Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.32 KB, 23 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HÀ

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 603801.07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, 2017


Cụng trỡnh c hon thnh ti: Hc vin Khoa hc xó hi
Ngi hng dn khoa hc: TS. NG V HUN

Phản biện 1: PGS.TS Bựi Ngc Cng
Phản biện 2: TS. Nguyn Vn Tuyn

Luận văn sẽ đ-ợc bảo vệ tr-ớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại:
Học viện Khoa học xã hội 14 giờ 00 ngày 25 tháng 10 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Th- viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, ra đời vì mục tiêu và
sứ mệnh cộng đồng, doanh nghiệp xã hội cần có một khung khổ pháp
lý đồng bộ và phù hợp với thực tiễn xã hội để động viên các chủ thể
kinh doanh cùng tham gia chia sẻ gánh nặng an sinh xã hội với Nhà
nước. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi
hành mặc dù mới tạo ra nền tảng cơ bản về doanh nghiệp xã hội, tuy
nhiên, đó mới là những cố gắng bước đầu của Nhà nước đối với
những mô hình vì xã hội và cộng đồng này, việc hoàn thiện pháp luật
về địa vị pháp lý để khẳng định vị trí và vai trò của doanh nghiệp xã
hội là yêu cầu nhất thiết để thực hiện những mong muốn vô cùng tốt
đẹp của các sáng lập viên doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, để hiểu rõ hơn về địa vị pháp lý của loại hình
doanh nghiệp này, em đã chọn đề tài “Địa vị pháp lý của doanh
nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014”. Luận văn là một cái
nhìn tổng quan về doanh nghiệp xã hội theo pháp luật hiện hành cũng
như cơ cấu tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, từ đó cùng với thực
tiễn kinh doanh để đưa ra một số giải pháp phù hợp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể khẳng định, từ trước tới nay chưa có công trình nào ở
cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu toàn diện, đầy đủ vấn đề
địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây sẽ là tư liệu tham khảo
quý báu cho học viên trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện luận
văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1


Việc nghiên cứu đề tài là nhằm tìm hiểu các vấn đề lý luận

về doanh nghiệp xã hội, xác định rõ các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của doanh nghiệp, liên hệ, phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động,
từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(i) Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về doanh nghiệp xã hội,
địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội;
(ii) Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp xã hội theo Luật Doanh nghiệp 2014, chỉ ra những
điểm còn vướng mắc, bất cập cần hoàn thiện;
(iii) Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề lý luận và
thực tiễn pháp luật về doanh nghiệp xã hội; hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện hành về doanh nghiệp xã hội và thực tiễn thực hiện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu vào các
quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội
theo Luật Doanh nghiệp 2014, đồng thời Luận văn có tham khảo kinh
nghiệm pháp luật các nước về vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện luận văn này
bao gồm: phương pháp phân tích tổng hợp, miêu tả, so sánh, phân
tích, đánh giá và dự báo…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
2



Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống về địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội ở
Việt Nam theo Luật Doanh nghiệp 2014.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp xã hội
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã
hội theo Luật Doanh nghiệp năm 2014
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp xã hội
1.1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp xã hội
Có thể nói doanh nghiệp xã hội ra đời sớm nhất là ở Vương
quốc Anh và phát triển mạnh nhất hiện nay. Theo nghiên cứu của
MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình doanh nghiệp xã hội
đầu tiên xuất hiện tại London vào năm 1665, khi Đại dịch (Great
Plague) hoành hành đã khiến nhiều gia đình giàu có, vốn là các chủ
xưởng công nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại
tình trạng thất nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động.
Trong bối cảnh đó, Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí
nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn tài chính cá nhân cung cấp nguyên

liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm cho 1.700 công nhân.
Ngay từ khi thành lập, ông tuyên bố xí nghiệp không theo đuổi mục
tiêu tối đa hóa lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho các quỹ
từ thiện.
Trong ba thập niên trở lại đây, phong trào doanh nghiệp xã
hội đã phát triển mạnh ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành
một vận động xã hội có quy mô và tầm ảnh hưởng toàn cầu.
Ở Việt Nam, trước đổi mới năm 1986, hợp tác xã có thể được
coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở Việt Nam. Trong số
các hợp tác xã ra đời trong giai đoạn này, một số không nhỏ được
thành lập để tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu
thế của xã hội, chủ yếu là người khuyết tật. Hầu hết các hợp tác xã
của người khuyết tật hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp,
như mây tre, đan thêu, may mặc.
4


Từ năm 1986 đến 2010, mặc dù doanh nghiệp xã hội đã
manh nha xuất hiện dưới hình thức hợp tác xã từ lâu, nhưng các hoạt
động kinh doanh vì mục tiêu xã hội với đầy đủ các đặc điểm cơ bản
của mô hình doanh nghiệp xã hội chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi
chính sách đổi mới được thực hiện vào năm 1986. Nhìn chung, giai
đoạn đổi mới là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp và tổ chức xã hội ngoài Nhà nước, trong đó có doanh nghiệp
xã hội. Tuy nhiên, sự tách biệt hai lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã
hội cả trong tư duy lẫn hoạt động thực tế đã hạn chế sự ra đời của mô
hình hỗn hợp như doanh nghiệp xã hội.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp xã hội
1.1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp xã hội
1.1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xã hội

1.1.3. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp xã hội trong nền kinh tế thị
trường
Doanh nghiệp xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng của nền
kinh tế thị trường, góp phần tạo ra tổng sản phẩm trong nước, góp
phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội
lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi
và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách
và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc
làm, xoá đói, giảm nghèo, môi trường,... Doanh nghiệp xã hội còn là
yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền
kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành
kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Doanh nghiệp xã
hội còn góp phần đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ

5


vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế trong quá trình hội nhập.
1.2. Địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội
Theo cách hiểu truyền thống, địa vị pháp lý của một doanh
nghiệp là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp
đó được pháp luật ghi nhận, đảm bảo sự độc lập về mặt pháp lý và
khả năng tham gia các quan hệ pháp luật, trước hết là quan hệ luật
kinh tế và từ đó có thể phân biệt với các chủ thể kinh doanh khác.
Khi xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp, chúng ta phải
gắn chúng với sự phát triển của các mô hình kinh tế, cơ chế kinh tế
mà trong khuôn khổ đó các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Như

vậy, có thể thấy nội hàm địa vị pháp lý của doanh nghiệp được phản
ánh và thể hiện ở những phương diện sau: Thứ nhất, các quy định của
pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng của từng loại hình doanh
nghiệp; tính chất, đặc điểm tổ chức kinh doanh trong mỗi loại hình
doanh nghiệp; Thứ hai, tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
của doanh nghiệp được pháp luật quy định phù hợp với vị trí, vai trò
và chức năng của doanh nghiệp và những quyền hạn và nghĩa vụ mà
doanh nghiệp đảm nhận trên cơ sở những quy định của pháp luật khi
doanh nghiệp tham gia vào các quan hệ pháp luật trong quá trình hoạt
động.
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội là những khái niệm
chưa được thống nhất, chưa được nghiên cứu đầy đủ, nên khi đề cập
đến các đặc trưng của chúng, các tác giả thường dùng một khái niệm:
tư cách chủ thể pháp luật của doanh nghiệp được nhà nước thừa nhận
là một chủ thể pháp lý độc lập. Theo đó, tư cách chủ thể phản ánh vị
trí, vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần
6


có cách tiếp cận mới năng động và đa dạng đối với địa vị, vai trò mới
của doanh nghiệp xã hội trong kinh tế thị trường.
1.2.2. Nội dung địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 có thể hiểu doanh nghiệp
xã hội là doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, với
mục đích hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi
ích cộng đồng, trong đó sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng
năm để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường.
Theo điểm a khoản 1 Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014,
thì doanh nghiệp xã hội có tiêu chí đầu tiên là doanh nghiệp được
đăng ký thành lập theo quy định của Luật này. Hiện nay, thủ tục

thành lập doanh nghiệp xã hội được quy định tại Luật Doanh nghiệp
năm 2014 và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp
(Nghị định số 96/2015/NĐ-CP).
Như vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không coi doanh
nghiệp xã hội là một loại hình doanh nghiệp đặc thù riêng mà cũng
giống như doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp xã hội vẫn tổ
chức và hoạt động theo một trong các loại hình doanh nghiệp: Công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh
nghiệp tư nhân. Để thành lập doanh nghiệp xã hội, người bỏ vốn để
thành lập doanh nghiệp xã hội phải thực hiện các thủ tục pháp lý
thông thường để thành lập một doanh nghiệp trong số các loại hình
doanh nghiệp đã được Luật Doanh nghiệp năm 2014 thiết kế. Tiêu
chí này thể hiện một trong những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp
xã hội, tương tự doanh nghiệp thông thường, đó là có hoạt động kinh
doanh, đó là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, là yếu tố căn bản,
quyết định đến sự ra đời và hoạt động của doanh nghiệp, một thuộc
7


tính không thể tách rời của doanh nghiệp và là đích cuối cùng của các
nhà kinh doanh. Từ đó có thể hiểu, mục đích chính khi thành lập
doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận cho các nhà đầu tư vào doanh
nghiệp, còn việc giải quyết các vấn đề xã hội vì lợi ích của cộng đồng
không phải là mục tiêu chủ yếu của kinh doanh.
Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam là một chủ thể
đặc biệt, một doanh nghiệp hoạt động nhưng không vì mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận cho các nhà đầu tư mà phần lớn lợi nhuận của doanh
nghiệp xã hội được phục vụ cho cộng đồng. Như vậy, việc điều chỉnh
pháp luật đối với doanh nghiệp xã hội cần xét đến các yếu tố đặc thù

của mô hình này, để góp phần tạo nên “hệ sinh thái” tốt, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp xã hội phát triển như nhiều quốc gia trên thế giới.

8


Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ
HỘI THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
2.1. Thực trạng pháp luật về doanh nghiệp xã hội ở việt nam
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp xã hội theo pháp
luật hiện hành
Doanh nghiệp xã hội là một khái niệm mới được luật hóa quy
định cụ thể tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014, theo đó, mặc
dù không đưa ra khái niệm cụ thể, nhưng Luật đã quy định về “Tiêu
chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội”. Cụ thể:
1. Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:
(a) Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định
của Luật này;
(b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi
trường vì lợi ích cộng đồng;
(c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh
nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như
đã đăng ký.
2. Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy
định của Luật này, doanh nghiệp xã hội có các quyền và nghĩa vụ sau
đây:
(a) Duy trì mục tiêu và điều kiện quy định tại điểm b và điểm
c khoản 1 Điều này trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh
nghiệp đang hoạt động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc

doanh nghiệp xã hội muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không
sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì doanh nghiệp phải thông báo với
cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục theo quy định của
pháp luật;
9


(b) Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã
hội được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép,
chứng chỉ và giấy chứng nhận có liên quan theo quy định của pháp
luật;
(c) Được huy động và nhận tài trợ dưới các hình thức khác
nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ và các tổ
chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù đắp chi phí quản lý và
chi phí hoạt động của doanh nghiệp;
(d) Không được sử dụng các khoản tài trợ huy động được
cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động
để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã đăng ký;
(đ) Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp
xã hội phải định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình
hình hoạt động của doanh nghiệp.
3. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy
phát triển doanh nghiệp xã hội. Có thể thấy, sau rất nhiều năm chờ
đợi, lần đầu tiên doanh nghiệp xã hội được công nhận về mặt pháp lý.
Doanh nghiệp xã hội được hiểu một cách chung nhất là những doanh
nghiệp hoạt động không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. Nó được
thành lập với mục tiêu là để giải quyết một vấn đề xã hội nào đó mà
doanh nghiệp đó theo đuổi, phần lớn lợi nhuận thu được dùng để
phục vụ mục tiêu xã hội và môi trường.
2.1.2. Thực trạng địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội

theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Hiện nay, văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động của
doanh nghiệp xã hội, cũng như loại hình doanh nghiệp hay một địa vị
pháp lý dành riêng cho doanh nghiệp xã hội còn hạn chế.

10


Khó khăn trong việc thành lập doanh nghiệp xã hội, trước
hết, khuôn khổ pháp lý cho loại hình tổ chức xã hội ở Việt Nam cũng
chưa hoàn thiện, còn nhiều quy định chồng chéo gây rất nhiều khó
khăn cho một cá nhân, một nhóm muốn thành lập một tổ chức xã hội
ở Việt Nam.
Việc đăng ký kinh doanh dưới loại hình doanh nghiệp tương
đối đơn giản hơn nhưng kéo theo đó là vấn đề doanh nghiệp xã hội
phải làm sao để thống nhất và đáp ứng quyền lợi cho các nhà đầu tư
khác nhau tham gia vào doanh nghiệp xã hội với các mục tiêu đa
dạng. Trên thực tế, không ít doanh nghiệp xã hội gặp trường hợp các
cổ đông không nhất quán về việc tái đầu tư lợi nhuận cho mục đích
xã hội và phát triển tổ chức.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xã hội rất lúng túng và gặp
nhiều vướng mắc trong việc vận hành một mô hình kết hợp giữa mục
tiêu xã hội và hoạt động kinh doanh trong môi trường pháp lý chưa
hoàn thiện ở Việt Nam, thể hiện rõ nhất là ở các vấn đề liên quan tới
tài chính: quy định nhận viện trợ, tài trợ, các chính sách quy định về
thuế và quản lý tài chính, khả năng tiếp cận các ưu đãi và các quy
định quản lý nhà nước đối với các đối tượng đặc biệt trong xã hội.
Do đặc thù của doanh nghiệp xã hội là sự kết hợp giữa các
hoạt động xã hội và kinh doanh tạo nguồn thu nên có rất nhiều các
khoản chi phí của doanh nghiệp không phải là các khoản chi phí hợp

lý được khấu trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Quy định về đặt tên doanh nghiệp xã hội chưa thực sự phù
hợp, nên quy định theo hướng đặt tên doanh nghiệp xã hội bao gồm
hai thành tố: Cụm từ doanh nghiệp xã hội và tên riêng, sau đó quy
định cụ thể mô hình hoạt động của doanh nghiệp để tên doanh nghiệp
được gọn gàng, thanh thoát hơn.
11


Theo quy định, doanh nghiệp xã hội được nhận viện trợ phi
chính phủ nước ngoài và nhận tài trợ từ các cá nhân, nhưng phải
được kiểm soát thông qua trình tự thủ tục tiếp nhận viện trợ tương tự
như các chủ thể là cơ quan nhà nước, tổ chức phi lợi nhuận, doanh
nghiệp công ích. Tuy nhiên, đứng từ góc độ logic quản lý quy định
này không hợp lý. Bởi về bản chất, các doanh nghiệp xã hội là các
doanh nghiệp thông thường, với nguồn đầu vào có thể là vốn của chủ
sở hữu, vốn vay, nguồn tài trợ… và chỉ khác ở việc sử dụng vốn đầu
tư (đầu ra). Do đó, việc kiểm soát nguồn thu đầu vào của các doanh
nghiệp xã hội này về mặt nguyên tắc cũng phải tương tự như doanh
nghiệp bình thường khác. Hiện nay Nhà nước không kiểm soát về
mặt thủ tục đối với việc nhận viện trợ từ tổ chức, cá nhân cho các
doanh nghiệp này. Trong khi đối với doanh nghiệp xã hội, tại sao
Nhà nước lại phải kiểm soát chặt như vậy.
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội ở
việt nam
2.2.1. Những thành tựu đạt được
Doanh nghiệp xã hội góp phần chia sẻ trách nhiệm và gánh
nặng xã hội với nhà nước bằng các con đường riêng đầy sáng tạo, tiết
kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù đắp được một khiếm
khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi động cơ

lợi nhuận. Cùng với việc luật hóa những quy định về doanh nghiệp
xã hội và tạo ra những cơ chế, chính sách thuận lợi, mô hình doanh
nghiệp xã hội cho thấy, còn nhiều tiềm năng và triển vọng phát triển
trong tương lai, là mảnh đất màu mỡ cho các bạn trẻ có hoài bão làm
giàu và sống có ích.
Doanh nghiệp xã hội sẽ là một xu hướng kinh doanh mới
trong tương lai vì chúng ta có quá nhiều vấn đề để giải quyết. Doanh
12


nghiệp xã hội đã có từ lâu nhưng giờ trở thành xu thế và bắt đầu hòa
nhập vào dòng chảy chính của kinh doanh. Doanh nghiệp xã hội là
một phong trào trên toàn thế giới được gắn kết bằng một sự cam kết
đơn giản rằng những thách thức doanh nghiệp gặp phải sẽ được giải
quyết thông qua hình thức kinh doanh khác đi. Tuy có nhiều quan
điểm khác nhau, nhưng tất cả đều cho thấy, doanh nghiệp xã hội là
hình thức doanh nghiệp tối ưu, nó không chỉ góp phần giải quyết các
khó khăn cho doanh nghiệp mà còn tạo thuận lợi và cải thiện về xã
hội, môi trường xung quanh, góp phần phát triển doanh nghiệp cũng
như nền kinh tế theo hướng bền vững.
2.2.2. Những khó khăn hiện tại của các doanh nghiệp xã hội ở Việt
Nam
Thứ nhất, nhận thức về doanh nghiệp xã hội còn rất hạn chế
Thứ hai, hiện nay còn thiếu một hệ thống tiêu chí, quy chuẩn
linh hoạt cho các doanh nghiệp xã hội
Thứ ba, doanh nghiệp xã hội thiếu vốn và khó khăn, yếu kém
trong khả năng tiếp cận các nguồn tài chính
Thứ tư, hiện nay còn thiếu các kênh dẫn truyền, các tổ chức
trung gian, cơ chế quản lý nhà nước linh hoạt và minh bạch để tạo
lập được thị trường tài chính cho các doanh nghiệp xã hội

Thứ sáu, nguồn nhân lực của doanh nghiệp xã hội còn hạn
chế
Thứ bảy, doanh nghiệp xã hội phụ thuộc quá lớn vào các
doanh nhân

13


Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐỊA
VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp xã hội ở việt nam
Nhằm hoàn thiện hơn khung khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp xã hội để loại hình doanh nghiệp này phát
huy được những yếu tố tích cực của nó, chúng ta cần quan tâm tuân
thủ các định hướng sau đây:
3.1.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp xã hội
Trong một thời gian dài, Việt Nam vẫn chưa có một khuôn
khổ pháp lý dành riêng cho các doanh nghiệp xã hội nên các doanh
nghiệp này được thành lập, hoạt động và chịu sự điều chỉnh bởi các
khuôn khổ pháp luật tương ứng. Một bộ phận không ít các doanh
nghiệp xã hội khác được thành lập tự phát, thông qua chuyển đổi bởi
các tổ chức phi chính phủ. Vì vậy, định danh, xây dựng hành lang
pháp lý, môi trường hoạt động cùng những giải pháp hỗ trợ là việc
làm cần thiết để mô hình kinh tế này phát triển tương xứng với tiềm
năng, đồng thời hạn chế được những mặt tiêu cực.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 là tiền đề quan trọng đặt nền

tảng cho việc hình thành môi trường pháp lý cùng những chính sách
phù hợp nhằm khuyến khích hoạt động và sự phát triển của doanh
nghiệp xã hội như một thành phần kinh tế mới bên cạnh các khối
kinh tế công và tư. Các doanh nghiệp xã hội được chính thức công
nhận cho thấy sự nhìn nhận của Chính phủ, các nhà làm luật với vai
trò thúc đẩy các tác động xã hội tích cực dựa trên các mô hình kinh
doanh bền vững của doanh nghiệp xã hội. Và khi danh đã chính, các
14


doanh nghiệp xã hội mong muốn có thêm các quy định cụ thể, rõ
ràng giúp họ phát triển, mở rộng quy mô hoạt động và tiếp cận đa
dạng nguồn vốn đầu tư.
3.1.2. Xây dựng chính sách hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các
doanh nghiệp xã hội mở rộng quy mô tác động xã hội
Các doanh nghiệp xã hội tham gia hoạt động kinh doanh tạo
ra giá trị xã hội và tạo điều kiện mở rộng quy mô của các giải pháp
kinh doanh vì sự tác động lâu dài và bền vững. Để hình thành một hệ
sinh thái cho phép các sáng kiến kinh doanh trở nên hiệu quả hơn cần
tham gia trực tiếp vào việc sáng tạo giải pháp kinh doanh và nhân
rộng hiệu quả của các giải pháp đó. Nhằm thực hiện điều này, chúng
ta cần:


Huy động các nguồn lực dưới các hình thức như gây

quỹ, hỗ trợ thực hiện dự án, các nguồn lực tri thức và xã hội, các kỹ
năng kinh doanh và quản lý tài chính



Xác định các doanh nghiệp xã hội đạt tiêu chuẩn

và tạo mối quan hệ hợp tác giữa họ với các nhà đầu tư tạo tác động


Cung cấp trực tiếp các hỗ trợ về kỹ thuật và tư

vấn trong việc tiếp nhận đầu tư và sự phát triển chung của doanh
nghiệp xã hội


Gắn kết các cá nhân, các tổ chức và các doanh

nghiệp xã hội với dịch vụ phát triển năng lực.
3.1.3. Đẩy mạnh truyền thông về các vấn đề liên quan đến tổ chức
và hoạt động của doanh nghiệp xã hội
Có rất nhiều doanh nhân trăn trở trước khi lựa chọn con
đường kinh doanh theo mô hình doanh nghiệp xã hội. Nhiều người
cho rằng: “Doanh nghiệp lo chuyện cơm áo gạo tiền cho công ty, cho
nhân viên, cho các nhà đầu tư, thỉnh thoảng làm chút từ thiện đã là tốt
15


lắm rồi. Nghĩ sâu xa tới cộng đồng, tới xã hội thật là khó quá!”. Vậy
nên, đa phần các doanh nghiệp đưa trách nhiệm xã hội vào trong các
hoạt động của mình như một sự đóng góp với cộng đồng. Bên cạnh
đó, tại Việt Nam hiện có hàng chục nghìn tổ chức và doanh nghiệp
mang những đặc điểm của doanh nghiệp xã hội được hình thành tự
phát từ rất lâu. Nhiều chủ doanh nghiệp lúc khởi sự kinh doanh họ
thấy hay là làm chứ cũng không hiểu đó là mô hình doanh nghiệp xã

hội. Trong xã hội còn tồn tại cách hiểu chưa rõ ràng về doanh nghiệp
xã hội và một doanh nghiệp tham gia các hoạt động xã hội. Thậm chí,
theo nhiều nghiên cứu, phần lớn sinh viên kinh tế không hiểu doanh
nghiệp xã hội là gì.
Sự tồn tại của doanh nghiệp xã hội mang tính nhân văn rất
cao với mục tiêu cao cả là phụng sự xã hội, hướng đến một xã hội
văn minh, tiến bộ, tạo điều kiện cho những người yếu thế và những
người có hoàn cảnh khó khăn có nhiều hơn cơ hội hòa nhập, phát
triển và sáng tạo. Do đó, mô hình doanh nghiệp xã hội cụ thể là các
vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xã hội
cần được truyền thông tích cực hơn nữa để doanh nhân nói riêng, xã
hội nói chung có hình dung rõ ràng hơn nhất là khi mô hình này đã
được luật hóa tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.
3.1.4. Thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam và
đề cao vai trò của tổ chức này trong xây dựng và tư vấn chính sách
liên quan đến doanh nghiệp xã hội
Doanh nghiệp xã hội là một mô hình doanh nghiệp có những
đặc trưng riêng khác với những loại hình doanh nghiệp hoạt động
bình thường khác. Để có thể phát triển và có chỗ đứng vững vàng
hơn nữa không thể thiếu vai trò của một tổ chức là cầu nối, đại diện
và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mỗi doanh nghiệp xã hội là Hội
16


viên trong các quan hệ kinh tế - xã hội với các tổ chức trong và ngoài
nước, làm cầu nối trong mối quan hệ giữa các Hội viên với các cơ
quan Đảng, Chính quyền, các cơ quan hữu quan, nhằm giải quyết các
vấn đề có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong khuôn khổ Pháp luật quy định. Tổ chức đó là Hiệp hội
các doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam.

Nếu được thành lập, Hiệp hội các doanh nghiệp xã hội sẽ là
một tổ chức có tầm ảnh hưởng nhất định trong xây dựng và tư vấn
chính sách liên quan đến doanh nghiệp xã hội, điều đó sẽ là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp xã hội phát triển, củng cố vị trí và
tầm ảnh hưởng của loại hình doanh nghiệp đầy tính nhân văn này
trong xã hội.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp xã hội ở việt nam
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp xã hội
Thứ nhất, cần đa dạng hóa loại hình doanh nghiệp xã hội.
Thứ hai, cần xây dựng hệ thống cơ quan chuyên trách quản
lý doanh nghiệp xã hội
Thứ ba, về lâu dài, cần xây dựng một khung khổ pháp lý
đồng bộ điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp xã hội, trong đó cần
có một đạo luật riêng quy định về doanh nghiệp xã hội làm trung tâm
như đã đề xuất.
3.2.2. Các giải pháp khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xã hội
phát triển
Thời gian qua, doanh nghiệp xã hội ngày càng thể hiện được
thế mạnh trong việc khai thác các sáng kiến xã hội, nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực tiềm năng của môi trường và xã hội, tăng
17


cường tính bền vững của các giải pháp xã hội thông qua các nguyên
tắc và động lực thị trường. Doanh nghiệp xã hội nước ta đã và đang
cung cấp giải pháp kinh doanh cho các vấn đề xã hội, môi trường mà
Nhà nước và khối tư nhân giải quyết chưa thực sự hiệu quả như: cung
cấp dịch vụ cơ bản cho nhóm yếu thế; dạy nghề, tạo việc làm, tăng

thu nhập cho cộng đồng những người dễ bị tổn thương; kinh doanh
và phát triển thị trường với người nghèo; đầu tư vào các lĩnh vực mới
như năng lượng mới, sản xuất hữu cơ, tái chế rác thải. Có thể thấy,
doanh nghiệp xã hội bước đầu đã có sức ảnh hưởng, lan tỏa mạnh mẽ
trong cộng đồng.
Hiện nay, các cơ quan nhà nước, các tổ chức phi chính phủ
cũng như các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước cùng cộng đồng
đã có nhiều hoạt động thiết thực, đa dạng nhằm gây dựng một hệ sinh
thái thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp xã hội ở Việt
Nam. Bên cạnh đó, việc vận động chính sách để xây dựng chính sách
thuận lợi hỗ trợ cho doanh nghiệp xã hội là hoạt động chiến lược
được các bên liên quan triển khai như nghiên cứu vận động chính
sách, nghiên cứu học hỏi mô hình pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp xã hội
của các nước trên thế giới, tham vấn chính sách với các bên liên
quan, soạn thảo luật và nghị định trình Quốc hội và Chính phủ thông
qua luật và nghị định.
Tuy nhiên, vẫn còn không ít khó khăn, rào cản cho sự phát
triển doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam. Khó khăn lớn nhất là việc
thiếu nguồn lực tài chính, thiếu vốn. Bên cạnh đó, sức ép từ chất
lượng sản phẩm dịch vụ, nguồn nhân lực, hệ thống quản lý sản xuất
kinh doanh, đầu ra sản phẩm, chi phí… cũng đang đặt lên vai các
doanh nghiệp này.

18


Về phía các doanh nghiệp xã hội, cần hiểu rõ thực trạng phát
triển và nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp mình cũng như có chiến
lược kinh doanh và kế hoạch huy động tài chính rõ ràng. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp xã hội cần chủ động tìm hiểu động cơ, giá trị và

yêu cầu đầu tư của từng nhóm các nhà đầu tư xã hội khác nhau. Trên
cơ sở đó, doanh nghiệp xã hội cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết về
năng lực, về thị trường và đối tác… để có thể tiếp nhận đầu tư một
cách có hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể tìm kiếm sự hỗ trợ kỹ
thuật từ các tổ chức trung gian hoặc tiếp cận trao đổi trực tiếp với
từng nhà đầu tư. Ngoài ra, cần liên tục cập nhật các cơ hội đầu tư xã
hội thông qua các kênh thông tin hỗ trợ doanh nghiệp xã hội hiện
nay.

19


KẾT LUẬN
Doanh nghiệp xã hội là một định chế phù hợp với quy luật
thị trường chứa đựng trong đó sự nhân văn. Khi một quốc gia lựa
chọn con đường phát triển bền vững hướng đến một xã hội công
bằng, thì doanh nghiệp xã hội vừa là sự lựa chọn, vừa là xu hướng.
Tuy nhiên, lựa chọn đi theo con đường doanh nghiệp xã hội cần có sự
tỉnh táo và can trường khi đối diện với các thách thức.
Với mục tiêu cao cả hỗ trợ các nhóm yếu thế trong xã hội và
phục vụ cộng đồng ngày càng tốt đẹp hơn thì sự xuất hiện của doanh
nghiệp xã hội là rất quan trọng. Nhà nước có trách nhiệm với những
vấn đề của xã hội song làm không xuể, doanh nghiệp truyền thống
cũng không đủ lấp đầy các nhu cầu. Vì thế, sự có mặt của doanh
nghiệp xã hội sẽ bổ trợ giải quyết được những vấn đề xã hội, môi
trường nảy sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Doanh nghiệp xã hội còn là tác nhân thúc đẩy đổi mới, sáng kiến cho
xã hội, bởi nhóm doanh nghiệp này đi vào những thị trường ngách
chưa ai đi và thậm chí sáng tạo nên sản phẩm mới, tạo lập một thị
trường mới.

Trong 20 năm gần đây, mô hình doanh nghiệp xã hội ngày
càng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ của nhiều chính phủ, doanh
nghiệp và các tổ chức phát triển trên thế giới. Hiện nay, hiểu biết về
doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam vẫn còn rất hạn chế, gây nhiều khó
khăn cho sự phát triển và nhân rộng các mô hình thành công. Tuy
nhiên, cơ hội và tính cần thiết phải phát triển doanh nghiệp xã hội
như một mô hình kinh tế bền vững nhằm giải quyết một cách hiệu
quả các vấn đề xã hội và môi trường ngày một trở nên bức thiết. Đã
đến lúc Chính phủ cần coi các doanh nghiệp xã hội như những đối
tác quan trọng trong việc hợp tác thực hiện các mục tiêu xã hội và
20


đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp xã hội phát triển bằng việc ban hành
các văn bản pháp luật tạo lập khuôn khổ pháp lý và đề ra các chính
sách cụ thể khuyến khích sự phát triển của mô hình này.
Khuyến khích thành lập doanh nghiệp xã hội đang là chủ
trương lớn của nhiều quốc gia bởi đây là mô hình doanh nghiệp khả
thi góp phần giúp chính phủ giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội,
đóng góp vào GDP quốc gia và đem lại lợi ích cho cộng đồng. Trong
bối cảnh kinh tế khó khăn của nước ta hiện nay, hình thức tổ chức
kinh tế mới – Doanh nghiệp xã hội (Social Enterprise) được phát
triển như một giải pháp tích cực trong việc hạn chế, giải quyết và xử
lý các vấn đề xã hội - rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của đất nước./.

21




×