Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.74 KB, 97 trang )

1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là bình minh của cuộc đời, là hạnh phúc của gia đình, là tương
lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trẻ em do còn non nớt về thể chất và trí tuệ nên cần được bảo vệ và chăm sóc
đặc biệt, trong đó có sự chở che của pháp luật. Để bảo vệ trẻ em, đại đa số các
quốc gia trên thế giới đã ký kết và tham gia Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em. Điều 34 Công ước về quyền trẻ em đã quy định: “Các quốc gia
thành viên cam kết bảo vệ trẻ em chống tất cả các hình thức bóc lột và lạm
dụng tình dục. Vì mục đích này các quốc gia thành viên phải đặc biệt thực hiện
tất cả các biện pháp quốc gia, song phương và đa phương thích hợp để ngăn
ngừa việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia bất kỳ hành vi tình dục bất hợp
pháp nào”. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu á và là nước thứ ba trên thế giới
phê chuẩn Công ước quyền trẻ em và đã thực hiện nhiều biện pháp khác nhau
để bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Tuy nhiên trong thời gian qua, tội phạm xâm hại
trẻ em trong đó có tội hiếp dâm trẻ em ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp và
luôn có chiều hướng gia tăng. Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998
của Chính phủ về tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình
mới đã xác định:“Tội phạm xâm hại trẻ em là một trong những loại tội phạm
gây những hậu quả hết sức nghiêm trọng, gây lo lắng cho toàn xã hội cần phải
tập trung đấu tranh”.
Từ năm 1999 đến năm 2004, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tội phạm hiếp
dâm trẻ em xảy ra hầu hết các địa phương trong tỉnh. Đáng chú ý là các vụ án
hiếp dâm trẻ em chiếm đa số trong các vụ xâm phạm tình dục trẻ em (172/300
vụ- tỷ lệ 57,4%). Tội phạm hiếp dâm trẻ em đã gây ra những hậu quả rất nguy
hại cho bản thân trẻ em, gia đình người bị hại và xã hội. Tội phạm hiếp dâm
trẻ em không những xâm hại đến sức khỏe, danh dự nhân phẩm mà còn gây
2
ảnh hưởng lâu dài tới tâm, sinh lý của các em trong suốt quá trình trưởng
thành. Những người phạm tội hiếp dâm trẻ em thể hiện sự suy đồi về lối sống,


sự xuống cấp về các giá trị về đạo đức và thuần phong mỹ tục. Đồng thời, tội
phạm này còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang,
lo lắng cho một bộ phận dân cư trên địa bàn tỉnh.
Nhận thức được tính nguy hiểm của tội phạm hiếp dâm trẻ em, trong
những năm qua, Công an tỉnh Đồng Nai đã tập trung lực lượng đấu tranh
chống loại tội phạm này và đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy
nhiên, hoạt động điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em vẫn còn tồn tại vướng
mắc do những nguyên nhân chủ quan và khách quan làm hạn chế hiệu quả
điều tra đối với loại tội phạm này: Việc thu thập dấu vết, tài liệu chứng cứ có
giá trị trực tiếp để chứng minh tội phạm và người phạm tội gặp rất nhiều khó
khăn; người làm chứng chưa nhận thức được rõ trách nhiệm của mình nên
chưa tự giác khai báo hoặc khai báo chưa đầy đủ; người bị hại do nhiều
nguyên nhân khác nhau không trình báo hoặc trình báo không kịp thời. Mặt
khác, do nhận thức của các em còn non nớt nên việc cung cấp thông tin thiếu
chính xác, không đầy đủ. Tổ chức bộ máy cũng như hoạt động điều tra các vụ
án hiếp dâm trẻ em của Cơ quan CSĐT còn có những hạn chế nhất định.
Vì những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Điều tra các vụ án hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội phạm trong lứa tuổi
chưa thành niên, tội phạm xâm hại trẻ em cụ thể như sau:
- Luận văn cao học: Tội phạm xâm phạm trẻ em ở tỉnh Đồng Tháp,
thực trạng và những giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn - Dương Anh Kiệt, năm
1999.
3
- Luận văn cao học: Thực trạng và các giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ở nước
ta hiện nay - Đặng Thị Thanh, năm 2001.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Phòng ngừa tội phạm xâm hại trẻ
em ở Việt Nam theo chức năng của lực lượng CSND – Trần Phương Đạt, năm

2004.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em ở các tỉnh thành phố phía Nam, thực trạng và giải pháp phòng ngừa đấu
tranh – Vũ Đức Trung, năm 2005.
Tuy nhiên, những công trình trên mới chỉ tập trung nghiên cứu về
phương hướng phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm xâm hại trẻ em ở những góc
độ khác nhau, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu hoạt động điều
tra các vụ án hiếp dâm trẻ em và nghiên cứu vấn đề này trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
3. MụC đích Và NHIệM Vụ NGHIÊN CứU
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nhằm đánh giá thực trạng hoạt động điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em
của cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai. Từ đó đề xuất các giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả điều tra đối với loại án này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn đặt ra
và giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Khái quát về mặt lý luận để thống nhất nhận thức về trẻ em, bảo vệ
trẻ em theo pháp luật Việt Nam; về điều tra các vụ án xâm hại trẻ em nói
chung, hiếp dâm trẻ em nói riêng theo chức năng của lực lượng CSND.
+ Khái quát đánh giá tình hình tội phạm và đặc điểm hình sự của tội
phạm hiếp dâm trẻ em tại Đồng Nai từ năm 1999 đến năm 2004.
4
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động điều tra đối với các vụ án
hiếp dâm trẻ em tại địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Dự báo tình hình hoạt động của tội phạm hiếp dâm trẻ em trong thời
gian tới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Đề ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác điều tra các
vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
4. ĐốI TƯợNG Và PHạM VI NGHIÊN CứU

- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em
do cơ quan điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Công an tỉnh Đồng Nai
tiến hành.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em
từ năm 1999 đến năm 2004 tại địa bàn tỉnh Đồng Nai và hoạt động điều tra
các vụ án hiếp dâm trẻ em của cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai từ năm
1999 đến năm 2004.
5. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật của
triết học Mác - Lê nin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ
đấu tranh phòng, chống tội phạm; các tri thức khoa học của bộ môn luật, tội
phạm học, tâm lý học và khoa học điều tra tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
+ Phương pháp thống kê so sánh đối chiếu.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp chuyên gia.
+ Phương pháp điều tra xã hội học.
6. ý NGHĩA Lý LUậN Và THựC TIễN
5
- Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách
toàn diện có hệ thống về hoạt động điều tra, xử lý các vụ án hiếp dâm trẻ em
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Dự báo có cơ sở khoa học tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em trong
thời gian tới và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em ở tỉnh Đồng Nai.
7. ĐIểM MớI CủA LUậN VĂN
- Việc nghiên cứu, rút ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả công tác điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai sẽ

làm giàu thêm kho tàng kinh nghiệm điều tra khám phá các loại tội phạm của
lực lượng CAND góp phần bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Đối với hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của các
trường CAND, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo sinh động về tình hình tội
phạm hiếp dâm trẻ em và công tác điều tra loại tội phạm này ở một tỉnh thuộc
tam giác kinh tế khu vực phía Nam của Tổ quốc.
8. Bố CụC CủA luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được cấu trúc thành 3
chương.
Chương 1: Nhận thức cơ bản về tội phạm hiếp dâm trẻ em và công tác
điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em.
Chương 2: Tình hình tội phạm hiếp dâm trẻ em và thực trạng công tác
điều tra các vụ án này trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 1999 đến năm 2004.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả
công tác điều tra các vụ án hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
6
Chương 1
nhận thức cơ bản về TộI PHạM HIếP DÂM TRẻ EM
Và công tác điều tra các vụ án HIếP DÂM TRẻ EM
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội phạm hiếp dâm trẻ em
1.1.1. Trẻ em và quan điểm chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về bảo vệ trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm về trẻ em
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đời người được chia thành hai giai
đoạn: Giai đoạn trẻ em và giai đoạn người lớn. Mỗi giai đoạn có những đặc
điểm đặc trưng về sinh lý, tâm lý và xã hội.
Trẻ em, là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn phát triển đầu tiên của cuộc
đời con người. Theo Điều 1 của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ
em, được thông qua ngày 20/11/1989 tại Viên (áo) và có hiệu lực từ ngày

02/9/1990 thì: “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với trẻ em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Như vậy,
để xác định một người nào đó có phải là trẻ em hay không, phải căn cứ vào
tuổi của chính người đó mà không có tiêu chí nào khác nữa.
Các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam đã phê chuẩn Công
ước này đều phải tuân thủ về tuổi của trẻ em là dưới 18 tuổi. ở Việt Nam,
chưa có quy định thống nhất về độ tuổi của trẻ em và người chưa thành niên.
Định nghĩa về trẻ em được đề cập ở nhiều văn bản luật khác nhau:
Điều 1, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định:
“Trẻ em là công dân Việt nam dưới 16 tuổi”. Theo quy định trên, trẻ em Việt
Nam là tất cả những ai từ chưa đủ 16 tuổi trở xuống. Đó có thể là những trẻ
sơ sinh, là những bé thơ trong nhà trẻ, mẫu giáo, là các em học sinh trong các
trường tiểu học, trung học cơ sở hoặc trường trung học phổ thông với điều
7
kiện duy nhất là các em chưa đủ 16 tuổi (tính theo tháng). Trong trẻ em cũng
có thể phân chia thành các lứa tuổi khác nhau: Trẻ em dưới 2 tuổi; trẻ em từ 2
tuổi đến dưới 6 tuổi; trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 12 tuổi; trẻ em từ 12 tuổi đến
dưới 16 tuổi.
Luật Lao động nước ta quy định: Trẻ em là người dưới 15 tuổi. Theo
quy định của Chương X, Bộ luật Hình sự năm 1999 thì người chưa thành niên
là người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Cũng tại Bộ luật này, khi nói đến trẻ em
với tính cách là đối tượng bị xâm hại, luật quy định là người dưới 16 tuổi.
Trong Hiến pháp năm 1992 và một số văn bản pháp luật khác, khi đề cập đến
các quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam như quyền bầu cử, quyền kết
hôn, tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuổi đăng ký nghĩa vụ quân sự …thì quy
định giới hạn độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi.
Khái niệm “trẻ em” và “người chưa thành niên” là hai khái niệm khác
nhau, được xác định căn cứ vào độ tuổi. Nếu giới hạn tuổi của trẻ em chỉ
dừng lại ở mức dưới 16 tuổi thì giới hạn tuổi của người chưa thành niên lại ở
mức cao hơn. Theo Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 1995 thì “người chưa thành

niên là người chưa đủ 18 tuổi”. Như vậy trẻ em và người chưa thành niên là
hai thuật ngữ, hai khái niệm pháp lý khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với
nhau, hòa quyện vào nhau và trong nhiều trường hợp mối quan hệ này không
có sự khác biệt bởi vì: Tất cả trẻ em đều là người chưa thành niên nhưng
không phải mọi người chưa thành niên đều là trẻ em.
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định
thống nhất về ranh giới độ tuổi giữa trẻ em và người trưởng thành. Tuy nhiên,
các văn bản pháp luật đều đã thừa nhận trẻ em là lứa tuổi cần được bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để trẻ em phát
triển toàn diện.
8
Để có căn cứ đưa ra khái niệm về trẻ em, cần phải khái quát một số đặc
điểm đặc trưng của lứa tuổi này.
- Đặc điểm về độ tuổi
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định độ tuổi thống
nhất của trẻ em là người dưới 18 tuổi, nhưng Công ước cũng chỉ ra rằng: căn
cứ đặc điểm lịch sử, phong tục tập quán và các điều kiện phát triển kinh tế, xã
hội của mỗi quốc gia để quy định về độ tuổi của trẻ em, nhưng không được
quá 18 tuổi.
Sự phát triển về thể chất và nhận thức của con người theo quy luật
khách quan từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Cùng với sự
phát triển về thể chất, thông qua hoạt động thực tiễn, nhận thức của con người
cũng dần được hoàn thiện. Chỉ đến khi đạt độ tuổi nhất định, con người mới
có đầy đủ năng lực trách nhiệm về hành vi của mình.
- Đặc điểm về mặt xã hội
ở bất kỳ quốc gia nào, trẻ em cũng là những người kế tục sự nghiệp của
các thế hệ đi trước. Tương lai của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều phụ thuộc
vào sự giáo dục, chăm sóc trẻ em. Bác Hồ đã nói: “Non sông Việt nam có trở
nên vẻ vang, sánh vai với các cường quốc năm châu hay không…chính là nhờ
phần lớn công học tập của các cháu”. ở lứa tuổi này, trẻ em được giáo dục,

hướng dẫn để trở thành chủ nhân tương lai của xã hội. Trẻ em có trở thành
người chủ thực sự của đất nước hay không phụ thuộc vào việc trẻ em được
chuẩn bị như thế nào? Gia đình, nhà trường và xã hội đã định hướng cho trẻ
em theo những chuẩn mực nào? Mọi hành vi của các thế hệ đi trước đều ảnh
hưởng tới sự phát triển của các em. Trẻ em có quyền đòi hỏi người lớn chăm
sóc, giáo dục và giúp đỡ. Mọi thiếu sót trong việc chăm sóc giáo dục trẻ em
đều có thể dẫn đến những hậu quả khó lường, tất cả các hành vi xâm hại đến
quyền lợi của trẻ em đều đáng bị lên án.
9
- Đặc điểm về sự phát triển sinh lý
Trong quá trình phát triển của con người, giai đoạn tuổi trẻ là giai đoạn
các chức năng sinh lý trong cơ thể con người được xác lập, phân định để tiến
tới hoàn thiện. Những bản năng tự nhiên được di truyền theo loài trong con
người như ăn uống, sinh tồn, tự vệ…nếu để các quy luật sinh vật chi phối tự
phát mà không được xã hội định hướng, chỉ dẫn thì trẻ không tự tồn tại, phát
triển được hoặc phát triển theo hướng tiêu cực và sẽ dẫn đến các hành vi lệch
chuẩn ở trẻ em.
Muốn cho trẻ em có được sự phát triển sinh học đúng hướng thì người
lớn(xã hội) phải tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần thuận lợi cho sự phát
triển về mặt sinh lý để trẻ em có điều kiện phát triển hài hòa, cân đối.
- Đặc điểm về tâm lý của trẻ em
Những phẩm chất tâm lý của trẻ em không tự nhiên mà có, nó bắt
nguồn từ thực tiễn, trong môi trường sống và môi trường giáo dục. ở lứa tuổi
này, trẻ em sẽ tiếp thu, lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, lịch sử để hình
thành những phẩm chất tâm lý nói chung và nhân cách nói riêng. Lúc này, trẻ
em chưa có khả năng phân tích đánh giá một cách đúng đắn khách quan về
các sự việc, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội. Vì vậy, việc hướng
dẫn, giúp đỡ trẻ em nhận biết những yếu tố đúng, sai trong môi trường sống
sẽ giúp trẻ em có thái độ đúng đắn đối với các mối quan hệ xung quanh.
Trong giai đoạn này, nếu người lớn bỏ mặc cho trẻ em tự phát triển,

không giáo dục, hướng dẫn theo các chuẩn mực đã định thì các phẩm chất tâm
lý của trẻ em sẽ phát triển phiến diện, nhân cách của trẻ hình thành và phát
triển chậm chạp. Những nét tâm lý lệch lạc nếu không được phòng ngừa sẽ
chèn ép những phẩm chất tâm lý tích cực trong nhân cách của trẻ em. Nếu
người lớn áp đặt và xâm hại trẻ em một cách thô bạo thì sẽ dẫn đến những
10
chấn động tâm lý ở trẻ. Cũng trong giai đoạn này, trẻ em thường tò mò làm
theo những hành vi của người lớn.
Từ những đặc điểm về độ tuổi, về tâm, sinh lý và các đặc điểm về mặt
xã hội của trẻ em; căn cứ các quy định của luật pháp quốc tế và ở Việt Nam,
chúng tôi đưa ra khái niệm về trẻ em như sau:“Trẻ em là người phát triển
chưa đầy đủ về thể chất và trí tuệ; ở độ tuổi dưới 16 tuổi”.
1.1.1.2. Quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
bảo vệ trẻ em
* Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ trẻ em
Đảng ta luôn quan tâm đến việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Quan điểm đó được thể hiện trong các văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX và
các nghị quyết của Đảng. Trước những tác động của các mặt tiêu cực trong
nền kinh tế thị trường, tình hình tội phạm xâm hại trẻ em có chiều hướng gia
tăng. Ngày 30/5/1991 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra chỉ thị số 38 về tăng
cường công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em. Chỉ thị nêu rõ: “Trẻ em là
nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần được ưu tiên bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục”. Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng và mỗi gia đình. Trong phạm vi
khả năng của mình, phải tạo ra những điều kiện tốt nhất cho trẻ em được phát
triển toàn diện về đức, trí, dũng, thể…
Chỉ thị đã đề ra 5 công tác trọng tâm cho các cấp ủy Đảng phải thực
hiện để bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đó là:
1. Tuyên truyền phổ biến phổ biến rộng rãi các chủ trương chính sách

của Đảng, Nhà nước về công tác trẻ em; Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ
em; Luật phổ cập giáo dục tiểu học; Công ước quốc tế về quyền trẻ em, các
mục tiêu vì trẻ em.
11
2. Nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi kịp thời các điều khoản luật pháp, các
chính sách có liên quan đến trẻ em, ban hành luật đối với trẻ em vị thành niên,
xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quyền trẻ em hoặc lợi dụng lôi kéo, xúi
giục trẻ em làm trái pháp luật.
3. Tăng cường đầu tư ngân sách cho các chương trình, mục tiêu vì trẻ
em..
4. Phát triển phong trào toàn dân chăm sóc, giáo dục trẻ em...
5. Kiện toàn hệ thống ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em các cấp…
Để thực hiện các cam kết theo công ước quốc tế về quyền trẻ em, ngày
16/8/1991 Nhà nước đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
(đã được thay thế bằng Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004).
Ngày 14/11/1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị
định số 374/HĐBT cụ thể hóa Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 19 nghị định này quy định: “Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) có trách
nhiệm phối hợp với Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ
nữ Việt nam cùng các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, tổ chức hữu
quan có kế hoạch hướng dẫn, tổ chức thực hiện việc bảo vệ các quyền và lợi
ích của trẻ em. Ngăn chặn việc lôi kéo, xúi giục trẻ em làm điều phạm pháp, có
biện pháp phòng ngừa hành vi phạm pháp luật của trẻ em, giáo dục và cải tạo
trẻ em phạm pháp. Xử lý nghiêm khắc đối với các hành vi giam giữ trái pháp
luật, đánh đập trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe, danh dự trẻ em…”
12
* Quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em
Điều 65, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy
định: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục”. Sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước ta đối với tuổi thơ còn được thể hiện

trực tiếp và gián tiếp trong hàng loạt điều khoản khác của Hiến pháp năm
1992. Đây chính là cơ sở pháp lý, là tiền đề quan trọng để quyền trẻ em Việt
Nam được quy định cụ thể trong những văn bản luật và dưới luật có tính chất
chung hoặc riêng một cách đầy đủ và toàn diện nhất.
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2004 quy định: “Các quyền của trẻ em phải được
tôn trọng và thực hiện; mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến
sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp
luật” (điều 6) và“nghiêm cấm các hành vi xâm hại tình dục trẻ em” (điều 7).
Trong quá trình phát triển của đất nước, trên cơ sở thực tiễn đặt ra, Nhà
nước ta đã đổi mới, bổ sung hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1985 làm công cụ
pháp lý để bảo vệ các quyền của trẻ em. Bộ luật hình sự sửa đổi đã tách một
số tội phạm xâm hại trẻ em thành điều luật riêng như tội hiếp dâm trẻ em, tội
cưỡng dâm người chưa thành niên. Tăng mức hình phạt đối với một số tội
phạm xâm hại trẻ em.
Do đòi hỏi của thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
tình hình mới, ngày 21/11/1999, Quốc hội nước ta đã thông qua Bộ luật hình
sự (gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), có hiệu lực từ 01/7/2000, nhằm thay
thế Bộ luật hình sự 1985 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ
luật hình sự đã được Quốc hội thông qua các ngày 28/12/1989; 12/8/1991;
22/12/1992 và 10/5/1997. Trong Bộ luật này, các tội phạm xâm hại tình dục
trẻ em trong đó có hiếp dâm trẻ em được quy định thành các điều luật cụ thể
13
như: Điều 112 “Tội hiếp dâm trẻ em”, Điều 114 “Tội cưỡng dâm trẻ em”,
Điều 115 “Tội giao cấu với trẻ em”, Điều 116 “Tội dâm ô với trẻ em”.
Ngoài các quy định trong Hiến pháp và Bộ luật Hình sự, vấn đề bảo vệ
trẻ em còn được thể hiện trong rất nhiều ngành luật như:
Bộ luật TTHS năm 2004 quy định nguyên tắc xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội đó là: Việc xử lý người chưa thành niên
phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành

mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Chương XI, Bộ luật Lao động
quy định về độ tuổi lao động thể hiện: cấm nhận trẻ chưa đủ 15 tuổi vào làm
việc trừ một số nghề cụ thể được quy định tại Điều 120…Trong các ngành
luật: Dân sự và Tố tụng dân sự, Luật Hành chính, Luật Hôn nhân gia đình
cùng với nhiều văn bản quy định khác cũng tiếp thu tinh thần dành cho trẻ em
những gì có lợi và tốt nhất.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội phạm hiếp dâm trẻ em
1.1.2.1. Khái niệm tội phạm hiếp dâm trẻ em
Để đưa ra được khái niệm tội phạm hiếp dâm trẻ em, trước hết cần hiểu
khái niệm hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em là gì? Theo từ điển tiếng Việt - Hoàng
Phê chủ biên do Trung tâm từ điển ngôn ngữ xuất bản năm 1992, khái niệm
“hiếp dâm” được hiểu là: “Dùng sức mạnh bắt phải để cho thỏa mãn sự dâm
dục”. Từ điển bách khoa CAND Việt Nam, Viện chiến lược và khoa học
Công an biên soạn, do nhà xuất bản CAND phát hành năm 2005 hành vi hiếp
dâm được hiểu là: “Dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu
cầu tình dục của mình”.
Theo các quan điểm trên thì hiếp dâm là hành vi dùng sức mạnh để
thỏa mãn nhu cầu tình dục trái pháp luật. Hiếp dâm trẻ em chỉ khác hành vi
hiếp dâm nói chung ở tính chất đối tượng bị xâm hại đó là trẻ em. Như vậy
14
hiếp dâm trẻ em có nghĩa là: Trẻ em bị một ai đó dùng sức mạnh cưỡng bức
nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục.
Trên cơ sở nghiên cứu có kế thừa và phát triển những quan điểm trên,
chúng tôi xin đưa ra một khái niệm về hiếp dâm trẻ em như sau: Hiếp dâm trẻ
em là hành vi cưỡng bức hoặc lợi dụng sự phát triển chưa hoàn thiện về thể
chất và trí tuệ của trẻ em để xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục,
danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và gây ảnh hưởng đến sự phát triển bình
thường của trẻ em.
Tội phạm hiếp dâm trẻ em là một loại tội phạm cụ thể của tình trạng tội
phạm nói chung. Do đó, để làm rõ khái niệm về tội phạm hiếp dâm trẻ em,

trước hết phải hiểu khái niệm về tội phạm nói chung. Theo Điều 8, Bộ Luật
hình sự thì: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ Luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lợi ích khác của trật tự
pháp luật XHCN”.
Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm tội phạm hiếp dâm
trẻ em như sau: Tội phạm hiếp dâm trẻ em là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý, xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ
em.
1.1.2.2. Đặc điểm pháp lý của tội hiếp dâm trẻ em
Điều 112, chương XII phần các tội phạm Bộ luật hình sự của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định hành vi hiếp dâm trẻ
15
em như sau: Là hành vi của một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn
khác để giao cấu với người dưới 16 tuổi.
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội hiếp dâm trẻ em là:
- Khách thể của tội phạm:
Tội phạm xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự
và nhân phẩm của trẻ em, đến sự phát triển lành mạnh cả về thể chất và tinh
thần của trẻ em. Trong nhiều trường hợp còn xâm hại đến sức khỏe của trẻ em
và ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
Mặt khách quan của tội phạm:
Là hành vi dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác giao cấu với người dưới
16 tuổi. Trường hợp nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Điều

112 Bộ luật hình sự đòi hỏi hành vi phạm tội phải là hành vi giao cấu trái ý
muốn với trẻ em bằng các thủ đoạn dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được hoặc bằng thủ đoạn khác.
Trường hợp nạn nhân là trẻ em chưa đủ 13 tuổi, Điều 112 Bộ luật hình
sự khẳng định “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm
tội hiếp dâm trẻ em”. Hành vi giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi dù có dùng
các thủ đoạn quy định tại Điều 112 Bộ luật hình sự hay được sự đồng ý của
nạn nhân điều bị coi là hành vi hiếp dâm trẻ em. Sở dĩ luật quy định như vậy
là vì : ở độ tuổi dưới 13 tuổi, trẻ em còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có đủ
khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, đễ bị người khác lôi kéo rủ rê, mua chuộc.
Hành vi lợi dụng độ tuổi để có được sự đồng ý của nạn nhân cũng là một dạng
cụ thể của thủ đoạn khác, thủ đoạn lợi dụng tình trạng không có khả năng biểu
lộ ý chí đúng đắn được của nạn nhân để thực hiện hành vi phạm tội.
16
- Chủ thể của tội phạm: là người từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách
nhiệm hình sự. Chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em chỉ có thể là nam giới, phụ nữ
có thể là đồng phạm tội hiếp dâm trẻ em với vai trò người giúp sức, người xúi
giục, người tổ chức.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội hiếp dâm trẻ em, tội phạm được thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
- Về hình phạt: Điều 112 BLHS quy định các mức hình phạt về tội này
như sau:
1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt
tù từ bảy năm đến 15 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm:
a, Có tính chất loạn luân;
b, Làm nạn nhân có thai;
c, Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%;

d, Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc giáo dục,
chữa bệnh;
đ, Tái phạm nguy hiểm
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20
năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a, Có tổ chức;
b, Nhiều người hiếp một người;
c, Phạm tội nhiều lần;
d, Đối với nhiều người;
đ, Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61%
trở lên;
17
e, Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
g, Làm nạn nhân chết hoặc tự sát;
4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm tù
chung thân hoặc tử hình.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Nhận thức đúng đắn về những đặc điểm pháp lý của tội phạm hiếp dâm
trẻ em là căn cứ để xác định tội phạm và người phạm tội; là cơ sở để xác định
thẩm quyền điều tra và áp dụng các biện pháp, chiến thuật đảm bảo cho hoạt
động điều tra đối với loại tội phạm này đạt hiệu quả cao và tuân thủ các quy
định của pháp luật.
Chương 4
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
1. Nhận thức chung về nhân thân người phạm tội.
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội.
Trong khoa học nghiên cứu tội phạm, khi phân tích tình trạng tội phạm,
những nguyên nhân, điều kiện của nó và nhất là để đề ra các biện pháp phòng

ngừa tội phạm thì không thể không nghiên cứu về chính những đối tượng đã
gây ra tình trạng phạm tội trong xã hội. Những đối tượng đó là những con
người cụ thể sống trong xã hội mà chúng ta gọi họ đó là: Người phạm tội.
Người phạm tội, trước hết họ cũng là con người của xã hội, cho dù tội
phạm mà họ thực hiện có nghiêm trọng đến đâu. C. Mác viết: “Nhà nước cần
phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một tế bào sống của xã hội, ở
con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu đang chảy, một người
lính mà họ cần phải trở thành chiến sĩ bảo vệ đất nước... một thành viên của
tập thể thực hiện các chức năng của xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn
18
tại của họ là sự thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là công dân
của nhà nước đó”.
Như vậy nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên
cứu con người cụ thể: nhân thân của những người đã thực hiện hành vi phạm
tội, là chủ thể của tội phạm.
Nhân thân con người, theo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin, là một
phạm trù xã hội lịch sử. Nó là một sản phẩm của một thời đại nhất định, được
quy định bởi những điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. Mỗi một
thời đại khác nhau sản sinh ra những mẫu người không giống nhau, song dù ở
thời đại nào thì bản chất của con người luôn luôn là “tổng hoà các mối quan
hệ xã hội” như C. Mác đã khẳng định.
Bản chất của con người bao gồm những nội dung về sinh học và xã hội
bởi vì con người vừa là thực thể sinh học vừa là thực thể xã hội. Và thực thể
sinh vật vì con người là một cơ thể sống, cho nên trước tiên con người mang
các đặc tính của sinh vật. Đặc tính sinh vật trong con người quy định sự hình
thành những hiện tượng, quá trình tâm lý của con người. Mặt khác, để tồn tại
được đòi hỏi con người phải có quá trình hoạt động lao động sản xuất ra của
cải vật chất để phục vụ nhu cầu sinh học của mình như ăn, uống, nghỉ ngơi,
sinh hoạt... đồng thời, trong bất kỳ xã hội nào con người không bao giờ sống
tách rời riêng lẻ mà luôn luôn có quan hệ với nhau trong quá trình lao động

sản xuất cũng như trong quá trình lao động sản xuất. Mối quan hệ này không
chỉ đơn thuần là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, mà còn là quan hệ giữa cá
nhân với tập thể, với cộng đồng; không chỉ là quan hệ trong cùng một thế hệ
mà còn là quan hệ giữa nhiều thế hệ nối tiếp nhau trong quá trình lịch sử xã
hội.
Chính từ những mối quan hệ xã hội đa dạng, phong phú đó mà toàn bộ
đời sống sinh hoạt cá nhân, cùng những kinh nghiệm sống và phép “đối nhân
19
xử thế” của riêng nó được định hình. Tất cả những đặc điểm tâm, sinh lý cùng
những gì biểu hiện các quan hệ xã hội có liên quan đến một con người, thể
hiện bản chất riêng của họ, hợp thành nhân thân của con người đó.
Nói cách khác nhân thân con người là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội.
Khi đề cập đến nhân thân người phạm tội là nói đến nhân thân của con
người nói chung, còn có những đặc điểm, dấu hiệu đặc trưng của nhân thân
người phạm tội và chính những đặc điểm dấu hiệu này thể hiện tính nguy
hiểm cho xã hội của nhân thân người phạm tội.
Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội khác với nhân thân
con người bình thường trước hết ở chỗ trong nhân thân của họ có đầy đủ các
dấu hiệu chủ thể của tội phạm theo quy định của luật hình sự. Có nghĩa rằng
tại thời điểm thực hiện tội phạm họ là những con người cụ thể đang sống, có
năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo luật định, và đặc biệt là họ đã
thực hiện hành vi phạm tội.
Gắn liền với sự việc phạm tội của họ là cả một hệ thống các đặc điểm
có liên quan đến sự việc phạm tội đó như: mối tương quan giữa bản chất tốt
xấu trong nhân thân con người đó, thể hiện ở phẩm chất đạo đức, các trạng
thái tâm lý, ý thức pháp luật, thái độ xử sự nói chung cho đến các đặc điểm cụ
thể như động cơ mục đích thực hiện hành vi phạm tội, thái độ sửa chữa lỗi
lầm... Những đặc điểm đó phần lớn được hình thành trước thời điểm thực
hiện tội phạm trong đó đặc biệt phải chú ý đến các phảm chất tiêu cực của cá

nhân. Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người
phạm tội cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm đối
với những người có phẩm chất cá nhân tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo
đức, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, ngăn chặn hành vi phạm tội.
20
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định nhân thân người phạm tội
như sau:
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội của con người đã thực hiện tội phạm.
1.2.Phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm
có liên quan.
1.2.1. Nhân thân người phạm tội và cá nhân người phạm tội.
Nói đến “cá nhân” là nói đến một con người cụ thể với tư cách là một
cá thể trong xã hội, là sản phẩm của sự phát triển xã hội là chủ thể của lao
động của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức do những điều kiện lịch sử cụ
thể của đời sống xã hội quy định. Trong cá nhân bao hàm cả nét chung và nét
riêng biệt của mỗi con người. Phạm trù cá nhân đặc trưng cho con người
hoàn chỉnh trong sự thống nhất của những đặc điểm riêng biệt của mỗi con
người và những bản chất xã hội chung của cả cộng đồng người.
Như vậy, “cá nhân người phạm tội” là khái niệm được dùng để chỉ một
cá thể người trong xã hội đã thực hiện tội phạm. Mặc dù trong khái niệm cá
nhân người phạm tội có bao hàm cả những nét chung của con người xã hội
nói chung cũng như con người phạm tội nói riêng, song đồng thời khái niệm
cá nhân người phạm tội lại còn bao hàm tất cả những đặc điểm riêng biệt của
mỗi con người phạm tội. Những đặc điểm riêng biệt đó nói lên tính cá biệt
của cá nhân người phạm tội. Cho nên, có thể nói rằng, khái niệm “nhân thân
người phạm tội” thuộc phạm trù cái chung, còn khái niệm “cá nhân người
phạm tội” chính là cái riêng cái đơn nhất vậy.
1.2.2. Nhân thân người phạm tội và nhân cách người phạm tội.
“Nhân cách” là tư cách làm người, là “tư cách và phẩm chất, đạo đức

của con người’. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “nhân cách”,
song phổ biến nhất vẫn là được nhiều nhà khoa học chấp nhận là quan điểm
21
“tâm lý hoá nhân cách”, quy rút nhân cách về cái tâm lý, và coi nhân cách
như một cá nhân, là cá thể so với tập thể, nhóm xã hội. “Nhân cách là tổ hợp
những thuộc tính tâm lý của một cá nhân, biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội
của người đó”.
“ Nhân cách người phạm tội” là một khái niệm được dùng để chỉ tổ hợp
những thuộc tính tâm lý của một cá nhân đã thực hiện tội phạm, biểu hiện ở
bản sắc và giá trị xã hội tiêu cực của cá nhân đó. “Nhân cách người phạm tội”
được hình thành trong quá trình hoạt động phạm tội, quá trình tác động qua
lại lẫn nhau giữa các cá nhân với môi trường sống đặc biệt là môi trường xã
hội tiêu cực. Nhân cách người phạm tội khác với nhân cách khác trong xã hội,
là “nhân cách không thích hợp”, không đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi
của xã hội, là đặc trưng cho mặt trái của tâm lý con người trong xã hội. Các
đặc điểm đặc trưng trong nhân cách người phạm tội thường được nghiên cứu
là những đặc trưng của nhu cầu, hứng thú, tính cách, năng lực, thói quen,
niềm tin thế giới quan, lý tưởng sống... của người phạm tội. Như vậy “nhân
cách người phạm tội’ là một nội dung quan trọng không thể thiếu được trong
nghiên cứu “nhân cách người phạm tội’.
1.2.3. Nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là khái niệm của khoa học pháp lý hình sự, là một
trong bốn yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm, là điều kiện tất yếu để truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội một cách cố ý hoặc vô ý, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi theo luật định. Ngoài ra đối với chủ thể đặc biệt của tội phạm còn
phải có thêm các dấu hiệu như: giới tính, lứa tuổi, chức vụ, nghề nghiệp, quan
hệ gia đình, nghĩa vụ phải thực hiện...
22

Khái niệm nhân thân người phạm tội bao hàm tất cả các dấu hiệu mà
luật hình sự quy định cả về chủ thể thường cũng như chủ thể đặc biệt của tội
phạm nhưng trong khái niệm nhân thân người phạm tội thì những dấu hiệu đó
được thể hiện rộng hơn chi tiết hơn. Chẳng hạn, dấu hiẹu độ tuổi của nhân
thân người phạm tội không chỉ là yếu tố xác định năng lực hành vi của con
người (tuổi chịu trách nhiệm hình sự- Điều 12 BLHS) mà còn được xem là
một đặc điểm có liên quan tới những biến đổi về tâm, sinh lý, kinh nghiệm
sống và các vai trò, vị thế xã hội khác nhau. Đặc điểm tâm lý ( dấu hiệu bên
trong) của nhân thân người phạm tội là cả đời sống tam lý, sự hình thành và
phát triển nhân cách của họ với tất cả những xúc cảm, tình cảm, ý chí, xu
hướng, tính cách, thói quen nhu cầu, ước vọng, những quan điểm đạo đức và
động cơ ứng xử... còn trong chủ thể của tội phạm chủ yếu chỉ xem xét các dấu
hiệu lý trí và ý chí biều hiện ở khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi làm
cơ sở để xác định năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi của một người khi họ
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội...
Ngoài ra khái niệm nhân thân người phạm tội còn có cả những đặc
điểm dấu hiệu mà trong khái niệm chủ thể của tội phạm không có hoặc không
cần thiết phải quy định về mặt pháp lý. Chẳng hạn những dấu hiệu về trình độ
học vấn, dân tộc, tôn giáo, quan hệ xã hội và những dấu hiệu khác thể hiện vị
trí vai trò xã hội của người phạm tội, thái độ của họ đối với các giá trị xã hội
và với chính bản thân mình...
1.3. Mối quan hệ giữa yếu tố xã hội và yếu tố sinh học trong nhân thân
người phạm tội.
Trong lịch sử tội phạm học, xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa yểu
tố xã hội và yếu tố sinh học trong nhân thân người phạm tội có nhiều quan
điểm khác nhau.
1.3.1. Quan điểm của tội phạm học tư sản.
23
Vốn không có một phương pháp luận thống nhất trong nghiên cứu tội
phạm học, các nhà tội phạm học tư sản có những quan niệm rất khác nhau về

vai trò của yếu tố xã hội và yếu tố sinh học trong nhân thân người phạm tội.
Các học thuyết sinh vật học coi yếu tố sinh học là cái quyết định sự
hình thành phát triển nhân cách, hệ thống nhu cầu, phẩm chất đạo đức, hành
vi ứng sử của con người. Bằng hàng loạt các kiến thức sinh vật học, nhân
chủng học, di truyền học, tâm thần học... các nhà tội phạm học tư sản theo
khuynh hướng này đã quy các nguyên nhân của tội phạm về các đặc điểm
sinh học trong nhân thân người phạm tội. Họ đã tuyệt đối hoá vai trò của sinh
học trong nhân thân con người, phủ nhận vai trò của các điều kiện, hoàn cảnh
xã hội trong quá trình hình thành nhân cách, hành vi ứng xử của con người.
Trái với các học thuyết sinh vật học tội phạm, các nhà tội phạm học tư
sản theo thuyết xã hội học tội phạm đã hạ thấp và trên thực tế gần như phủ
nhận vai trò các yếu tố sinh học trong nhân thân con người, coi con người
thuần tuý là sản phẩm của văn hoá, xã hội và kinh tế. E.Saterlend (Mỹ) coi tội
phạm là kết quả của quá trình “giáo dục” đối với các cá nhân ở các tiểu nhóm,
ở gia đình, trên đường phố... Ong cho rằng nhân tố “bắt chước làm theo” đòng
vai trò cơ bản trong việc hình thành nên tác phong hành động phạm tội của cá
nhân. Durkheim (Pháp) và những người theo thuyết chức năng coi con người
dường như chỉ là những thực thể thụ động là những cái máy vận hành theo
những vai trò mà xã hội đã định trước nhằm đảm bảo hài hoà có trật tự của xã
hội. Theo họ, xã hội sẽ hoạt động một cách bình thường trong “sự cố kết xã
hội” và được điều chỉnh bởi các quy phạm xã hội, mà trước hết là các quy
phạm pháp luật. Do vậy, chính trình trạng thiếu quy phạm hoặc quy phạm
không rõ ràng, không được thông tin đầy đủ sẽ làm cho con người mất
phương hướng, gây rối loạn chức năng xã hội (mất đi sự cố kết xã hội). Các
học thuyết khác như thuyết đô thị hoá, công nghiệp hoá, xung đột văn hoá...
24
đều coi yếu xã hội là cơ bản trong nhân thân người phạm tội, là nguyên nhân
chính gây ra tội phạm trong xã hội.
Ngoài ra, trong tội phạm học tư sản còn tồn tại các học thuyết nào thì
các nhà Tội phạm học tư sản vẫn chưa khám phá bản chất thực sự của con

người phạm tội, chưa chỉ ra được nguyên nhân đích thực dẫn đến hành vi
phạm tội của con người. Các quan điểm đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, suy cho
cùng điều nhằm các mục đích: che dấu sự bất bình đẳng giữa con người trong
xã hội tư bản, phủ nhận nguồn gốc, bản chất giai cấp của tội phạm; khẳng
định tội phạm và nguyên nhân của nó có trong ở mọi xã hội, xã hôị chỉ có thể
hạn chế chứ không thể loại trừ được tội phạm ra khỏi đời sống xã hội của
mình.
1.3.2 Quan điểm của tội phạm học xã hội chũ nghĩa
Tội phạm học xã hội chủ nghĩa đánh giá vai trò của các yếu tố xã hội và
sinh học trong nhân thân người phạm tội xuất phát từ quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về bản chất và quá trình hình thành, phát triển nhân cách
con người. Trong lịch sử của nền văn minh nhân loại, con người vừa là chủ
thể của xã hội lại vùa là chủ thể sinh học có mối quan hệ rất mật thiết và phức
tạp, trong đó sự tiến hoá sinh học tạo tiền đề cho tiến hoá xã hội, sự tiến hoá
xã hội quy định bản chất của con người. Trong mổi con người cụ thể luôn
luôn có sự thống nhất biện chứng giữa các yếu tố xã hội và sinh học. Yếu tố
xã hội quyết định, còn yếu tố sinh học alf điều kiện vâtỵ chất, tiền đề cho sự
hình thành, phát triển bản chất xã hội và nhân cách con người.
Như vậy giải thích nguyên nhân và điều kiện của tội phạm không chỉ
thuần tuý dựa vào yếu tố sinh học hay yếu tố xã hội trong nhân thân người
phạm tội, nhưng cũng không nên kết hợp 1 cách chiết trung cả 2 yếu tố đó.
“yếu tố sh và yếu tố xã hội không phải là song song tồn tại trong con người
mà là môi giới cho nhau, thân nhạp vào nhau và in dấu ấn lên toàn bộ hoạt
25
động của con người” (CNXH và nhân cách – NXB sách giáo khoa mác lênin,
HN 1983, Tr 26).
Tộ phạm học XHCN nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố xã hội và
không thừa nhận có hiện tượng bẩm sinh, di truyền tội phạm trong nhân thân
người phạm tội. Tội phạm là hiện tượng xã hội nên không thể giải thích bằng
các quy luật sinh học. Dĩ nhiên các đặc điểm thần kinh, các nét cơ bản của khí

chất, tính cáh có ảnh hưởng đến hành vi con người, nhưng đó không phải là
yếu tố quyết định. Con người sinh ra không phải để trở thành người phạm tội,
nhưng con người có thể trở thành người phạm tội. Tính cách có ảnh hưởng
đến hành vi con người, nhưng đó không phải là các yếu tố quyết định. Con
người sinh ra không phải để trở thành người phạm tội. Tính cách con người
không phải là phẩm chất bẩm sinh và bất biến, chúng được hình thành từ ảnh
hưởng của môi trường bên ngoài. Nhà sinh lý học người Nga Xểtênôp trong
công trình nghiên cứu “ phản xạ của nảo “ đã khẳng định: Lượng thần kinh
hoạt động của con người có tới 999/1000 sinh ra do sự giáo dục theo nghĩa
rộng của từ này, và chỉ 1/1000 phụ thuộc vào tính cá thể. Do đó, tội phạm học
XHCN tin tưởng rằng có thể giáo dục cải tạo người phạm tội, tội phạm không
phải là hiện tượng vĩnh hằng, nếu những nguyên nhân của tội phạm hoàn toàn
bị loại bỏ thì tội phạm cũng tiêu vong.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tội phạm học XHCN bỏ qua hay
coi nhẹ các yếu tố sinh học, nhất là các yếu tố có ý nghĩa trong việc hình
thành hành vi phạm tội. Khoa học ngày nay đã phát hiện sự liên quan của các
đặc điểm tâm sinh lý trong quá trình sống có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi
của con người và đóng vai trò như những điều kiện thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
hình thành một hành vi nào đó. Trong thực tế, có những hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội nhưng không phải là tội phạm như hành vi do người mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả

×