Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Bài giảng THỰC HÀNH dạy học môn GDCD ở TRƯỜNG THCS (dành cho sinh viên hệ cao đẳng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.96 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ,dành cho sinh viên hệ Cao đẳng)

THỰC HÀNH DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THCS
Tác giả: Th.s Lương Thị Lan Huệ

Năm 2017

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

CHƯƠNG 1 THIẾT KẾ BÀI DẠY HỌC VÀ THỰC HÀNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ...........................4
1.1 Quan niệm và các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD theo hướng đổi mới........4
1.2 Thực hành tổ chức dạy học môn giáo dục công dân ở trường THCS......................11
1.2.1 Thực hành các bước lên lớp..................................................................11
1.2.2 Thực hành trình bày bảng.....................................................................12
1.2.3 Thực hành kỹ năng thuyết trình............................................................12
CHƯƠNG 2 THỰC HÀNH DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THCS............16
2.1 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 6................................................................16.
2.2 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 7.................................................................16
2.3 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 8.................................................................16
2.4 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 9.................................................................16



2


LỜI NÓI ĐẦU

Tiếp nối giáo trình Lý luận và phương pháp dạy học GDCD ở trường THCS,
chúng tôi biên soạn cuốn: Thực hành dạy học môn GDCD ở trường THCS nhằm
giúp cho sinh viên có tài liệu để nghiên cứu, học tập tốt hơn học phần này.
Nội dung bài giảng đề cập đến các vấn đề trực tiếp của hoạt động dạy học
môn GDCD ở trên lớp, thực hành các kĩ năng sư phạm và vận dụng vào dạy học các
bài cụ thể. Hy vọng tài liệu sẽ đem lại cho sinh viên định hướng rèn luyện tốt hơn về
nghiệp vụ sư phạm. Tác giả rất mong các ý kiến phản hồi của sinh viên và giảng
viên để bài giảng hoàn thiện hơn.

Quảng Bình, tháng 6 năm 2017
Giảng viên

Lương Thị Lan Huệ

3


CHƯƠNG 1 THIẾT KẾ BÀI DẠY HỌC VÀ THỰC HÀNH TỔ CHỨC DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ (5LT; 10TH)
1.1 Quan niệm và các bước thiết kế bài dạy học môn GDCD theo hướng đổi
mới
Để thực hiện một bài lên lớp, công việc quan trọng đầu tiên của giáo viên là phải
tiến hành thiết kế bài dạy học. Thực hiện công việc này, bất kỳ giáo viên nào cũng tiến
hành một loạt công việc có liên quan chặt chẽ với nhau:

- Nghiên cứu nắm vững chương trình, nội dung sách giáo khoa và các tài liệu tham
khảo có liên quan đến bài dạy.
- Nắm vững nội dung bài dạy để xác định mục tiêu, lựa chọn kiến thức cơ bản,
trọng tâm.
- Nắm vững đối tượng (người học) để dự kiến cách thức tác động nhằm tạo hứng
thú, kích thích nhu cầu chiếm lĩnh tri thức của đối tượng.
- Xác định các hình thức tổ chức dạy học và phương pháp tổ chức dạy học thích
hợp.
- Xác định phương tiện mà giáo viên và học sinh cần phải chuẩn bị để thực hiện
bài dạy có hiệu quả.
- Xác định hình thức cũng cố kiến thức, vận dụng tri thức đã được học vào thực tế
cuộc sống hoặc tạo cơ sở để tiếp nhận kiến thức mới.
- Dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dạy và
cách xử lý thích hợp của giáo viên.
Kết quả cuối cùng của việc thiết kế bài dạy học bao gồm giáo án và toàn bộ những
suy nghĩ, ý định của giáo viên về quá trình dạy học sẽ diễn ra trong tiết dạy. Kết quả
thứ nhất được thể hiện rõ ràng ở ngay trên giấy; còn kế quả thứ hai thì lại thường
không thê hiện trên giấy mà nằm tiềm ẩn trong suy nghĩ, ý định của giáo viên.
Nói như thế cũng có nghĩa là, giữa giáo án và thiết bài dạy học tuy có nhiều điểm
tương đồng, nhưng không phải là một.
Giáo án chỉ là một trong những sản phẩm cụ thể của hoạt động thiết kế bài dạy học
được thể hiện một cách vật chất trước khi bài dạy học được thể hiện.
Điều này được thể hiện:
Tiê
Giáo án
Thiết kế bài học học
u chí
Về
Là một bài soạn cụ thể
Là sự tổ chức hoạt động nhiều

hìn
được trình bày bằng mặt, phức tạp, linh hoạt của giáo
h thức
những mục đề, câu chữ viên nhằm thể hiện những dự kiến
ngắn gọn, rõ ràng.
về tổ chức hoạt động của cả giáo
viên, học sinh và cách xư lí các tình
huống sư phạm của giáo viên

4


Về
nội
dung

Các đơn vị kiến thức
Thông qua việc tổ chức hoạt
được giáo viên sắp xếp, động dạy và học, một mặt học sinh
trình bày theo một lôgic nắm được các đơn vị kiến thức, mặt
chặt chẽ, một trình tự hợp khác làm bộc lộ những kĩ năng, sự
lí cùng với sự vận dụng hứng thú và thái độ tích cực của học
các phương pháp dạy học sinh khi chủ động giao tiếp nhận
và các thao tác tư duy làm những đơn vị kiến thức đó
rõ các đơn vị kiến thức đo
Đây chính là những dấu hiệu phân biệt giữa soạn giáo án và thiêt kế bài dạy học.
Do đó, việc thiết kế một bài dạy học sẽ tiêu tốn công thức, trí tuệ của người giáo viên
nhiều hơn so với việc soạn một giáo án.
Các bước thiết kế bài dạy học môn giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông
Việc thiết kế phương án dạy học từng đơn vị kiến thức cụ thể (từng bài học) phải

tuân theo một quy trình nhất định. Quy trình đó bao gồm những bước sau đây:
- Xác định mục tiêu dạy học: Học xong bài này học sinh có được cái gì?
- Xác định nội dung: Dạy cái gì?
- Xác định các phương pháp dạy học tương ứng với từng nội dung cụ thể và những
phương tiện dạy học cần thiết: Dạy như thế nào?
- Xác định hình thức tổ chức dạy học cụ thể.
- Xác định mục tiêu dạy học cụ thể
* Sự cần thiết phải xác định mục tiêu dạy học
Mục tiêu là cái đích cần đạt tới sau mỗi bài học, do chính giáo viên đề ra và phải
thực hiện để đạt được. Để đạt được mục tiêu dạy học, chúng ta cần phải thiết kế
phương án dạy học thích hợp cho từng nội dung cụ thể. Phương án đó phải thể hiện rõ
vai trò của thầy giáo trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động học tập của học sinh và vai
trò của học sinh trong việc tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo tìm kiếm và thu nhận
tri thức. Vì vậy, muốn thiết kế được phương án dạy học cho từng bài học cụ thể trước
hết là thầy giáo cần phải xác định rõ mục tiêu của tiết học. Để xác định mục tiêu từng
bài học thầy giáo cần suy nghĩ để trả lời các câu hỏi sau:
- Qua bài học cần trang bị cho học sinh kiến thức gì?
- Bài học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh các thao tác tư duy nào?
- Qua bài học có thể góp phần giáo dục học sinh như thế nào?
- Bằng con đường nào để học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng trong bài
học?
- Các biện pháp cần thiết nào để chỉ đạo và tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh, đảm bảo cho học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kĩ năng cần thiết một cách sâu
sắc, vững chắc?
- Các kết quả sau khi học mà học sinh cần hiểu là gì? (xác định đầu ra)
Để có thể trả lời các câu hỏi trên một cách có cơ sở khoa học đòi hỏi thầy giáo phải
nghiên cứu nội dung bài dạy một cách sâu sắc, nhằm nắm được các yếu tố nội dung
5



của bài học và logic hình thành chúng. Đồng thời thiết kế được tiến trình dạy học cụ
thể, trong đó thể hiện được vai trò của thầy giáo là người tổ chức điều khiển, định
hướng hoạt động học tập của học sinh và thể chế hóa kiến thức, nhằm phát huy tính
tích cực tự lực và sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm kiếm và chiếm lĩnh kiến
thức.
- Mục tiêu dạy học
Mục tiêu dạy học được thể hiện trên ba mặt, đó là: Kiến thức, kĩ năng và thái độ,
tình cảm và tác phong.
* Mục tiêu kiến thức
Về mục tiêu kiến thức được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau, thông thường thì
người ta phân loại mức độ nhận thức của học sinh theo các cấp độ sau:
- Biết: Ghi nhớ, nhận biết (sắp xếp, liệt kê, nhận biết, nhận dạng, lặp lại, trình…)
- Hiểu: hiểu và diễn giảng (so sánh phân lại, mô tả, giải thích, diễn giải…).
- Vận dụng: chuyển tải kiến thức vào tình huống mới, chuyển từ sự việc này
sang sự việc khác (áp dụng, phân loại, chứng minh, minh họa,..)
- Phân tích: Xác định các thành phần và xác lập mối quan hệ (nhận biết các bộ
phận khác nhau của một tổng thể, so sánh, phân tích, đối chiếu, phân loại…)
- Tổng hợp: Gộp các thành phần khác nhau thành một sự vật tổng thể nguyên
vẹn có thể có (sắp xếp, thu thập, so sánh, thiết lập, phát triển…)
- Đánh giá: định giá, nhận xét, đưa ra những ý kiến về một vấn đề (tranh luận,
phê bình, đánh giá, so sánh, xét đoán…)
* Mục tiêu kĩ năng
Những kĩ năng cần rèn luyện và hình thành ở học sinh qua dạy học môn GDCD
ở trường THCS là:
- Các kĩ năng về thu lượm thông tin.
- Các kĩ năng xử lí thông tin.
- Các kĩ năng truyền đạt thông tin.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức.
* Mục tiêu thái độ
Trong quá trình dạy học GDCD cần chú ý bồi dưỡng cho học sinh những tình

cảm, thái độ mà môn GDCD có ưu thế. Đó là
- Sự hứng thú học tập môn giáo dục công dân.
- Ý thức sẳn sang áp dụng những hiểu biết của mình vào các hoạt động trong gia
đình và xã hội.
- Tác phong làm việc khoa học, cẩn thận, tỉ mỉ.
- Tính trung thực trong khoa học.
- Tinh thần nổ lực phân đấu cá nhân, kết hợp chặt chẽ với tinh thần hợp tác trong
học tập và nghiên cứu. Ý thức tự học cũng như học hỏi người khác.
- Thế giới quan và nhân sinh quan khoa học.
* Cách xác định mục tiêu
6


Căn cứ để xác định mục tiêu bài học là phải dựa vào nhiệm vụ dạy học bộ môn,
nội dung chương trình sách giáo khoa, tìm hiểu tài liệu tham khảo, trao đổi với đồng
nghiệp để nắm được nội dung của từng phần trong bài dạy, hiểu được ý đồ của sách
giáo khoa nhằm xác định được cái cần đạt tới, cái mà học sinh phải có về mặt kiến
thức, kĩ năng và thái độ, tác phong và tình cảm sau khi học xong từng phần của bài
học và toàn bài học.
Việc xác định mục tiêu bài học càng rõ rang và cụ thể bao nhiêu thì việc thiết kế
bài học càng thuận lợi bấy nhiêu. Điều đó sẽ có tác dụng góp phần đảm bảo cho
việc nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
- Xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm
* Lưa chọn các đơn vị kiến thức cơ bản
Biết lựa chọn kiến thức là kĩ năng đầu tiên của mọi giáo viên.
- Kiến thức cơ bản là những kiến thức phản ánh bản chất của sự vật, hiện tượng.
Trong môn giáo dục công dân ở THPT, kiến thức cơ bản là những khái niệm, hệ
thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật, các nguyên lý về sự vật, hiện
tượng và sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan (tự
nhiên, xã hội và con người…)

Kiến thức cơ bản của môn giáo dục công dân có đặc điểm sau:
- Mang tính chất trừu tượng hóa, khái quát hóa rất cao được thể hiện trước hết
bằng các khái niệm, phạm trù….Có những khái niệm, phạm trù tuy cùng chung
hình thức biểu hiện, nhưng nội dung lại khác nhau (đặc biệt là ở khối kiến thức triết
học).
- Giảng dạy các đơn vị kiến thức cơ bản môn giáo dục công dân, trước hết phải
làm rõ nội dung các khái niệm, phạm trù, nguyên lí…cấu thành đơn vị kiến thức đó.
- Luôn luôn gắn với thực tế khách quan đa dạng, phong phú, sống động.
- Luôn luôn tồn tại trong các mối quan hệ chặt chẽ ở từng khối kiến thức và giữa
các khối lượng kiến thức (triết học, đạo đức học, kinh tế, chính trị - xã hội, pháp
luật..)
- Lựa chọn đúng các kiến thức cơ bản của một bài dạy học là một công việc
không hề đơn giản. Do đó để thực hiện có hiệu quả, giáo viên cần chú ý các điểm
sau đây:
Một là, Nắm vững tính đặc thù tri thức và nhiệm vụ của môn giáo dục công dân
ở THCS.
Môn GDCD là một môn học thuộc khoa học xã hội – nhân văn. Kiến thức cần
trang bị cho học sinh của môn học này là kiến thức của nhiều môn khoa học xã hội
chuyên ngành luật, giáo dục gia đình, những vấn đề thời đại.... Thông qua hệ thống
các đơn vị kiến thức này, môn học có nhiệm vụ hình thành thế giới quan duy vật
biện chứng, phương pháp tư duy khoa học và nhân sinh quan đúng đắn, tích cực cho
học sinh.
Do tính tổng hợp cao của các khối lượng kiến thức, môn GDCD sử dụng các tri
7


thức của môn học khác phục vụ cho bài dạy GDCD là một việc làm tất yếu. Nhưng
sử dụng các kiến thức ấy đến mức độ nào để làm rõ nội dung bài GDCD mà không
lấn sang các môn học khác, không “sa đà” vào những câu chuyện cụ thể, vụn vặt
con tùy thuộc vào tay nghề, trình độ của giáo viên.

Hai là, năm vững chương trình và nội dung sách giáo khoa GDCD.
Chương trình là pháp lệnh cần phải tuân theo, còn sách giáo khoa là tài liệu
giảng dạy và học tập bắt buộc (vì nó chứa đựng kiến thức cơ bản, chủ yếu, thống
nhất trong phạm vi cả nước). Chọn kiến thức cơ bản là chọn kiến thức trong sách
giáo khoa.
Để nắng vững chương trình và sách giáo khoa, một mặt giáo viên phải nắm vững
nội dung từng chương, từng bài; mặt khác, lại phải nắm vững tính tổng thể của toàn
bộ chương trình và quan hệ giữa các chương, bài. Chỉ có như vậy giáo viên mới xác
định đúng đắn những đơn vị kiến thức, những khái niệm, phạm trù…cần đi sâu, cần
bổ sung, lược bớt…mà không làm ảnh hưởng đến chuẩn kiến thức hoặc tỉ lệ thống
nhất của các đơn vị kiến thức.
Trong thực tế, để xác định kiến thức cơ bản của mỗi bài, giáo viên còn phải tham
khảo tài liệu, sách báo, các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, các câu hỏi và bài
tập trong bài, cuối bài…Điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu giáo viên phải hiểu biết
sâu sắc nhiều vấn đề liên quan đến nội dung bài dạy học.
Ba là, nắm vững đối tượng (học sinh)
Tuy kiến thức sách giáo khoa là kiến thức chuẩn cho từng cấp học, bậc học, lớp
học, nhưng trình độ học sinh lại không thể đồng đều ở mọi lớp, mọi vùng miền. Do
đó giáo viên phải nắm vững đối tượng để cân nhắc lựa chọn kiến thức cơ bản sao
cho vừa sức của học sinh.
Quy trình lựa chọn kiến thức cơ bản
- Tìm mục tiêu của bài dạy học và của từng phần trong bài.
- Xác định nội dung cơ bản của từng bài, từng phần trong bài với các khái niệm
(hệ thống các khái niệm), các mối quan hệ, các quy luật, các hiện tượng tiểu biểu.
- Xác định kiến thức trọng tâm của bài (là một bộ phận của kiến thức cơ bản
nhưng có vị trí then chốt, có vai trò chi phối các đơn vị kiến thức khác). Nắm vững
kiến thức trọng tâm thì có thể tạo cơ sở để hiểu các đơn vị kiến thức khác trong bài,
nhưng cũng có thể nằm xen kẽ ở các mục khác nhau của bài.
- Trong quá trình xác định kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài, giáo viên có thể
sắp xếp lại cấu trúc của bài nhằm làm nổi bật các mối quan hệ giữa các đơn vị kiến

thức, làm rõ them trọng tâm, trọng điểm của bài. Đây là một việc làm cần thiết,
nhưng không phải xảy ra ở tất cả các bài. Việc cấu trúc lại bài học cũng phải bảo
đảm nguyên tắc không được phá vở tính logic chặt chẽ của bài mà các tác giả sách
giáo khoa đã có ý thức xây dựng một cách công phu.
Chọn được kiến thức cơ bản mới chỉ là bước đầu tiên của dạy học (giai đoạn
chuẩn bị bài với câu hỏi “dạy cái gì”?). Bước tiếp theo là phải lựa chọn phương
8


pháp, xác định các hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm tổ chức cho học sinh
lĩnh hội, vận dụng các đơn vị kiến thức cơ bản ấy đạt hiệu quả tốt nhất có thể (“dạy
như thế nào”?).
- Xác định phương pháp dạy học
Để lựa chọn PPDH thích hợp đối với bài dạy học, giáo viên thường dựa vào các
cơ sở sau đây.
Một là: căn cứ vào mục tiêu của bài học
Mỗi bài, tùy theo mục tiêu, có thể được tiến hành bằng một phương pháp dạy
học nhất định.
Hai là, căn cứ vào nội dung của bài dạy
Về mặt nguyên tắc: đối tượng (nội dung) khác nhau thì phương pháp tiến cận
cũng khác nhau. Đối tượng thay đổi thì phương pháp cũng thay phải đổi.
Do đó, không có phương pháp dạy học nào thích hợp với tất cả mọi nội dung
dạy học. Vì thế xác định phương pháp dạy học phải căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng bài dạy, từng đối tượng tiếp nhận (lớp dạy).
Ba là, căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức
Quá trình nhận thức, về cơ bản, thường có ba giai đoạn: “tiếp nhận thông tin”,
“xử lý thông tin”, “vận dụng thông tin”. Mỗi giai đoạn ấy có thể tương ứng với
những phương pháp dạy học nhất định: phương pháp dạy học để tổ chức cho học
sinh tiếp nhận tri thức mới sẽ khác với phương pháp dạy học để ôn tập, củng cố
hoặc thực hiện bài tập thực hành. Ngay trong bài dạy mới, các bước tiến hành cũng

có những phương pháp dạy học khác nhau (phương pháp “vào bài”, phương pháp
triển khai các đơn vị kiến thức mới, phương pháp củng cố, hệ thống hóa kiến thức,
phương pháp hướng dẫn hoạt động nối tiếp..).
Bốn là, căn cứ vào đối tượng học sinh
Dạy học sát với đối tượng, bảo đảm tính vừa sức cũng là một cơ sở để giáo viên
lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Điều này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững
trình độ, năng lực của học sinh về kiến thức, kĩ năng; về đặc điểm tư duy, tâm - sinh
lý lứa tuổi; về vón kiến thức thực tế tích lũy được qua cuộc sống; về thói quan trong
học tập…Chỉ trên cơ sở đó, giáo viên mới dự kiến sử dụng phương pháp dạy học.
Chẳng hạn như: tài liệu, phương tiện dạy học, số lượng học sinh, thời gian, địa điểm
(không gian)..
Sáu là, căn cứ vào năng lực, tay nghề của giáo viên
Phương pháp và việc lựa chọn phương pháp vừa có tính khách quan lại vừa có
tính chủ quan. Lựa chọn phương pháp nào để đạt hiệu quả tốt nhất, phần lớn phụ
thuộc vào năng lực, kinh nghiệm, thói quen sử dụng của giáo viên. Thông thường,
khi thiết kế bài dạy học, để xác định các phương pháp dạy học thích hợp, giáo viên
nào cũng tự đưa ra những câu trả lời cho một loạt câu hỏi có tính lựa chọn, chẳng
hạn:
Tại sao lựa chọn phương pháp dạy học này? Nó sẽ có những thuận lợi và khó
9


khăn gì đối với giáo viên khi tổ chức cho học sinh lĩnh hội và vận dụng tri thức?
học sinh thuận lợi hay khó khăn khi giáo viên sử dụng phương pháp dạy học đó?
Phương pháp dạy học đó có phù hợp với việc thực hiện mục tiêu và nội dung bài
dạy không. Có tạo được hứng thú, nhẹ nhàng đối với học sinh hay làm cho tình hình
trở nên phức tạp, nặng nề?
Phương pháp dạy học đó có thể phát huy tính tích cực của học sinh chưa? Có
phù hợp với trình độ, năng lực của học sinh không? Nó có thể đòi hỏi và tạo điều
kiện để học sinh hình thành những kĩ năng thích hợp hay chưa? Nó đòi hỏi ở học

sinh vốn kiến thức gì? ở mức độ nào?
Điều kiện vật chất có đáp ứng được việc thực hiện phương pháp dạy học đó
không? Có phương pháp nào tốt hơn phương pháp dạy học này không?
Phương pháp đó có thể kết hợp được với phương pháp dạy học nào để đạt được
mục tiêu của bài dạy một cách tốt nhất? Phát huy được tính chủ động, tích cực, sáng
tạo của học sinh nhiều nhất?
Lựa chọn phương pháp dạy học nào, thì điều quan trọng nhất chính là ở chỗ,
phương pháp dạy học phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp, môn học; bồi dưỡng phương pháp
tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
- Xác định các hình thức tổ chức dạy học
Lựa chọn hình thức tổ chức dạy học nào thích hợp nhất tùy thuộc vào nhiều yếu
tố (mục tiêu, nội dung, đối tượng học sinh, điều kiện thời gian, phương tiện và
phương pháp dạy học…)
Thường thì đối với những nội dung không quá khó, vừa sức, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh học cá nhân với sách giáo khoa để nắm kiến thức, làm bài tập, trả
lời các cấu hỏi..
Đối với những nội dung có nhiều vấn đề mà một cá nhân không thể giải quyết
thấu đáo thì có thể tổ chức làm việc theo nhóm nhỏ.
Đối với những vấn đề có thể gây ra những cách hiểu khác nhau, thì có thể tổ
chức học cả lớp (để tranh luận, thảo luận nhằm tìm được tiếng nói thống nhất). Cả
lớp là một nhóm, chỉ nên sử dụng hạn chế, với thời gian ngắn để giải quyết một vấn
đề cần thiết, vì đây là hình thức tổ chức dạy học ít phát huy được tính tích cực học
tập của nhiều sinh viên, và tạo sự ỷ lại của một bộ phận học sinh trong lớp.
- Xác định phương tiện dạy học
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã đem đến cho xã hội nói chung và nhà
trường nói riêng nhiều phương tiện rất tiện ích. Nó giúp cho giáo viên tối ưu hóa
quá trình dạy học. Tuy nhiên, để có thể khai thác tốt hiệu quả của các phương tiện
dạy học, chúng ta cần phải lựa chọn và sử dụng các phương tiện dạy học một cách

hợp lí, tránh sự lạm dụng trong việc khai thác và sử dụng hợp lí các phương tiện
dạy học cần phải căn cứ vào mục tiêu bài học, nội dung cụ thể của từng bài cũng
10


như các phương pháp dạy học mà giáo viên sẽ sử dụng.
Giáo dục công dân là một môn học tiềm năng về hệ thống các phương tiện dạy
học phong phú và đa dạng. Bởi vậy, việc lựa chọn và sử dụng các thiết bị và
phương tiện dạy học càng cần phải được quan tâm đúng mức. Đối với giáo viên
giảng dạy môn giáo dục công dân, để chủ động trong việc lựa chọn, khai thác và sử
dụng các phương tiện dạy học nên tạo cho mình kho tư liệu riêng.
Trong dạy học môn công nghệ người ta có thể khai thác và sử dụng các phương
tiện dạy học truyền thống, như: bảng, tài liệu sách giáo khoa, các vật thật, các mô
hình, cũng có thể sử dụng các phương tiện trực quan, các phương tiện nghe nhìn
hiện đại. Hoặc có thể sử dụng kết hợp các phương tiện trực quan truyền thống và
các phương tiện trực quan hiện đại.
- Xác định hình thức cũng cố, đánh giá và tập trung vận dụng tri thức của học
sinh
Ở bước này, trong thực tế, giáo viên có nhiều cách thực hiện:
Có giáo viên nhắc lại các mục đề của bài học.
Có giáo viên nhắc lại những nội dung chính, cơ bản của bài và yêu cầu học sinh
cần học ở nhà nội dung nào, làm những bài tập gì, cần chuẩn bị gì cho tiết học
sau…
Những hình thức này thường không mang lại hiệu quả, bởi vì:
- Học sinh không nhận được cái gì mới hơn.
- Buộc học sinh phải ghi nhớ (thậm chí phải ghi nhớ máy móc) những kiến thức
vừa mới học.
- Giáo viên không đánh giá được mức độ hiểu và khả năng vận dụng của học
sinh.
- Không tạo được thái độ tích cực của học sinh (học sinh thờ ơ, không chú ý, ồn

ào, vô cảm…)
- Đôi khi đó còn là biểu hiện của sự cẩu thả đối với nghề, thái độ vô trách nhiệm
đối với học sinh, hời hợt đối với bài dạy.
Thông thường, việc củng cố, đánh giá được tiến hành khi kết thúc phần “tổ chức
lĩnh hội tri thức mới” nhằm xem xét mục tiêu bài dạy đã đạt được chưa? Đạt ở mức
độ nào?..Do đó có nhiều cách khác nhau để thực hiện bước này. Yêu cầu cơ bản của
việc củng cố, đánh giá là phải dựa vào mục tiêu của bài học, nhằm vào kiến thức cơ
bản, trọng tâm của bài. Vì vậy hình thức cũng cố đánh giá (bằng câu hỏi, bài tập
tình huống..) đều phải tập trung vào nội dung này, một mặt giúp học sinh nắm vững
và vận dụng được tri thức; mặt khác, qua đó giáo viên biết được học sinh đã hiểu và
có khả năng vận dụng được hay không.
1.2 Thực hành tổ chức dạy học môn giáo dục công dân ở trường THCS
1.2.1 Thực hành các bước lên lớp
Lên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên nhằm thực hiện giáo án, kế hoạch,

11


chương trình đã chuẩn bị trước một tập thể học sinh nhất định. Nó là sự thể hiện chủ
động, linh hoạt, sáng tạo giáo án của giáo viên. Tài năng và tinh thần trách nhiệm của
giáo viên biểu hiện rõ rệt trong các giờ lên lớp.
Trên lớp giáo viên phải vận dụng các phương pháp, thủ thuật, phương tiện dạy học
để truyền thụ nội dung tri thức, tổ chức dạy học một cách có hiệu quả nhất. Giáo viên
không nên lạm dụng phương pháp thuyết trình mà phải tổ chức các hoạt động khác để
phát huy tính chủ động, tích cực tham gia học tập của học sinh.
Muốn lên lớp tốt giáo viên phải nắm vững, nhuần nhuyễn giáo án. Càng nắm vững
giáo án giáo viên càng có điều kiện linh hoạt và sáng tạo, tự tin trong giảng dạy.
Giáo viên phải biết phát huy vai trò chủ đạo của mình, vai trò chủ động, tích cực
của học sinh. Giáo viên phải nắm chắc tình hình mọi mặt của lớp, xử lí linh hoạt các
tình huống sư phạm xảy ra trong giờ lên lớp. Giáo viên phải có tác phong mô phạm,

lời nói phải chỉnh chu, trong sáng, mạch lạc. Đặc biệt nên giành nhiều thời gian cho
việc truyền thụ tri thức mới và tìm hiểu sự tiếp thu kiến thức của học sinh.
Sau khi lên lớp, giáo viên nên rút ra kinh nghiệm của giờ lên lớp, bổ sung, hoàn
chỉnh giáo án (nếu thấy cần thiết). Trong khi rút kinh nghiệm nên đi sâu vào phương
pháp truyền thụ kiến thức của thầy, kết quả lĩnh hội tri thức của trò, những kiến thức
cần được khắc sâu thêm trong những giờ lên lớp sau, những kiến thức cần bổ sung
cho giờ lên lớp hoàn chỉnh, những thiếu sót không đáng có cần khắc phục.
1.2.2 Thực hành trình bày bảng
Giảng viên tổ chức cho sinh viên thực hành viết bảng. Mỗi sinh viên thực
hành không quá 5 phút.
Yêu cầu : Hình thức trình bày khoa học, có chia bảng chính, bảng phụ. Bảng
chính để ghi các nội dung bài dạy của giáo viên, bảng phụ ghi ví dụ, hoặc hoạt động
của sinh viên.
1.2.3 Thực hành kỹ năng thuyết trình
Thuyết trình là một phương pháp dạy học trong đó giáo viên dùng lời nói sinh
động, thuyết phục để truyền thụ hệ thống tri thức cho học sinh theo chủ đích nhất
định, nhờ vậy học sinh tiếp thu bài giảng một cách có ý thức.
12


Đây là một phương pháp dạy học truyền thống được ví bằng hình ảnh rót
nước vào bình. Giáo viên là người rót những kiến thức vào chiếc bình là các học
sinh. Phương pháp thuyết trình có lẽ là một trong những phương pháp lâu đời nhất
và cũng là một phương pháp quen thuộc nhất đối với tất cả các giáo viên. Tại sao
phương pháp này lại được sử dụng rộng rãi trong một thời gian dài như vậy, chúng
ta hãy tìm hiểu một số tác dụng của phương pháp thuyết trình.
- Phương pháp thuyết trình là tối ưu để truyền đạt một khối lượng kiến thức
lớn trong một thời gian ngắn. Đối với môn giáo dục công có tính đặc thù là mang
tính lý luận, trừu tượng cao do đó, giáo viên thường lựa chọn phương pháp này để
phaan tích, giảng giải cho học sinh hiểu.

- Giáo viên hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình do đó phương pháp
thuyết trình giảm bớt những khó khăn, thời gian cho giáo viên trong công việc chuẩn
bị, tiết kiệm chi phí, công sức cho giáo viên. Một bài giảng có thể sử dụng trong
nhiều năm.
Điều mà các giáo viên dễ dàng nhận thấy khi thuyết trình trong một thời gian
dài sẽ làm cho học sinh cảm thấy mệt mỏi vì phải chăm chú lắng nghe mà không
được chủ động tham gia vào bài học. Chính giáo viên cũng cảm thấy căng thẳng,
mệt mỏi do áp lực về thời gian và nội dung cần chuyển tải cho học sinh. Thực tế, các
học sinh không thể nhớ hết được các nội dung giáo viên trình bày vì các em không
có cơ hội chia sẻ, đóng góp những kinh nghiệm của mình. Như vậy nếu chỉ áp dụng
phương pháp thuyết trình trong một tiết dạy rõ ràng chất lượng dạy học sẽ không
cao. Vậy có nên tiếp tục sử dụng phương pháp thuyết trình vào dạy học môn Giáo
dục côgn dân?
Cần khẳng định rằng, không thể loại bỏ phương pháp thuyết trình bởi vì
phương pháp thuyết trình là một phương pháp cơ bản để truyền đạt kiến thức, cung
cấp thông tin. Giáo viên cần kết hợp linh hoạt phương pháp thuyết trình với các

13


phương pháp dạy học tích cực khác như đóng vai, thảo luận, tình huống để nâng cao
hiệu quả dạy học.
Các bước tiến hành phương pháp thuyết trình
Bước 1: Chuẩn bị cho thuyết trình
Phương pháp thuyết trình có những ưu điểm riêng của mình, để tận dụng tối
đa ưu điểm đòi hỏi sự chuẩn bị công phu của giáo viên.
Giáo viên phải hiểu biết đối tượng người học nhất là xác định những nhu cầu,
mong đợi của người học đối với nội dung bài dạy. Giáo viên cần ghi nhớ rằng, học
sinh có kiến thức, kinh nghiệm, tâm tư, tình cảm riêng, có giới hạn về tâm sinh lý.
Các em thường có khả năng tập trung trong khoảng 20 đến 30 phút đầu. Nếu sau đó

giáo viên vẫn tiếp tục thuyết trình sẽ dẫn đén không khí lớp học rất nặng nề, học sinh
chán nản, mệt mỏi.
Giáo viên phải xác định được mục tiêu của bài học điều này sẽ giúp cho giáo
viên xác định được những nội dung trọng tâm và thúc đẩy sự quan tâm của học sinh
vào nội dung cơ bản cũng như sắp xếp bài dạy một cách logic, khoa học.
Giáo viên cần tính đến những kiến thức và kinh nghiệm mà học sinh đã có để
có thể loại bỏ những kiến thức không cần thiết. Giáo viên nên chuẩn bị câu hỏi để
tìm hiểu những hiểu biết và kinh nghiệm của học sinh về nội dung bài dạy.
Giáo viên cần chuẩn bị các phương tiện dạy học hỗ trợ, Các nhà giáo dục học
cho rằng, con người ghi nhớ thông tin qua nghe là 20%, qua đọc là 30% nhưng qua
nghe và trực quan hóa là 50%. Nếu sử dụng phương pháp thuyết trình mà không sử
dụng phương tiện hỗ trợ chỉ có thầy nói- trò nghe sẽ khiến học sinh gặp khó khăn
trong việc tập trung và ghi nhớ thông tin. Có rất nhiều phương tiện giảng dạy để bổ
trợ cho bài dạy của giáo viên đạt hiệu quả như sơ đồ, tranh, ảnh, phim, đồ vật...Nên
lưu ý rằng các phương tiện sử dụng trong dạy học pahir phù hợp với mục tiêu, nội
dung, phương pháp giảng dạy và điều kiện của lớp học. Không sử dụng phương tiện

14


giảng dạy để trình diễn, trang trí. Các phương tiện sử dụng trong dạy học phải đảm
bảo yêu cầu là các học sinh có thể nghe, nhìn thấy rõ.
Bước 2: Thực hiện thuyết trình
Khi bắt đầu bài dạy giáo viên nên có hoạt động khởi động thu hút sự chú ý
của học sinh. Giáo viên có thể bắt đầu bằng trò chơi, câu chuyện, câu hỏi hài hước
để tạo không khí học tập vui vẻ, tích cực giữa các thành viên nhóm. Các hoạt động
này phải hướng tới mục tiêu bài giảng chứ không chỉ đơn thuần là trò chơi.Một khởi
đầu tốt đẹp sẽ tạo môi trường học tập tích cực, tin cậy giữa giáo viên và học sinh.
Nếu bước khởi đầu không thành công, ấn tượng không tốt đẹp sẽ khó khăn trong
việc thay đổi ấn tượng đó.

Khi trình bày, giáo viên chú ý đến các yếu tố như phong thái, tâm thế, trang
phục....Đặc biệt, giáo viên phảo trình bài mạch lạc, ngôn ngữ trong sáng, trôi chảy,
có điểm nhấn. Âm lượng (lời nói) phải to, rõ ràng đủ cho tất cả học sinh ngồi ở các
góc khác nhau của lớp học có thể nghe rõ tiếng. Đi kèm với giọng nói là phải sử
dụng kỹ năng giao tiếp phi ngôn từ như ánh mắt, điệu bộ, cử động chân tay, sự di
chuyển...tất cả những yếu tố đó có sức gợi cảm rất lớn.
Ngoài ra, trang phục của giáo viên cũng đóng vai trò cũng đóng vai trò không
nhỏ trong dạy học. giáo viên nên chọn những bộ trang phục kín đáo, lịch sự, tác
phong mô phạm.Trong quá trình giảng luôn chú ý giao tiếp bằng mắt với cả lớp.
Điều này sẽ giúp giáo viên bao quát được lớp học và thu hút được sự chú ý của học
sinh. Để tạo sự thay đổi, trong quá trình giảng bài giáo viên không nên đứng một vị
trí nhất định mà nên có sự di chuyển hợp lý. Sau mỗi nội dung bài học giáo viên nên
có tóm tắt và dành thời gian để cũng cố kiến thức mình vừa trình bày đồng thời kiểm
tra xem học sinh đã đạt được gì qua bài giảng. Giáo viên không bao giờ được quên
tổng kết lại toàn bài vì vào cuối bài giảng là thời điểm các học sinh ghi nhớ lâu nhất.
giáo viên nên gọi ngẫu nhiên một số học sinh trả lời hoặc yêu cầu học sinh tóm tắt
lại bài học.
15


CHƯƠNG 2 THỰC HÀNH DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THCS (5LT25TH)
2.1 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 6
Chia nhóm thực hành dạy học môn GDCD lớp 6.
Yêu cầu : Sinh viên hoàn thành giáo án trước lúc lên lớp.
Sinh viên chuẩn bị các phương tiện dạy học đầy đủ.
2.2 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 7
Chia nhóm thực hành dạy học môn GDCD lớp 7.
Yêu cầu : Sinh viên hoàn thành giáo án trước lúc lên lớp.
Sinh viên chuẩn bị các phương tiện dạy học đầy đủ.
2.3 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 8

Chia nhóm thực hành dạy học môn GDCD lớp 8
Yêu cầu : Sinh viên hoàn thành giáo án trước lúc lên lớp.
Sinh viên chuẩn bị các phương tiện dạy học đầy đủ.
2.4 Thực hành dạy học môn GDCD lớp 9
Chia nhóm thực hành dạy học môn GDCD lớp 9.
Yêu cầu : Sinh viên hoàn thành giáo án trước lúc lên lớp.
Sinh viên chuẩn bị các phương tiện dạy học đầy đủ.

NỘI DUNG ÔN TẬP KIỂM TRA THƯỜNG XUYÊN VÀ
THI KẾT THÚC HỌC PHẦN

16


Câu 1: Vị trí,đặc điểm của môn GDCD ở trường THCS
Câu 2:Những điểm mới của chương trình môn GDCD ở trường THCS.
Câu 3:Thực trạng dạy học môn GDCD ở trường THCS
Câu 4: Đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD hiện nay và một số yêu cầu đối
với giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học môn GDCD.
Câu 5: Kỹ năng dạy học tích hợp và phân hóa trong dạy học môn GDCD ở trường
THCS
Câu 6: Những nguyên tắc cơ bản trong dạy học môn GDCD ở trường THCS
Câu 7: Một số phương pháp dạy học kích thích tính tích cực học tập của học sinh đối
với môn GDCD
Câu 8:Các hình thức kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn GDCD ở trường THCS
Câu 9:Thiết kế các đề kiểm tra trong dạy học môn GDCD ở trường THCS
Câu 10: Soạn giáo án và thực hành giảng dạy

Tài liệu tham khảo


17


1. Sách giáo khoa Đạo đức (Lớp 1, 2, 3, 4, 5), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,
năm 2010.
2. Hà Nhật Thăng (chủ biên) Đạo đức và phương pháp giảng dạy, Nhà xuất
bản giáo dục, năm 2001.
3.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy sách giáo khoa Tiểu học môn đạo đức.
4.Tài liệu đổi mới phương pháp giảng dạy,Trường Đại học New England,
Australia, năm 2007.
5. Thiết kế bài giảng Đạo đức ở Tiểu học, Nxb Giáo dục, 2010

18



×