Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

phan biet toi hiep dam tre em va giao cau voi tre em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.72 KB, 10 trang )

Phân biệt tội Hiếp dâm trẻ em và Giao cấu với trẻ em


I. TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM
Giao cấu với trẻ em là hành vi của một người đã thành niên giao cấu với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân. Điều 115 Bộ luật hình sự quy
định:
“1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị
phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Đối với nhiều người;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội”
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
1. Về phía người phạm tội
Người phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể
của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.
Việc giao cấu với người dưới 16 là hoàn toàn có sự đồng tình của hai người không bên
nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình yêu đương giữa hai
người, nhất là ở một số vùng nông thôn, tệ tảo hôn còn phổ biến, cũng có trường hợp do
cuộc sống, do hoàn cảnh éo le của một số em gái chưa đủ 16 tuổi đã bán dâm cho khách
làng chơi để kiếm tiền.
Việc trừng trị hành vi giao cấu với người dưới 16 tuổi bằng luật hình sự của Nhà nước ta
cũng chủ yếu nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với người chưa


đủ 16 tuổi.


2. Đối với người bị hại
Người bị hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi (Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung
thân hoặc tử hình)
Việc để người phạm tội giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyên, không hề có sự cưỡng bức
hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu cầu không xử lý
đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được chấp nhận vì họ là đối
tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.
Chỉ coi là tội giao cấu với trẻ em khi người phạm tội và người bị hại đã thực hiện việc
giao cấu, nếu chỉ có những hành vi có tính chất dâm ô mà chưa thực hiện việc giao cấu
thì không cấu thành tội giao cấu với trẻ em mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội dâm ô trẻ em quy định tại Điều 116 Bộ luật hình sự.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Giao cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 115)
Trường hợp người phạm tội chỉ giao cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự có khung hình
phạt từ một năm đến năm năm tù. Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội
này, cần phải xem xét một cách toàn diện đầy đủ các tình tiết của vụ án, nhân thân người
phạm tội, đặc biệt là mối quan hệ giữa người bị hại với người phạm tội. Thông qua việc
giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng cần giáo dục không chỉ người phạm tội mà
cần giáo dục ngay cả đối với người bị hại để họ nhận thức được trách nhiệm của mình đối
với bản thân và xã hội.
2. Phạm tội nhiều lần (điểm a khoản 2 Điều 115)
Phạm tội nhiều lần trong trường hợp này là giao cấu với một trẻ em từ hai lần trở lên. Khi
xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Tất cả các lần giao cấu, người phạm tội đã đủ
18 tuổi và người bị hại ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu có hai lần giao cấu nhưng

trong đó coa một lần người phạm tội chưa đủ 18 tuổi hoặc người bị hại đã đủ 16 tuổi thì
không coi là phạm tội nhiều lần và người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự. Nếu trong các lần giao cấu mà có một lần người
bị hại dưới 13 tuổi thì người phạm tội phải bị truy cứu về hai tội: tội hiếp dâm trẻ em và
tội giao cấu với trẻ em.
3. Đối với nhiều người (điểm b khoản 2 Điều 115)


Phạm tội đối với nhiều người trong trường hợp này là giao cấu với từ hai trẻ em trở lên và
tất cả người bị hại đều ở độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu có hai người bị hại,
trong đó có một người đủ 16 tuổi thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 1 Điều 115 Bộ luật hình sự. Trường hợp nếu có một người dưới 13 tuổi khi bị
giao cấu thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự hai tội: tội giao cấu với trẻ
em và tội hiếp dâm trẻ em. Trường hợp có nhiều người bị giao cấu, trong dó có người bị
giao cấu từ hai lần trở lên thì người phạm tội thuộc hai trường hợp: phạm tội nhiều lần và
đối với nhiều người.
4. Giao cấu với trẻ em có tính chất loạn luân(điểm c khoản 2 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp hiếp dâm có tính chất loạn
luân, cưỡng dâm có tính chất loạn luân, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này giữa nạn
nhân với người phạm tội có sự thoả thuận, đồng tình với nhau khi giao cấu. Việc xử lý
nghiêm trường hợp giao cấu với trẻ em có tính chất loạn luân là nhằm bảo vệ giống nòi,
bảo vệ sự phát triển bình thường của các em, bảo vệ thuần phong mỹ tục của gia đình và
xã hội.
5. Giao cấu với trẻ em làm nạn nhân có thai (điểm d khoản 2 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp làm nạn nhân có thai trong các
trường hợp đối với tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm, chỉ khác ở chỗ trong trường hợp phạm
tội này nạn nhân đã đồng tình để người phạm tội giao cấu.
Khi xác định ttình tiết phạm tội này cần chú ý: Chỉ khi nào xác định người bị hại có thai
do chính hành vi giao cấu của người phạm tội làm cho nạn nhân có thai và khi có thai,
người bị hại ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16. Nếu người bị hại có thai do kết quả của một

lần giao cấu với người khác hoặc tuy có thai với người phạm tội nhưng do giao cấu nhièu
lần trong đó có lần người bị hại đã đủ 16 tuổi và cái thai đó là kết quả của lần giao cấu
khi người bị hại đã tròn 16 tuổi, thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
6. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%
(điểm đ khoản 2 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của
nạn nhân mà tỷ lệ lệ thương tật từ 31% đến 60% đối với hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm và
việc xác định tình trạng sức khoẻ của nạn nhân trên cơ sở giám định thương tật của Hội
đồng giám định pháp y, chỉ khác các trường hợp trên là người bị hại trong trường hợp này
đồng tình cho người phạm tội giao cấu. Đây không phải là tình tiết định khung mới vì
khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 đã quy định tình tiết "gây tổn hại nặng cho


sức khoe của nạn nhân" và theo các thông tư, nghị quyết hướng dẫn thì tỷ lệ thương tật từ
31% đến 60% là thương tích nặng hặc tổn hại nặng đến sức khoẻ.
Người phạm tội giao cấu với trẻ em thuộc một trong các trường hợp: Phạm tội nhiều lần;
đối với nhiều người; có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây tổn hại đến sức
khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% thì bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm tù.
So với khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 115 là tội nhẹ hơn,
nên được áp dụng đối với hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà
sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý (trừ trường hợp đối với nhiều người, vì
đây là tình tiết định khung mới quy định).
7. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên (điểm a
khoản 3 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp gây tổn hại cho sức khoẻ của
nạn nhân mà tỷ lệ lệ thương tật từ 61% trở lên đối với hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm và
việc xác định tình trạng sức khoẻ của nạn nhân trên cơ sở giám định thương tật của Hội
đồng giám định pháp y, chỉ khác các trường hợp trên là người bị hại trong trường hợp này
đồng tình cho người phạm tội giao cấu. Vì khoản 3 Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985

không quy định gây tổn hại rất nặng cho sức khoẻ của nạn nhân, nên phải coi trường hợp
phạm tội này là tình tiết định khung mới. Do đó chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội
được thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở đi, nếu hành vi phạm tội thực trước 0 giờ 00
ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện thì áp dụng điểm d khoản
2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người phạm tội với tình tiết "gây tổn hại
nặng cho sức khỏe của nạn nhân".
8. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội (điểm b khoản 3 Điều 115)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như các trường hợp biết mình bị nhiễm HIV mà
vẫn hiếp dâm, vẫn cưỡng dâm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 111; điểm c khoản 3
Điều 112; điểm b khoản 3 Điều 113; điểm đ khoản 3 Điều 114, chỉ khác các trường hợp
trên ở chỗ người bị hại trong trường hợp này là trẻ em và đồng tình để người phạm tội
giao cấu.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ
lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội, thì người phạm
tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 115 có khung hình phạt từ bảy năm
đến mười lăm năm tù.


II. TỘI CƯỠNG DÂM TRẺ EM
Cưỡng dâm trẻ em là hành vi của một người dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi lệ thuộc mình hoặc đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu với mình. Điều 114 Bộ luật hình sự quy định:
"1. Người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm
đến mười năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến
hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Nhiều người cưỡng dâm một người;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Đối với nhiều người;
d) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
đ) Biết mình bị nhiễm HIVmà vẫn phạm tội;.
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ một năm đến năm năm."
A. CÁC DẤU HIỆU CỦA TỘI PHẠM
Tội cưỡng dâm người chưa thành niên là tội phạm được tách ra từ trường hợp phạm tội
quy định tại điểm a khoản 2 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 do yêu cầu của việc đấu
tranh với những hành vi lạm dụng tình dục đối với trẻ em đang xảy ra rất nghiêm trọng ở
nước ta.
Về cơ bản các dấu hiệu của tội cưỡng dâm trẻ em cũng tương tự như đối với tội cưỡng
dâm quy định tại Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân bị cưỡng dâm ở
tội này là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dươí 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người


phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại Điều 112 Bộ
luật hình sự.
Cũng tương tự như đối với các trường hợp hiếp dâm trẻ em, hiếp dâm người chưa thành
niên, trường hợp cưỡng dâm trẻ em, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định tuổi
thật của nạn nhân là trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi mà không phụ thuộc vào ý thức chủ
quan của người phạm tội có biết hay không biết người mà mình cưỡng dâm là trẻ em.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Cưỡng dâm một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (khoản 1 Điều 114)
Người chưa thành niên dưới 16 tuổi được gọi là trẻ em, vì vậy cưỡng dâm người dưới 16
tuổi gọi là cưỡng dâm trẻ em. Lẽ ra trường hợp phạm tội này chỉ cần quy định cưỡng dâm

trẻ em là đủ. Tuy nhiên, nếu cưỡng dâm trẻ em dưới 13 tuổi thì lại bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm nên cần phải quy định cụ thể trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi để khỏi nhầm với trường hợp trẻ em dưới 13 tuổi bị giao cấu mà Bộ luật hình sự
quy định là tội hiếp dâm. Để xác định trường hợp phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố
tụng chỉ cần xác định tuổi của nạn nhân sau khi đã xác định đủ các yếu tố cấu thành tội
cưỡng dâm.
Cưỡng dâm một người là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 1 Điều 114 có khung hình phạt từ năm năm đén mười năm tù.
3. Cưỡng dâm trẻ em có tính chất loạn luân (điểm a khoản 2 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm cótính chất
loạn luân quy định tại điểm d khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn
nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13
tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.
4. Cưỡng dâm trẻ em làm nạn nhân có thai (điểm b khoản 2 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định
tại điểm đ khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự.
5. Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến
60%(điểm c khoản 2 Điều 114)


Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định
tại điểm e khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 tuổi dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội
sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm c khoản 2
Điều 112 Bộ luật hình sự.
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm d khoản 2 Điều 114)

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định
tại điểm g khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm đ
khoản 2 Điều 112 Bộ luật hình sự .
Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có
thai ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% ; tái
phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình
sự có khung hình phạt từ bảy năm đến mười lăm năm tù. So với khoản 2 Điều 113a Bộ
luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 có khung hình
phạt nặng hơn nên chỉ áp dụng đối với hành vi phạm tội kể từ 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 trở
đi .
7. Nhiều người cưỡng dâm một người (điểm a khoản 3 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định
tại điểm a khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 đến dưới 18 tuổi, nếu nạn nhân lại là người dưới 13 tuổi người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định taị khoản 4
Điều 112 Bộ luật hình sự.
8. Phạm tội cưỡng dâm trẻ em nhiều lần (điểm b khoản 3 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định
tại điểm b khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự chỉ khác nhau ở chỗ nạn nhân trong trường
hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân lại dưới 13 tuổi thì người
phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại khoản 4
Điều 112 Bộ luật hình sự và nếu nạn nhân trên 16 tuổi thì thuộc trường hợp cưỡng dâm
người chưa thành niên quy định tại đoạn hai khoản 4 Điều 113 Bộ luật hình sự .


Khi xác định tình tiết phạm tội này cần chú ý: Tất cả những lần cưỡng dâm, nạn nhân đều
ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, nếu có hai lần cưỡng dâm, nhưng chỉ có một lần nạn
nhân ở độ tuổi đủ 13 đến dưới 16 còn một lần nạn nhân trên 16 tuổi thì người phạm tội bị

truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội cưỡng dâm người chưa thành niên (khoản 4
Điều 113 ) và tội cưỡng dâm trẻ em (khoản 1 Điều 114); nếu có một lần nạn nhân chưa
đén 13 tuổi thì người phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: tội hiếp
dâm trẻ em (khoản 4 Điều 112) và tội cưỡng dâm trẻ em (khoản 1 Điều 114).
9. Cưỡng dâm nhiều trẻ em (điểm c khoản 4 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tường tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm nhiều
người quy định tại điểm c khoản 2 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, các nạn
nhân trong trường hợp này đều là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân
dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em
quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự.
Khi xác dịnh tình tiết phạm tội này, các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác dịnh tuổi
thật của người bị hại mà không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người phạm tội.
10. Cưỡng dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên (điểm d khoản 3 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội "cưỡng dâm gây tổn
hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên quy định tại điểm a
khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn nhân trong trường hợp này là
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định tại điểm đ khoản 3 Điều
112 Bộ luật hình sự.
11. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn cưỡng dâm trẻ em (điểm đ khoản 3 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp"biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn
phạm tội" quy định tại điểm b khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ, nạn
nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13
tuổi thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em quy định
tại điểm e khoản 3 Điều 112 Bộ luật hình sự.
12. Cưỡng dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát (điểm e khoản 3 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân chết
hoặc tự sát quy ddịnh tại điểm c khoản 3 Điều 113 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ nạn
nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân lại là



người dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm
trẻ em quy định tại điểm g khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự.
Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Nhiều người cưỡng dâm một người ;
Phạm tội nhiều lần ; gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát,
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự
có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Trừ trường hợp "phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát", còn các trường hợp phạm tội
khác, so với khoản 3 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 114 là tội
phạm nặng hơn, vì khoản 3 Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 là điều khoản được nhập
hai khoản (khoản 3 và khoản 4 Điều 113a). Vì vậy, nếu hành vi phạm tội của người phạm
tội được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị
phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 3 Điều 113a Bộ luật hình sự năm 1985 đối với người
phạm tội (trừ trường hợp phạm tội làm nạn nhân chết hoặc tự sát được áp dụng khoản 3
Điều 114 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội)



×