêm và
đường vắng…
- Các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ chưa hoàn thiện, dù
có văn bản hướng dẫn nhưng chưa đầy đủ, kịp thời.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một số trường hợp do có thiếu sót trong việc lập hồ sơ ban
đầu như biên bản, sơ đồ hiện trường… lập không chặt chẽ.
- Vẫn còn 01 bộ phận không nhỏ Điều tra viên, Kiểm sát
viên và Thẩm phán thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết loại án
này. Tinh thần tự học tập để nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp
vụ, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ này chưa cao.
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang.

15


2.2.1. Cách tiếp cận để nhận diện thực tiễn quyết định hình
phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
* Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ
QĐHP đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do
Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện sau khi đã định đội danh là tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ để quyết định lựa chọn khung hình
phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình
phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội trong phạm vi giới hạn của
khung hình phạt quy định tại điều 260 BLHS năm 2015, phù hợp với
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.
* Các nguyên tắc quyết định hình phạt
Qua nghiên cứu các quy định tại phần chung và phần các tội
phạm, chúng ta có thể rút ra các nguyên tắc cần phải tuân thủ khi
QĐHP: Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo
xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công
bằng trong quyết định hình phạt.
Tóm lại, đây là các nguyên tắc cơ bản, đòi hỏi Tòa án phải
triệt để tuân thủ trong quá trình QĐHP. Bởi nếu tuân thủ các nguyên
tắc này sẽ là tiền đề cho việc Tòa án quyết định một hình phạt hợp lý,
đáp ứng các yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp đặt ra.
* Các căn cứ quyết định hình phạt
- Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự.
- Cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội.
16


- Cân nhắc nhân thân người phạm tội.
- Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm

hình sự.
* Quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể
- Quyết định hình phạt theo khoản cơ bản của điều 260 Bộ
luật hình sự năm 2015.
- Quyết định hình phạt theo khung hình phạt quy định tại
khoản 2 của điều 260 BLHS năm 2015.
- Quyết định hình phạt theo khung hình phạt quy định tại
khoản 3 của điều 260 BLHS năm 2015.
- Quyết định hình phạt theo khung hình phạt quy định tại
khoản 4 của điều 260 BLHS năm 2015.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang.
2.2.2.1. Khái quát tình hình xét xử tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Qua khảo sát bảng thống kê,trong tổng số 618 bị cáo mà Tòa
án 02 cấp của tỉnh Tiền Giang đã xét xử về tội vi phạm quy định về
điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, giai đoạn từ năm 2012
– 2016 thì số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù là 508 bị cáo. Trong đó:
hình phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm là 407 bị cáo, chiếm 65,9%; tù
từ trên 03 năm đến 07 năm là 88 bị cáo, chiếm 14,2%; tù từ trên 07
năm đến 15 năm là 13 bị cáo, chiếm 0,02%; số lượng bị hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo là 110 bị cáo, chiếm 17,8%; không có bị
cáo nào bị phạt tiền và cải tạo không giam giữ.
2.2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt theo khoản cơ bản
- Quyết định hình phạt đúng
17


Theo số liệu thống kê cho thấy 05 năm qua số lượng bị cáo

bị áp dụng khung hình phạt này chiếm tỉ lệ cao nhất. Cụ thể, trong số
415 bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt này, có 325 bị cáo bị phạt
tù (chiếm tỉ lệ 78,3%), với mức hình phạt thấp nhất là 03 tháng và
cao nhất là 04 năm 06 tháng, không có trường hợp nào quyết định
đến mức tối đa là 05 năm; 90 trường hợp phạt tù nhưng cho hưởng
án treo (chiếm tỉ lệ 21,7%), không có trường hợp nào phạt cải tạo
không giam giữ và phạt tiền. Qua xem xét, hầu hết các bản án đều áp
dụng đúng quy định của pháp luật khi về QĐHP.
- Khó khăn, sai lầm trong QĐHP theo khoản cơ bản
+ Quyết định hình phạt không thống nhất với nhau.
+ Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hình phạt tiền.
* Thực tiễn quyết định hình phạt theo các khoản tăng nặng
- Thực tiễn quyết định hình phạt theo khoản 2 điều 202
BLHS.
Trong số 190 bị cáo bị xét xử theo khoản này, có 170 bị cáo
bị phạt tù (chiếm tỉ lệ 89,5%), mức hình phạt thấp nhất là 02 năm và
cao nhất là 07 năm; xử dưới khung hình phạt cho hưởng án treo là 20
bị cáo (chiếm 10,5%), không có trường hợp nào quyết định đến mức
tối đa là 10 năm tù. Đa số các bản án đều áp dụng đúng quy định của
pháp luật khi QĐHP. Tuy nhiên, vẫn còn một số sai lầm sau:
+ Quyết định mức hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ.
+ Việc người bị hại từ chối giám định thương tật đã gây
nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc QĐHP.
- Thực tiễn quyết định hình phạt theo khoản 3 điều 202
BLHS
Trong giai đoạn từ 2012 – 2016 chỉ có 13 bị cáo bị xét xử
theo khoản này, chiếm tỉ lệ không đáng kể. Đa số các bản án đều áp
18



dụng đúng quy định của pháp luật về QĐHP. Tuy nhiên, vẫn còn 01
trường hợp Tòa án xem nặng TNGT là do lỗi vô ý mà chưa đánh giá
hết thiệt hại xảy ra. Do vậy, QĐHP chưa tương xứng với hậu quả nên
chưa nhận được sự đồng tình của dư luận.
2.2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đặc
biệt
Đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ thì QĐHP trong trường hợp đặc biệt chỉ có trường
hợp phạm nhiều tội. Giai đoạn từ năm 2012 – 2016, chỉ có 05 bị cáo
bị xét xử với trường hợp này, chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Cả 05 vụ án đều đã
áp dụng đúng các quy định của pháp luật khi QĐHP, chưa phát hiện
có khó khăn, sai lầm gì.
2.2.2.4. Nguyên nhân của việc quyết định hình phạt đúng và
quyết định hình phạt sai
Các nguyên nhân làm cho việc ĐTD đúng cũng chính là các
nguyên nhân làm cho việc QĐHP đúng. Tuy nhiên, vẫn còn tình
trạng QĐHP sai vì:
- Có sự hạn chế trong các quy định của pháp luật: như đã
phân tích ở trên điều 202 BLHS có sự chênh lệch khá lớn giữa mức
hình phạt tối thiểu và mức tối đa và thậm chí là có sự chồng lấn
nhau. Vì vậy, khi vận dụng vào các vụ án cụ thể, sẽ dễ dẫn đến tình
trạng tùy tiện.
- Vai trò của các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chưa
được đảm bảo để thực hiện tốt nguyên tắc “Độc lập trong xét xử”.

19


20



Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI
DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI
TỘIVI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
3.1.1. Yêu cầu của việc chuẩn bị đưa quy định của Bộ luật
hình sự mới vào cuộc sống
Cần đảm bảo việc định tôi danh và quyết định hình phạt
phải đúng. Như vậy, BLHS mới phát huy vai trò và tác dụng trong
thực tiễn.
3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp
- Nâng cao hiệu quả của BLHS năm 2015 và hoạt động của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
- Tăng cường tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm
tội theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW.
- Tăng cường hoàn thiện chính sách về pháp luật hình sự phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền con người của người bị buộc
tội trong tố tụng hình sự
- Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử, các CQTHTT và
người THTT phải đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ các quyền của
người bị buộc tội.

21



- Khi ĐTD và QĐHP, ngoài tôn trọng các quyền con người
của người bị buộc tội, Tòa án phải ĐTD chính xác, đồng thời quyết
định một mức hình phạt tương xứng.
3.1.4. Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam
- Thứ nhất, xây dựng một HTPL hình sự hoàn chỉnh.
- Thứ hai, trong quá trình ĐTD và QĐHP, Tòa án một mặt
phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật quy định về
chức năng, nhiệm vụ của mình, mặt khác tuyệt đối tuân theo các quy
định của pháp luật hình sự để ra một bản án đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
3.2.1 Giải pháp về mặt pháp luật
* Về việc tập huấn BLHS mới: Các cơ quan tư pháp từ
Trung ương cho đến địa phương cần nhanh chóng mở các lớp tập
huấn chung và chuyên sâu về những điểm mới của BLHS năm 2015.
* Tiếp tục hoàn thiện pháp luật: qua nghiên cứu, điều 260
BLHS năm 2015 còn một số thiếu sót cần sửa đổi, bổ sung.
* Về công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật: Cần có thông
tư liên ngành để phối kết hợp để giải thích, hướng dẫn các quy định
mới của BLHS năm 2015.
* Về công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật
- Công tác sơ, tổng kết phải được tiến hành thường xuyên.
Cần có quy định rõ nội dung báo cáo phải có các yêu cầu gì.
- Cần đẩy nhanh công tác xây dựng án lệ.

22



3.2.2. Giải pháp về nâng cao ý thức pháp luật cho nhân
dân, người xây dựng và áp dụng pháp luật
Để nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân: Chính quyền các
cấp cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định mới
của BLHS năm 2015. Nâng cao ý thức pháp luật người xây dựng và
áp dụng pháp luật.
3.2.3. Các giải pháp khác
* Giải pháp về tổ chức cán bộ:
- Để tăng cường khả năng, năng lực của đội ngũ cán bộ xét
xử cần phải:
+ Các cấp ủy Đảng của Tòa án phải nhận thức đúng đắn tầm
quan trọng của công tác này.
+ Tăng cường cơ chế giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ:
+ Thực hiện tốt các giải pháp nêu trong Nghị quyết 08/NQ/TW về đổi mới công tác đào tạo cán bộ chức danh tư pháp.
+ Xây dựng hoàn thiện chương trình, giáo trình, tài liệu theo
hướng tăng cường kỹ năng nghề nghiệp sát với thực tiễn; áp dụng
các phương pháp đào tạo tích cực kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành.
- TANDTC và chính quyền các cấp ở Tiền Giang cần quan
tâm đầu tư thỏa đáng các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ
thuật cho hoạt động xét xử.

23



×