Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các khu công nghiệp và khu chế xuất việt nam trong tương quan so sánh với pháp luật một số quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.49 KB, 19 trang )

84

Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại các khu công nghiệp và khu chế xuất Việt
Nam trong tương quan so sánh với pháp luật một số
quốc gia


Phạm Văn Hảo


Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật
Chuyên ngành: Luật quốc tế; Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Bá Diến
Năm bảo vệ: 2011


Abstract. Phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX)
Việt Nam có gắn với khảo cứu, so sánh, đối chiếu với pháp luật một số nước trên thế giới. Đúc rút ra
những bài học kinh nghiệm. Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

Keywords: Luật Quốc tế; Địa vị pháp lý; Doanh Nghiệp; Khu công nghiệp; Khu chế xuất; Việt Nam;
Vốn đầu tư nước ngoài; Pháp luật

Content.
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nói đến đầu tư nước ngoài (ĐTNN) không thể không nhắc đến hoạt động đầu tư của các nhà sản xuất
trong các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) bởi lẽ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài


trong các KCN, KCX chính là hình ảnh của đầu tư nước ngoài tại từng quốc gia tiếp nhận đầu tư… Để thu hút
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, yêu cầu quan trọng và tiên quyết đối với các nước sở tại là các quốc gia này
phải có một chính sách đầu tư minh bạch và rõ ràng, đặc biệt là các quy định về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ khi nào yêu cầu trên được đáp ứng, các nhà đầu tư mới có thể yên tâm
và mạnh dạn bỏ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào kinh doanh tại quốc gia kêu gọi đầu tư.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong
các KCN và KCX đã dần được củng cố, hoàn thiện cùng với sự hoàn thiện nói chung của hệ thống pháp luật
về đầu tư của Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn một số điểm hạn chế và trong nhiều trường hợp còn
chưa minh bạch, chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của nhà đầu tư và trong một chừng mực nào đó vẫn còn những
85

khoảng cách nhất định với pháp luật quốc tế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm rõ về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các KCN và KCX Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật một số
quốc gia là một việc làm cần thiết không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một vấn đề khá hấp dẫn, gần đây chưa có
công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu và chi tiết về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong các KCN, KCX Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. Đặc biệt, khi Việt Nam đã là
thành viên WTO và tham gia nhiều thỏa thuận song phương, đa phương về đầu tư với các nước khác thì việc
tiếp tục nghiên cứu pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN,
KCX có khảo cứu, so sánh pháp luật một số quốc gia với những phân tích có gắn với những yếu tố và đòi hỏi
của tình hình mới là đề tài mới mẻ và cần thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các
KCN và KCX ở Việt Nam. Các phân tích của luận văn cũng lồng ghép với việc so sánh và đối chiếu với pháp
luật của một số quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm và
đưa ra một số giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp khác nhau như: phương pháp luận biện chứng duy vật để nhìn
nhận, đánh giá địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước; phương pháp điều tra xã hội học nhằm tổng hợp, đánh giá những đóng góp của doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam, những hạn chế của pháp luật, cơ chế chính sách tác động đến địa vị pháp
lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, chứng minh, diễn giải, hệ thống hóa, so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu đề tài.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN và KCX Việt Nam có gắn với khảo cứu, so sánh pháp luật
một số nước trên thế giới.
Tác giả luận văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
86

5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Phân tích làm sáng tỏ về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN,
KCX Việt Nam theo các qui định của hệ thống pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng có so sánh, đối chiếu
với pháp luật một số nước quốc gia.
- Đúc rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX Việt Nam.
6. Những điểm mới của luận văn
1) Khái quát được địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX.
2) Hệ thống hóa các quy định về địa vị pháp lý của Doanh nghiệp trong các KCN, KCX Việt Nam, đồng
thời khảo cứu, so sánh pháp luật một số quốc gia.
3) Đề xuất được 3 giải pháp, 6 kiến nghị có giá trị thực tiễn cho các cơ quan nhà nước để hoàn thiện
hệ thống pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các

KCN và KCX.
Chương 2: Qui định pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN và KCX.
Chương 3: Thực trạng thực thi pháp luật địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các
KCN, KCX và đề xuất giải pháp.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT
1.1. Khái quát chung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu
công nghiệp, khu chế xuất
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo khoản 6 Điều 3 Luật Đầu tư 2005 "doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập thực hiện hoạt
động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua
lại". Như vậy, Luật Đầu tư chỉ liệt kê được các trường hợp được coi là doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Điều này
khiến cho các nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định liệu doanh nghiệp của mình có phải là
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay không? Nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ bao nhiêu phần trăm vốn
trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp có vốn ĐTNN?
87

Theo khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tư 2005, nhà đầu tư nước ngoài được xác định gồm: "tổ chức, cá nhân
nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam". Khái niệm này chưa chỉ rõ một số trường hợp
như người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam được coi là nhà đầu tư trong nước hay
nhà đầu tư nước ngoài.
Luật Đầu tư 2005 lấy tiêu chí nguồn vốn đầu tư để phân biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay
doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước. Tác giả cho rằng khái niệm nhà đầu tư nước ngoài chưa thể hiện được
đầy đủ tiêu chí trên trên. Bởi lẽ, tổ chức nước ngoài cũng có thể do nhà đầu tư Việt Nam thành lập ở nước
ngoài để đầu tư trở lại Việt Nam.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thể hiện dưới hai hình thức: doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiÖp cã vèn §TNN có chung một số đặc điểm sau:

- Là một tổ chức có tư cách pháp nhân.
- Được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Có quyền sở hữu toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp theo hình thức đầu tư liên doanh
hay 100% vốn.
- Chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư và pháp luật có liên quan của Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của khu công nghiệp, khu chế xuất
Luật Đầu tư 2005 "Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ" còn
"khu chế xuấ là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ".
1.1.3. Khái niệm địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp
và khu chế xuất
Theo định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ pháp lý, địa vị pháp lý là: "Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà
pháp luật quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một
cách độc lập".
Như vậy, địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN, KCX được xác định là tổng thể các
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho loại hình doanh nghiệp này, tạo cho loại hình doanh nghiệp có
khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
- Quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch
kinh doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư đã được cơ quan có thẩm quyền
cấp và thực hiện đúng các nghĩa vụ mà pháp luật Việt Nam đã quy định. Cụ thể một số quyền cơ bản như sau:
+ Quyền chủ động tổ chức quản lý doanh nghiệp;
+ Quyền chủ động trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch phát triển dài hạn và kế
hoạch hàng năm của mình;
88

+ Quyền nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu để xây dựng xí nghiệpvà phục
vụ cho hoạt động kinh doanh;
+ Quyền được trực tiếp xuất khẩu hoặc ủy thác xuất khẩu các sản phẩm của mình có quyền tiêu thụ sản
phẩm của mình tại thị trường Việt Nam;

+ Quyền tuyển dụng, thuê mướn lao động và phải tuân theo quy định của Việt Nam;
+ Quyền tự chủ về tài chính và hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh tế độc lập.
- Nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
+ Phải nộp thuế lợi tức (Thuế thu nhập) bằng 25% lợi nhuận thu được;
+ Phải nộp thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng theo các quy định của pháp luật Việt Nam;
+ Chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nộp thuế chuyển lợi nhuận;
+ Phải nộp tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển và thuế tài nguyên nếu khai thác tài nguyên;
+ Trích 5% lợi nhuận để lập quỹ dự phòng. Quỹ dự phòng không quá 25% vốn pháp định của doanh nghiệp;
+ Phải chấp hành nghiêm chỉnh các quản lý ngoại hối của Việt Nam vµ phải mở tài khoản tại ngân hàng
Việt Nam;
+ Phải áp dụng chế độ kế toán Việt Nam.
1.1.4. Các quy định điều chỉnh địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các
khu công nghiệp và khu chế xuất
- Hệ thống pháp luật kinh tế nói chung (Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật kinh
doanh bất động sản, Luật Thuế xuất nhập khẩu…), pháp luật đầu tư nói riêng và các Điều ước quốc tế là
những quy định trực tiếp điều chỉnh địa vị pháp lý của Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN, KCX.
Ngoài ra, Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong các KCN, KCX phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều các
quy định khác có liên quan như pháp luật thương mại, pháp luật lao động, pháp luật thuế và tài chính, xuất
nhập khẩu, môi trường, pháp luật xây dựng, đất đai…
- Các quy định nội bộ trong từng KCN, KCX: Quy chế quản lý KCN, KCX do Bộ Kế hoạch và Đầu tư
phê duyệt, trong đó đề cập đến các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thành lập và hoạt
động trong các khu vực này.
1.2. Vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp và khu chế xuất
1.2.1. Vai trò trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo Tài liệu hội thảo đánh giá tác động của cơ chế chính sách tài chính đối với những doanh nghiệp hoạt
động trong các KCN, KCX do Bộ Tài Chính tổ chức: Tính đến tháng 9/2011 Việt Nam có 257 KCN, KCX thành
lập tại 57 tỉnh, thành phố, thu hút 8.600 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 71 tỷ USD (trong đó 3.879 dự án nước
ngoài với tổng vốn đăng ký 53 tỷ USD và 4.771 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 315 nghìn tỷ
đồng). Vốn đầu tư thực hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 18 nghìn tỷ đồng chiếm 33,5%
tổng vốn đầu tư đăng ký; vốn thực hiện của doanh nghiệp trong nước đạt gần 134 nghìn tỷ đồng, chiếm 43% tổng

89

vốn đầu tư đăng ký. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp tăng đều hàng năm, mỗi năm từ 20-27 tỷ USD, chiếm 60%
giá trị sản xuất toàn ngành, chiếm trên 40% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp, giải quyết việc làm trên 1,55
triệu lao động.
Hiệu quả thu hút đầu tư tại các KCN, KCX được thể hiện trên 1ha đất cụ thể như: thu hút 6,5 triệu USD
vốn đầu tư, tạo ra 18 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm cho gần 200 lao động, đóng góp cho
ngân sách địa phương 725 triệu đồng/năm.
1.2.2. Vai trò trong việc phát triển hệ thống cơ cấu hạ tầng cho sản xuất công nghiệp
Các KCN, KCX có đóng góp quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng hóa ngành nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế của cả nước,
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Các KCN, KCX đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng mới, hiện đại, đồng bộ
Tính đến tháng 8 năm 2010, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đạt 896 triệu
USD (dự án có vốn đầu tư nước ngoài) và hơn 43 nghìn tỷ đồng (dự án đầu tư trong nước), chiếm tương ứng 34%
và 42% so với tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và các dự án đầu tư trong nước.
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN, KCX có vai trò không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển,
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần
đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX.
1.2.3. Vai trò trong việc phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn theo hướng tập trung
Ngành công nghiệp mũi nhọn là ngành có khả năng cạnh tranh, chiếm tỷ trọng đáng kể tại thị trường trong
nước và quốc tế, có khả năng tạo hiệu ứng lan tỏa, dẫn dắt và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp
khác, của các ngành công nghiệp phụ trợ. Hiện nay, Việt Nam đang tập trung phát triển KCN, KCX theo 3 nhóm
ngành với những cơ chế và chính sách khác nhau. Đó là: nhóm ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh (may mặc,
giày dép, đồ gỗ), nhóm ngành công nghiệp nền tảng (cơ khí, hóa dầu, phân bón), và nhóm ngành công nghiệp tiềm
năng (điện tử - viễn thông, cơ khí chế tạo, hóa chất).
1.2.4. Vai trò trong việc chuyển giao công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam
Việc đầu tư vào các KCN, KCX của doanh nghiệp có vốn ĐTNN thường đi kèm với việc đem đến những
kỹ thuật công nghệ hiện đại, trình độ quản lý cao cho ngành sản xuất trong nước.
Sự có mặt của doanh nghiệp có vốn ĐTNN với công nghệ và năng lực quản lý tiên tiến sẽ dẫn đến sự thay đổi
cơ cấu sản xuất, chất lượng, cơ cấu sản phẩm. Việc xuất khẩu sẽ thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng hàng hóa có

hàm lượng công nghệ thấp sang hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao và giàu chất xám hơn, giảm tỷ trọng xuất
khẩu hàng hóa sơ chế, sản phẩm thô, lắp ráp giản đơn sang hàng hóa đã qua chế biến, sản phẩm hoàn chỉnh có hàm
lượng kỹ thuật.
1.2.5. Vai trò trong việc giải quyết việc làm cho lao động trong nước
Tính đến cuối năm 2011, các KCN đã tạo ra việc làm cho hơn 1,8 triệu người làm việc trực tiếp và khoảng 2,5
triệu người làm việc gián tiếp. Số lượng lao động làm việc cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN ngày một tăng nhanh.
90

Nguyên nhân chính là số tiền lương do các doanh nghiệp này trả cho người lao động khá cao, kèm với đó là điều kiện
làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, chế độ đãi ngộ tốt, thực hiện nghiêm chỉnh quy định pháp luật Lao đông như: thời
giờ lao động, thời giờ nghỉ ngơi, đóng bảo hiểm xã hội, biện pháp an toàn, vệ sinh lao động
1.3. lược sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các
khu công nghiệp và khu chế xuất
1.3.1. Pháp luật trong nước
Phiên bản đầu tiên của thuật ngữ doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong KCN, KCX đã xuất hiện với tên gọi
Xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX (Điều 3 Quy chế KCN ban hành kèm theo Nghị định
192/CP năm 1994 của Chính phủ).
Tiếp đó, nhằm thu hút tốt hơn đầu tư nước ngoài, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam năm 1996. Luật này đã "luật hóa" vấn đề KCN, KCX và cho phép nhà đầu tư nước ngoài và các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
Luật Đầu tư năm 2005 ra đời thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước.
1.3.2. Các Điều ước quốc tế có liên quan
Việt Nam đã tham gia các Điều ước quốc tế song phương cũng như đa phương về hợp tác kinh tế quốc tế.
Việt Nam cam kết mở cửa thị trường cho tương đối rộng cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh
tranh bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.

Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI

TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT
2.1. Quy định pháp luật về việc thành lập, quản lý, chấm dứt hoạt động của Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
2.1.1. Thủ tục thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp và khu
chế xuất
Theo khoản 2 Điều 81 Nghị định số 108/2006/NĐ-CP, Ban Quản lý KCN, KCX "thực hiện việc đăng ký
đầu tư; thẩm tra và cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền".
Quy định của pháp luật Trung Quốc, có nhiều điểm tương đồng so với quy định pháp luật Việt Nam. Luật
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Laws of the People's Republic of
China on Foreign-Capital Enterprise) đã phân cấp thẩm quyền quản lý các dự án đầu tư rất triệt để cho các
Ban quản lý KCN, KCX. Chính phủ Trung Quốc còn cho phép thành lập các Ban quản lý riêng cho những
KCN, KCX có diện tích lớn (trên 500 ha). Một dự án đầu tư nước ngoài muốn được triển khai thực hiện các
91

đặc khu Kinh tế, KCN, KCX trước hết phải được sự phê chuẩn của chính quyền Trung Quốc. Sau đó, cần
đăng ký với cơ quan quản lý công thương nghiệp để lấy giấy phép đăng ký kinh doanh. Cấp chính quyền của
đặc khu được phép phê chuẩn và cấp phép cho dự án đầu tư dưới 30 triệu Đô-la Mỹ với ngành công nghiệp
nhẹ và không quá 50 triệu Đô-la Mỹ cho các dự án công nghiệp nặng.
Theo Luật Công ty Singapore, người đăng ký kinh doanh có thể được phép thành lập công ty dưới hai hình
thức là công ty tư nhân (chịu trách nhiệm vô hạn) và công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân
(chịu trách hữu hạn) với thủ tục đăng ký hết sức đơn giản. Sau khi công ty được thành lập, công ty triển khai các
dự án đầu tư thì sẽ phải lập dự án và sẽ do một ủy ban quản lý đầu tư đặc biệt do Chính phủ thành lập phê duyệt.
2.1.2. Quản lý hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp và
khu chế xuất
2.1.2.1. Phạm vi quản lý của Ban Quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất
Theo pháp luật Việt Nam, sau khi hoàn thành thủ tục thành lập doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục được quản lý theo một đầu mối chung là Ban Quản lý KCN, KCX.
Theo pháp luật Trung Quốc, các quan chức cấp tỉnh có Đặc khu kinh tế, KCX (SEZ) được quyền vận dụng
linh hoạt những chính sách của chính phủ, có quyền tự đưa ra những thay đổi phù hợp với quy định của pháp luật
và điều kiện thực tiễn. SEZ không được chính phủ cấp ngân sách mà thực hiện theo cơ chế lấy thu bù chi, hạch

toán độc lập. SEZ sẵn sàng đứng ra thực hiện dịch vụ công cho các nhà đầu tư (tư vấn đầu tư, chuẩn bị hồ sơ, dự
án, trình thẩm định, phê duyệt, hỗ trợ thủ tục hành chính liên quan đến thuế, hải quan…).
2.1.2.2. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo pháp luật Việt Nam, phù hợp với nội dung quản lý của Ban Quản lý KCN, KCX, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có phạm vi hoạt động trên các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh thương mại, hoạt động sản xuất, xuất
nhập khẩu, ngoại hối, lao động…theo quy định tại Giấy phép đầu tư/Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2.1.3. Chấm dứt hoạt động và thanh lý doanh nghiệp
Điều 65 Luật Đầu tư 2005 của Việt Nam quy định bốn trường hợp chấm dứt hoạt động dự án đầu tư:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư;
- Theo các điều kiện chấm dứt hoạt động được quy định trong hợp đồng, điều lệ hoặc thỏa thuận, cam kết của
nhà đầu tư về tiến độ thực hiện dự án;
- Nhà đầu tư quyết định chấm dứt hoạt động của dự án;
- Chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan nhà nước quản lý đầu tư hoặc theo bản án, quyết định của
Tòa án, Trọng tài do vi phạm pháp luật.
2.1.4. Đăng ký lại và tổ chức lại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp và
khu chế xuất
- Tổ chức lại doanh nghiệp là việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi doanh nghiệp.
92

- Đăng ký lại doanh nghiệp: là thủ tục đặc thù đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành
lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trước đây, để hoạt động hoàn toàn theo Luật Đầu tư và Luật
Doanh nghiệp 2005.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các khu công nghiệp
và khu chế xuất
2.2.1. Sử dụng đất và hạ tầng trong khu công nghiệp và khu chế xuất
Theo pháp luật Việt Nam tương đối dễ dàng và thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
khi đầu tư vào KCN, KCX, hầu hết diện tích đất trong KCN đã được giải phóng mặt bằng và có một số cơ sở
hạ tầng nhất định như trạm điện, đường giao thông, nhà máy cấp nước, hệ thống đường giao thông, cây xanh
Tuy nhiên, nếu so với pháp luật Trung Quốc, chế độ sử dụng đất tại Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn nhà
đầu tư nước ngoài. Trung Quốc cho phép các công ty nước ngoài tham gia vào hoạt động bất động sản với

mục đích thương mại. Các ưu đãi về việc sử dụng đất đai đối với các đặc khu kinh tế của Trung Quốc có thời
hạn áp dụng rất dài, người nước ngoài được mua quyền sử dụng đất và cho phép chủ sở hữu quyền sử dụng
đất được đầu tư phát triển đất theo bất kỳ mục đích nào như sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, nhà ở
hoặc phát triển và cho thuê lại.
Theo Điều 42 Luật Công ty của Singapore, thời hạn đầu tư trong phát triển đặc khu kinh tế (bao gồm cả
khu công nghiệp) căn cứ vào loại hình, quy mô, điều kiện của từng đặc khu, tối đa không quá 99 năm và có
thể gia hạn. Thời hạn này cũng dài hơn so với quy định tại Việt Nam là 50 năm.
2.2.2. Đầu tư xây dựng trong khu công nghiệp, khu chế xuất
Pháp luật Việt Nam hiện nay không có sự giới hạn thành phần kinh tế được phép đầu tư kết cấu hạ tầng
trong KCN, KCX. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài có khả năng được tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng trong
KCN, KCX với tư cách liên doanh hoặc độc lập.
Pháp luật Trung Quốc, cho phép Ban quản lý hay Công ty kinh doanh hạ tầng của Trung Quốc được trích
lại 3% tổng kinh phí từ việc thu phí hạ tầng để thực hiện việc duy tu, bảo dưỡng các công trình trong KCN,
KCX trong khi cơ chế này Việt Nam chưa có.
2.2.3. Chính sách ưu đãi trong khu công nghiệp, khu chế xuất
* Ưu đãi về tiền thuê đất.
Theo Điều 90 Luật Đất đai năm 2003 của Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài có quyền chọn lựa thanh toán
tiền thuê đất hàng năm hoặc trả một lần cho cả thời gian thuê đất.
So với Luật Khuyến khích và bảo hộ đầu tư của Singapore, quy định của Việt Nam có phần thuận lợi hơn.
Tại quốc gia này, việc miễn phí thuê đất hoặc tô nhượng đất chỉ được áp dụng đối với các dự án xây dựng
trung tâm nghiên cứu-phân tích, một số dự án dân sinh và công cộng. Thời hạn miễn được xác định theo các
khu vực với các mốc là 3, 10 và 14 năm.
93

Pháp luật Trung Quốc, các đặc khu kinh tế khác nhau có mức ưu đãi khác nhau trong việc trả tiền sử dụng đất.
Thâm Quyến, các xí nghiệp có công nghệ cao được miễn tiền thuê đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm
tiếp theo. Ở Chu Hải, các xí nghiệp liên doanh đang áp dụng công nghệ cao hoặc các xí nghiệp lợi nhuận thấp
được miễn trả khoảng tiền này
* Ưu đãi về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Theo quy định pháp luật Việt Nam, Doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KCX được miễn thuế nhập

khẩu máy móc, thiết bị tạo tài sản cố định, miễn thuế nhập khẩu ô tô chuyên chở công nhân. Doanh nghiệp
trong KCN, KCX tự đầu tư nhà ở cho công nhân được miễn thuế lần đầu đối với một số loại trang thiết bị
nhập khẩu như: Hệ thống cung cấp nước các loại; Hệ thống điều hòa và thông gió; phòng cháy và chữa cháy;
xử lý rác và nước thải; vận chuyển (thang máy); thiết bị bảo vệ.
* Ưu đãi và hỗ trợ về sử dụng lao động
- Về hỗ trợ đào tạo: chi phí đào tạo của doanh nghiệp được tính vào chi phí hợp lý làm căn cứ xác định thu
nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Ưu đãi do sử dụng nhiều lao động nữ: Trường hợp gặp khó khăn đặc biệt, được vay vốn với lãi suất thấp
từ quỹ quốc gia về việc làm; được lập dự án xin kinh phí hỗ trợ một lần từ quỹ quốc gia về việc làm; được sử
dụng, một phần trong tổng số vốn đầu tư hàng năm của doanh nghiệp để chi cho việc cải thiện điều kiện làm
việc cho lao động nữ; được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm cho lao động nữ.
* Xây dựng nhà ở cho công nhân: Chủ đầu tư dự án xây dựng được hưởng các ưu đãi: Được miễn tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất; Được áp dụng thuế suất ưu đãi thuế giá trị gia tăng ở mức 0%; Được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp trong 4 năm, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% trong 9 năm tiếp theo, được hỗ
trợ tín dụng đầu tư
Pháp luật Trung Quốc có quan điểm khác. Chính phủ Trung Quốc chủ trương bảo đảm một cách ổn định và
điều kiện thuận lợi cho dòng vốn đầu tư nước ngoài. Trung Quốc đã bãi bỏ thuế nhập khẩu và thuế trị giá gia tăng
khi cung ứng thiết bị máy móc cho các công trình được xây dựng có vốn nước ngoài; sử dụng rộng rãi hơn vốn
nước ngoài vào việc xây dựng các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu và tiếp tục mở cửa thị trường các dịch vụ
cho các nhà đầu tư nước ngoài, kể cả về tài chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch và ngoại thương. Mức thuế đánh
vào lợi nhuận doanh nghiệp là 15%, trong khi con số đó là 24% ở khu vực khác. Công ty nước ngoài được miễn
thuế trong 2 năm đầu kể từ khi bắt đầu có lợi nhuận và được giảm 50% trong 3 - 5 năm tiếp theo.
Theo pháp luật Braxin, các đặc khu kinh tế (SEZ) có đặc điểm khá tương đồng với KCX của Việt Nam.
Đây là khu vực được tổ chức với thủ tục hành chính hợp lý, các biện pháp miễn giảm thuế và cơ sở hạ tầng
tốt. Mức ưu đãi đầu tư vào các khu vực này khá lớn với thời hạn miễn thuế lợi tức là 5 năm và được miễn thuế
nhập khẩu, thuế đánh vào các mặt hàng sản xuất cho thị trường nội địa và một số yêu cầu về chuyển nhượng
bản quyền.
* Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
94


Theo quy định pháp luật Việt Nam, đối với doanh nghiệp đầu tư vào KCN, KCX áp dụng mức thuế suất
thuế thu nhập doanh nghiệp là 25%.
Theo quy định của pháp luật Malaysia, mức thuế suất thuế TNDN bình quân là 25%, khi áp dụng cho
doanh nghiệp công nghệ cao, trong thời gian 5 năm đầu kể từ khi bắt đầu đi vào hoạt động sản xuất kinh
doanh chỉ phải nộp 30% thuế TNDN, 70% thuế TNDN còn lại được miễn.
Theo quy định của Luật thuế doanh nghiệp Singapore, thuế suất thuế TNDN bình quân 17% và được miễn
khoản thu nhập ban đầu trị giá 300.000 đô Singapore trong những năm đầu thành lập.
Còn theo quy định pháp luật Trung Quốc, chính sách thuế được áp dụng khá linh hoạt với mức 15% cho
doanh nghiệp công nghệ cao, 20% cho doanh nghiệp nhỏ và 25% cho doanh nghiệp còn lại.
2.2.4. Quy chế đặc thù về cư trú, đi lại và trao đổi hàng hóa
* Cư trú, đi lại trong KCN, KCX
Theo pháp luật Việt Nam, KCN, KCX không có dân cư sinh sống. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, chuyên
gia nước ngoài được phép tạm trú tại doanh nghiệp trong KCN, KCX theo quy định của ủy ban nhân dân cấp Tỉnh.
Theo pháp luật Trung Quốc, người Trung Quốc ra vào đặc khu, KCX phải có giấy phép riêng. Người lao động
được tuyển vào đặc khu phải đăng ký tại cơ quan quản lý lao động để nhận thẻ lao động và giấy phép ra vào.
* Trao đổi hàng hóa trong KCN, KCX
Theo pháp luật Việt Nam, KCX là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đặc thù của KCX là khu phi thuế
quan do đó hàng hóa nhập khẩu, xuất khẩu của doanh nghiệp đặt trong KCX. Tuy nhiên, đối với mặt hàng văn
phòng phẩm, hàng tạp vụ không phải xin phép và tiến hành làm thủ tục hải quan.
Pháp luật Trung Quốc có phần chặt chẽ hơn khi yêu cầu tất cả các hàng hóa ra vào đặc khu kinh tế, KCX
đều phải chịu sự quản lý giám sát của hải quan. Người mang hàng hóa bắt buộc phải khai báo hải quan, phải
có giấy phép nhập khẩu vào đặc khu, KCX.
2.2.5. Sử dụng và quản lý lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất
Pháp luật Việt Nam, hiện không có cơ chế đặc thù để quản lý lao động trong các khu vực này. Việc quản
lý lao động nhìn chung vẫn được thực hiện thống nhất theo Bộ luật Lao động 1994 đã được sửa đổi bổ sung
qua các năm 2002, 2006 và 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật pháp Trung Quốc đề cao tính tự chủ cá nhân, tôn trọng sự thỏa thuận của người sử dụng lao động và
người lao động. Trung Quốc cho phép doanh nghiệp được thuê nhân viên theo các tiêu chuẩn của công ty và
sa thải khi không đạt yêu cầu.
Theo Luật Lao động Nhật Bản quy định rất rõ mức lương tối thiểu cho từng vùng, miền, từng lĩnh vực,

ngành nghề, mức lương này khá cao được điều chỉnh kịp thời đảm bảo người lao động có tích lũy và tái tạo sức
lao động.


95

2.2.6. Điều kiện về môi trường trong khu công nghiệp, khu chế xuất
Tại Việt Nam, theo Luật Bảo vệ môi trường và Nghị định số 21/2008/NĐ-CP, dự án xây dựng kết cấu hạ
tầng KCN, KCX phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, tỷ lệ lấp đầy trên 70%, KCN, KCX phải xây
dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
2.2.7. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp FDI về tài chính, ngoại hối
Pháp luật Việt Nam, Trong lĩnh vực kế toán, trích lập quỹ dự phòng doanh nghiệp phải tuân thủ Luật Kế
toán… doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản đồng tại Ngân hàng được
phép hoạt động tại Việt Nam. Về hóa đơn, chứng từ thực hiện theo Nghị định số 51/2010/NĐ-CP, doanh nghiệp
chế xuất sẽ sử dụng mẫu hóa đơn bán hàng riêng ghi rõ "Dành cho tổ chức, cá nhân trong khu phi thuế quan".
So với Trung Quốc, chính sách tài chính và ngoại hối của Việt Nam vẫn chưa được coi là hấp dẫn. Trung
Quốc đã cho phép công ty nước ngoài vay vốn từ các tổ chức tài chính bên trong và bên ngoài Trung Quốc và
được phép giữ lại lợi nhuận bằng ngoại tệ.
Theo quy định của Braxin, Nhà nước đảm bảo ổn định môi trường pháp lý ưu đãi về đầu tư, chuyển đổi hối
đoái, thuế quan, quản lý hành chính cho KCX trong thời hạn 20 năm. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu được
phép quản lý, sử dụng giữ lại ở ngân hàng nước ngoài số ngoại tệ thu được qua xuất khẩu.
2.2.8. Quyền và nghĩa vụ khác của doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất
- Quyền và nghĩa vụ trong hoạt động chuyển giao công nghệ: Doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công
nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên vào vùng nông thôn, miền núi, địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó
khăn được giảm 50% thuế thu nhập đối với thu nhập từ việc chuyển giao công nghệ.
- Quyền thành lập Kho bảo thuế trong KCN, KCX: Doanh nghiệp được lập Kho bảo thuế để phục vụ cho
hoạt động xuất nhập khẩu.

Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC THI ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC

NGOÀI TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
3.1. Thực trạng thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong
các khu công nghiệp, khu chế xuất
3.1.1. Kết quả đạt được
- Thu hút vốn đầu tư: Tính đến tháng 6/2011 Việt Nam có 257 KCN, KCX thành lập tại 57 tỉnh, thành
phố, thu hút 8.600 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 71 tỷ USD (trong đó 3.879 dự án nước ngoài với tổng vốn
đăng ký 53 tỷ USD và 4.771 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 315 nghìn tỷ đồng).
- Giải quyết việc làm: Tính đến cuối năm 2011, các KCN, KCX đã thu hút được trên 1,8 triệu lao động.
- Về trình độ công nghệ: ưu tiên các dự án có trình độ khoa học kỹ thuật cao, sản phẩm trí tuệ, có chất
xám, công nghệ sạch.
96

- Về kinh ngạch xuất khẩu: Tổng trị giá xuất lũy kế đến 30/10/2011 là 3.856 tỷ USD, góp phần bổ sung
ngoại tệ cho đất nước, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh.
- Về thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội: KCN, KCX là nơi sản xuất công nghiệp có giá trị gia tăng cao, có
hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phát triển khang trang hơn, điều kiện sống, thu nhập của người lao động được cải
thiện.
3.1.2. Những vướng mắc, tồn tại
- Về sử dụng đất tại KCN, KCX: Doanh nghiệp có vốn ĐTNN chỉ được sử dụng đất theo hình thức thuê
mà không được giao đất có thu tiền sử dụng đất như doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, phương thức trả tiền
thuê đất cũng bị giới hạn trả tiền thuê đất hàng năm và trả tiền thuê đất toàn bộ cho cả thời hạn thuê. Doanh
nghiệp khi đầu tư vào KCN, KCX phải thuê lại đất từ Công ty kinh doanh hạ tầng với giá khá cao.
- Về lao động: nhân lực có trình độ đại học và trên đại học trong các KCN chỉ chiếm 4,5%; công nhân kỹ thuật
đã qua đào tạo chỉ chiếm 31% tổng số lao động; trong khi đó lao động giản đơn lại chiếm đến 60% tổng số lao
động.
Về sử dụng và quản lý lao động nước ngoài trong các KCN, KCX, hiện Chính phủ đã bỏ quy định hạn chế
tỷ lệ lao động nước ngoài được sử dụng tại doanh nghiệp.
- Về chính sách ưu đãi: Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008 bãi bỏ những ưu đãi về thuế thu nhập
doanh nghiệp trong KCN, KCX. Các ưu đãi đối với Doanh nghiệp chế xuất như được miễn thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cũng chỉ áp dụng đến hết năm 2011. Điều này làm giảm bớt sức hấp dẫn

của việc đầu tư vào KCN, KCX.
- Vấn đề giảm vốn điều lệ: Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định Công ty TNHH một thành viên chỉ
được tăng mà không được giảm vốn điều lệ.
- Vấn đề môi trường: Luật quy định KCN, KCX có tỷ lệ lấp đầy từ 70% trở lên, chủ đầu tư hạ tầng kỹ
thuật phải đầu tư xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
- Mối liên kết với các doanh nghiệp bên ngoài: Sự thiếu liên kết này thể hiện ở việc các KCN luôn có
thâm hụt thương mại, chênh lệch nhập khẩu - xuất khẩu ngày càng tăng.
3.2. Sự cần thiết của việc hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong
các khu công nghiệp, khu chế xuất
- Sự cần thiết
+ Góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam nói chung, tạo ra sự minh bạch hệ thống pháp luật Việt Nam,
tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.
+ Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh đầu tư vào Việt Nam.
- Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Rõ ràng, minh bạch.
+ Khắc phục được những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.
97

+ Đảm bảo hài hòa lợi ích với các doanh nghiệp trong nước.
+ Phù hợp với đặc điểm, tính chất khu vực KCN, KCX.
3.3. Các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
3.3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
* Hoàn thiện chính sách thuế và ưu đãi tài chính trong KCN, KCX
- Nhà nước bãi bỏ chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp thành lập mới trong
KCN, KCX, cần tìm biện pháp khác nhằm khuyến khích đầu tư vào các khu vực này như ưu đãi tài chính về
giá điện, nước, cước vận tải, bưu điện, hàng không…
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các biện pháp ưu đãi tài chính, cải cách thủ tục hành chính, giải quyết
nhanh vấn đề hoàn thuế, thủ tục hải quan
- Đảm bảo tín dụng vốn vay cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong KCN, KCX kể

cả đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng.
3.3.2. Đổi mới quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế
Theo khái niệm của Luật Đầu tư, chỉ cần nhà đầu tư nước ngoài góp vốn 1% vào doanh nghiệp trong nước
thì doanh nghiệp đó cũng được coi là doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Theo quan điểm của tác giả, Nhà nước cần
ban hành quy định sửa đổi, bổ sung khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm sao giải quyết tận
gốc vướng mắc cho doanh nghiệp theo hướng quy định rõ ràng tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong
doanh nghiệp.
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách để cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền lợi của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tại KCN, KCX về đất đai như quyền chuyển nhượng, cho thuê, quyền thế chấp đất đai.
- Hoàn thiện các quy định liên quan đến lao động: Cần có chính sách phát triển các cơ sở đào tạo nghề gắn
với nhu cầu phát triển của KCN, KCX; Sửa đổi các quy định về lao động và tiền lương cho phù hợp, theo kịp
tình hình thực tiễn
- Nhà nước cần sớm bổ sung quy định về việc cho doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN tham gia đầu tư
các công trình kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN cũng được hưởng các ưu đãi đối với phát triển
hạ tầng trong hàng rào KCN; cần xây dựng cơ chế chính sách trích một phần phí thu hạ tầng để duy tu bảo
dưỡng hạ tầng cơ sở KCN, KCX.
- Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai, trong hợp đồng thuê lại đất trong KCN, KCX quy định
tách riêng giá thuê đất chưa có cơ sở hạ tầng và chi phí thuê cơ sở hạ tầng, bổ sung quy định tiền sử dụng đất
đối với đất thô
98

3.3.4. Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, khu chế xuất đồng bộ, hiện đại
Đầu tư xây dựng hạ tầng KCN, KCX theo hướng hiện đại, kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp - đô thị -
dịch vụ với cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đầy đủ dịch vụ phục vụ sản xuất và người lao động động, thu hút các
ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp phụ trợ, sử dụng công nghệ sạch.
3.3.5. Tiếp tục thực hiện cải cách thủ tục hành chính
Việc cải cách hành chính phải được tiếp tục quan tâm và đi vào thực chất đặc biệt trên các lĩnh vực nhạy

cảm dể xảy ra tiêu cực, nhũng nhiễu, hạch sách doanh nghiệp như thuế, hải quan, xây dựng. Cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế "một cửa, liên thông", cơ quan nhà nước áp dụng phong cách quản lý tiên tiến, đảm
bảo tập trung thống nhất một đầu mối, giải quyết một cách nhanh chóng, từng bước tạo được lòng tin cho nhà
ĐTNN.
3.3.6. Nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại Ban quản lý các khu công
nghiệp, khu chế xuất
Cán bộ làm việc tại Ban quản lý các KCN, KCX không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đối với những cán bộ được giao nhiệm vụ làm việc trực tiếp với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài: yêu cầu thông thạo ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ, tác phong, lề lối làm việc đảm bảo tính chuyên
nghiệp hóa. Những cán bộ này thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện bộ mặt của Việt Nam đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
3.3.7. Thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính công
Thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính công trực thuộc Ban quản lý các KCN, KCX nhiệm vụ đón tiếp
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài có nhu cầu đầu tư vào các KCN, KCX, giới thiệu môi trường, chính
sách đầu tư của từng tỉnh, chế độ chính sách pháp luật của Việt Nam về đầu tư, chế độ ưu đãi đầu tư đối với
ngành nghề, địa bàn Trung tâm sẽ theo sát doanh nghiệp từ khi nhà đầu tư có ý định đầu tư vào KCN, KCX
đến khi thành lập doanh nghiệp, hoạt động và theo hết đời dự án với mức thu phí hợp lý.
3.3.8. Cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng nguồn nhân lực của chỉ đạt 3,79 điểm (thang
điểm 10), xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được tham gia xếp hạng. Một doanh nghiệp KCN, KCX để đi
vào hoạt động được cần một bộ máy khá lớn từ Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các phòng, ban thuộc khối
văn phòng, đội ngũ lao động phổ thông đứng dây chuyền vì vậy, nhu cầu nguồn nhân lực cho KCN, KCX là
rất lớn. Cung ứng lao động có trí thức, qua đào tạo có kỹ năng, tay nghề, phục vụ các đơn đặt hàng của các
doanh nghiệp FDI có chất lượng, đạt yêu cầu, là một đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư
3.3.9. Cải thiện môi trường trong khu công nghiệp, khu chế xuất
Vấn đề môi trường cần được quan tâm đúng mức, phải được cải thiện sâu rộng, mạnh mẽ trong thời gian
tới. Việt Nam hiện mới chỉ có 102/257 KCN, KCX có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm 59% tổng số
KCN, KCX đã vận hành; 33 KCN, KCX đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
99


KẾT LUẬN
Đầu tư nước ngoài là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế trong nước. Trong đó, việc thu hút đầu tư
nước ngoài vào những khu vực riêng với những quy chế đặc thù, hình thức hoạt động khác biệt mà điển hình
là KCN, KCX là một hoạt động cần thiết và góp phần thiết thực trong việc giảm tác động xấu tới môi trường,
khu dân cư. Chính vì thế, khi xây dựng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, Nhà nước ta đã có nhiều lần sửa
đổi chính sách nhằm cải thiện địa vị của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX nói riêng.
Dựa trên quan điểm đó, luận văn đã khái quát chung về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài trong các KCN, KCX, vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, chuyển
giao công nghệ, phương thức quản lý tiên tiến, giải quyết việc làm, nâng cao năng lực xuất khẩu, phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.
Tác giả đã tiến hành nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX từ thủ tục thành lập, quản lý, chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đăng ký lại và tổ chức lại doanh nghiệp, quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: quyền sử dụng đất, hạ tầng trong KCN, KCX, quyền
đầu tư xây dựng, quyền và nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực tài chính, ngoại hối, các chế độ ưu đãi trong KCN,
KCX liên quan đến chính sách miễn, giảm thuế, thủ tục hải quan, thủ tục hành chính trên cơ sở có sự so
sánh với những quy định điều chỉnh doanh nghiệp hoạt động bên ngoài và pháp luật một số nước trong khu
vực như Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản… Tác giả đã cố gắng không so sánh, phân tích pháp luật một số
quốc gia một cách đơn lẻ, độc lập về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà lồng ghép,
đan xen trong phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam.
Các quy định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù khá đầy đủ về số
lượng và phạm vi điều chỉnh nhưng trên thực tế, các quy định điều chỉnh về địa vị pháp lý của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX vẫn tồn tại nhiều bất cập, vướng mắc và cần phải được kịp thời
tháo gỡ. Thông qua việc nghiên cứu về thực tiễn thực thi, những bất cập của pháp luật Việt Nam về địa vị
pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cùng với việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc
gia, Luận văn đã đưa ra 03 nhóm giải pháp mang tính trực tiếp nhằm hoàn thiện môi trường đầu tư, đổi mới
quan niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX để từ đó thúc đẩy thu hút đầu tư nước ngoài vào

Việt Nam và 6 kiến nghị nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp FDI gồm: Đầu tư xây dựng hạ tầng
kỹ thuật KCN, KCX đồng bộ, hiện đại xứng tầm với các nước trong khu vực và thế giới; tiếp tục cải cách thủ
tục hành chính; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc tại các Ban quản lý các KCN, KCX;
100

Cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cho KCN, KCX; Thành lập trung tâm dịch vụ hành chính công; Cải
thiện môi trường trong KCN, KCX.

References.
1. Quan Thị Lệ Anh (2009), Đặc khu kinh tế Trung Quốc và các kinh nghiệm đối với Việt Nam, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), 20 năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Tài liệu hội thảo khoa học, Hà
Nội.
3. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2009), Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 06/5 hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu
công nghệ cao, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (1998), Thông tư số 82/1998/TT-BTC ngày 19/6 hướng dẫn chế độ tài chính áp dụng cho
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2009), Thông tư số 79/2009/TT-BTC hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải
quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính (2011), Tài liệu đánh giá tác động của cơ chế, chính sách tài chính đối với những doanh
nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2011), Báo cáo kết quả khảo sát về cơ chế, chính sách tài chính đối với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hà Nội.
8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009), Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7 quy định quản lý và
bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cụm công nghiệp, Hà Nội.
9. Bộ Thương mại (2007), Thông tư số 04/2007/TT-BTM ngày 04/4 hướng dẫn hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu, gia công, thanh lý hàng nhập khẩu và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, Hà Nội.
10. Bộ Xây dựng (2009), Thông tư số 19/2009/TT-BXD ngày 30/6 quy định về quản lý đầu tư xây dựng khu

công nghiệp, khu kinh tế, Hà Nội.
11. Châu Thủy Cảnh (2011), "Cung ứng nguồn nhân lực, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp",
, ngày 8/8.
12. Chính phủ (1994), Nghị định số 192/CP ngày 28/12 ban hành quy chế khu công nghiệp, Hà Nội.
13. Chính phủ (1997), Nghị định số 36/CP ngày 24/4 ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao, Hà Nội.
14. Chính phủ (2004), Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03/12 về thu tiền sử dụng đất, Hà Nội.
101

15. Chính phủ (2006), Nghị định số 101/2006/NĐ-CP ngày 21/9quy định đăng ký lại, chuyển đổi và đăng ký
đổi Giấy chứng nhận đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo quy định của Luật
doanh nghiệp và Luật Đầu tư, Hà Nội.
16. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đầu tư, Hà Nội.
17. Chính phủ (2007), Nghị định sô 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9 hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật
doanh nghiệp, Hà Nội.
18. Chính phủ (2008), Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu kinh tế, Hà Nội.
19. Chính phủ (2008), Nghị định số 44/2008/NĐ-CP ngày 09/4 về sửa đổi Nghị định 198/2004/NĐ-CP về thu
tiền sử dụng đất, Hà Nội.
20. Chính phủ (2008), Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8 hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
21. Chính phủ (2010), Nghị định số 87/2010/NĐ-CP ngày 13/8 hướng dẫn Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, Hà Nội.
22. Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
doanh nghiệp thay thế Nghị định 139/2007/NĐ-CP, Hà Nội.
23. Nguyễn Đình Cung (2009), "Thực hiện Luật doanh nghiệp và Luật Đầu tư: Một số khái niệm cần được
làm rõ", Luật học, (7).
24. Lê Tuấn Dũng (2009), "Tăng cường thu hút các dự án công nghiệp hỗ trợ vào các khu công nghiệp, khu kinh tế",
www.khucongnghiep.com.vn, ngày 19/11.
25. Lê Tuấn Dũng (2009), "Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) nhằm hình thành và

phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh Hưng Yên", Kinh tế và dự báo, (4).
26. Guiomard (2011), "Quản trị các khu chế xuất Acre S/A (AZPE AC-S/A)" www.abrazpe.org.br, ngày
11/5.
27. Trần Mạnh Hà (2007), Những bất cập của pháp luật đầu tư liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
28. Hà Huy Hiệp (2011), "Đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp tăng 176%", , ngày
27/10.
29. Đỗ Nhất Hoàng (2005), "Quá trình hình thành và phát triển của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam",
Thương mại, (10).
30. Nguyễn Văn Hùng (2009), "Một số vấn đề đổi mới công tác quy hoạch phát triển khu công nghiệp gắn
với bảo vệ môi trường ở nước ta", .
31. Trần Ngọc Hưng (2010), "Các ngành công nghiệp và dịch vụ ưu tiên thu hút đầu tư",
, ngày 12/11.
102

32. Nguyễn Duy Lãm (2001), Từ điển Thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Long (2010), "Quy trình đầu tư tổng quát vào các khu công nghiệp, khu chế xuất Thành phố
Hồ Chí Minh", .
34. Cấn Văn Minh (2009), Pháp luật về khu công nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
35. Nhóm Nghiên cứu chuyên đề lớp kinh tế đầu tư 47D (2008), Đánh giá tình hình thu hút đầu tư trực tiếp
vào các khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
36. Nguyễn Minh Phong (2010), "FDI vào Việt Nam năm 2010: Bối cảnh và những động thái mới", Ngân
hàng, (11).
37. Nguyễn Minh Quang (2009), "doanh nghiệp kêu vì bị "cắt" ưu đãi", .
38. Quốc hội (1996), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
39. Quốc hội (2000), Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
40. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
41. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
42. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư, Hà Nội.

43. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
44. Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
45. Quốc hội (2006), Luật Chuyển giao công nghệ, Hà Nội.
46. Quốc hội (2010), Luật Trọng tài thương mại, Hà Nội.
47. Nguyễn Minh Sang (2009), "Đặc khu kinh tế Trung Quốc mô hình mới cần được nghiên cứu thí điểm tại
Việt Nam", Phát triển kinh tế, (31).
48. Lê Xuân Sơn (2010), "8 tháng đầu năm 2010 có 18 khu công nghiệp được thành lập mới và mở rộng",
, ngày 24/8.
49. Trần Văn Thắng (2010), "Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ ở Việt
Nam", , ngày 12/11.
50. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Hà Nội.
51. Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), "Giới thiệu các khu công nghiệp Việt Nam",
ngày 01/4.
52. Viện Kinh tế học (1999), "Mô hình đặc khu kinh tế Trung Quốc và những bài học cho phát triển đặc khu kinh tế
Việt Nam", Thông tin phục vụ lãnh đạo, (7).
53. Vụ Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất (2009), Báo cáo 6 tháng đầu năm năm 2009, Hà Nội.


×