VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỮU TIẾN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP
CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƢ KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO, KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, Năm 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỮU TIẾN
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP
CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƢ KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO, KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành
: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 60.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC
HÀ NỘI, Năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Các thông tin, tài liệu trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Tiến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN
THƢ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH .......................... 9
1.1. Quan niệm về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh ............................................................................................................ 9
1.2. Khái quát về lịch sử pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh ở nước ta ...................................................... 16
1.3. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp
công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các cơ
quan hành chính ở địa phương ........................................................................ 22
1.4. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các cơ quan hành chính ở địa
phương ............................................................................................................. 25
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công
dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các cơ quan
hành chính ở địa phương ................................................................................. 42
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TIẾP CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƢ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KIẾN
NGHỊ, PHẢN ÁNH TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................. 47
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng có liên
quan đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh ............................................................. 47
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại thành phố Đà Nẵng ....................... 48
2.3. Những ưu điểm và hạn chế, bất cập trong việc tổ chức thực hiện pháp luật
về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh...... 53
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TỔ
CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ
ĐƠN THƢ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................................... 65
3.1. Nhu cầu nâng cao tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
......................................................................................................................... 65
3.2. Phương hướng nâng cao tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................ 66
3.3. Các giải pháp nâng cao tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng ................................................................................................................ 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
KNTC
: Khiếu nại tố cáo
UBND
: Ủy ban nhân dân
UBMTTQ
: Ủy ban mặt trận tổ quốc
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tăng cường sự gắn bó giữa người dân đối với Đảng và Nhà nước, cần
phải thực hiện tốt việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo, kiến nghị,
phản ánh của người dân. Đây là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ
thống quản lý Nhà nước và điều hành xã hội. Làm tốt các công tác này sẽ góp
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát
triển, làm củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Hoạt động tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, thời gian qua Nhà nước ta
đã ban hành nhiều văn bản để điều chỉnh các lĩnh vực này, cụ thể: Luật khiếu
nại, Luật Tố cáo đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 11/11/2011 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2012; Luật Tiếp công dân đã được Quốc hội
khóa XIII thông qua ngày 25/11/2013 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2014. Đây
là những văn bản pháp lý quan trọng, đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Thể chế hóa
các quy định của luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thanh tra
Chính phủ trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình cũng đã ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành nhằm đưa luật vào cuộc sống.
Việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh luôn được Thủ trưởng các cấp, các ngành
thành phố Đà Nẵng quan tâm. Việc tổ chức tiếp công dân được phối hợp với
quy trình cải cách thủ tục hành chính nên ngày càng đi vào nề nếp và hiệu
quả. Các Trụ sở tiếp công dân, phòng tiếp công dân đều được bố trí cán bộ có
năng lực, am hiểu chính sách pháp luật làm công tác tiếp công dân. Ngoài
1
việc tiếp công dân thường xuyên theo định kỳ, lãnh đạo các địa phương, đơn
vị đã tổ chức tiếp công dân có yêu cầu đột xuất.
Tuy nhiên qua việc tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị phản ánh thời gian qua vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục, đó
là: Lãnh đạo một số địa phương, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ vị trí và tầm
quan trọng của công tác tiếp công dân, chưa coi công tác tiếp dân là nhiệm vụ
thường xuyên và quan trọng của đơn vị, thiếu kiểm tra đôn đốc cấp dưới trong
việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm. Một số nơi
công tác tiếp công dân còn hạn chế, chưa phát huy tốt hiệu quả trong công tác
tiếp công dân.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị phản ánh ở một số địa phương, đơn vị còn yếu về nghiệp vụ,
chưa có kinh nghiệm trong tiếp công dân và thực hiện các nghiệp vụ xác
minh, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, do vậy đã tham mưu giải quyết một số
vụ đơn khiếu nại, tố cáo chưa chuẩn xác dẫn đến phát sinh đơn tiếp khiếu.
Các chế độ, chính sách đối với cán bộ tiếp công dân, xử lý đơn chưa được
quan tâm đầy đủ. Việc tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh chưa được thường xuyên.
Công tác phối hợp giữa cơ quan Nhà nước với các cơ quan, tổ chức khác
trong hệ thống chính trị trong tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị phản ánh đôi lúc chưa được kịp thời.
Từ thực trạng trên, trước yêu cầu của cải cách hành chính và bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Bản thân tác giả là người trực tiếp tham
gia công tác tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản
ánh trên địa bàn thành phố, do vậy tác giả lựa chọn đề tài “Tổ chức thực hiện
2
pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và
Luật Hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về pháp luật tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh, cụ thể:
Cuốn sách Quy trình tiếp công dân và xử lý đơn thư của Tạp chí Thanh
tra, Thanh tra Chính phủ, Nxb Thanh niên, 2013. Cuốn sách đã nêu bật được
những vấn đề chung của công tác tiếp công dân và những quy định của pháp
luật hiện nay về công tác này;
Tài liệu Nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của Viện
Khoa học Thanh tra và Trường Cán bộ Thanh tra, Tài liệu phục vụ bồi dưỡng
nghiệp vụ thanh tra, Hà Nội 2005;
Cuốn sách Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tình hình mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình
bày một số vấn đề đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới; kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các
địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo của Ts. Bùi Mạnh Cường và Ts. Nguyễn Thị Tố Uyên sưu tầm
và tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, 2013. Đây là cuốn sách bao gồm các bài
viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời
gian về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo;
Đề tài khoa học cấp Bộ của Thạc sỹ Bùi Mạnh Cường, 2013, Ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân. Đề tài nêu rõ thực trạng về
tiếp công dân và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân
3
trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp ứng dụng công nghệ thông
tin vào hoạt động tiếp công dân trong thời gian tới ở nước ta;
Đề tài “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong các cơ
quan của Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Tuyết Trinh.
Đề tài “Cải cách thủ tục hành chính trong tiếp dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo” (Chủ nhiệm- đồng chí Lê Đình Đấu - Vụ trưởng vụ xét khiếu tố), mục
đích là nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thủ tục hành chính trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Đề tài “Giải quyết khiếu tố của nhân dân - thực trạng và những bài học
kinh nghiệm’’ (Khoa Nhà nước và Pháp luật- Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001) được các tác giả bàn luận theo phương thức trên cơ sở lý
luận về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo để rút ra một số bài
học kinh nghiệm, kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Tham luận “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tình hình hiện nay”, Tham luận tại hội thảo Thanh tra 7
tỉnh miền Bắc năm 2014. Các tham luận tập trung vào các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thế Thuấn: “Tăng cường hiệu lực
của pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân Việt Nam
hiện nay’’; luận án tiến sĩ luật học của Trần Văn Sơn: “ Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ chế hành
chính Nhà nước hiện nay”.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến những vấn đề liên quan
đến tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo nhưng kể từ khi Luật
Tiếp công dân 2013, Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011 có hiệu lực cho
4
đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và trực tiếp đến các vấn đề
này từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Các đề tài, bài viết, tham luận mới chỉ đề
cập đến những vấn đề riêng hoặc ở một số khía cạnh nhất định đến pháp luật về
tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo cùng bất cập, khó khăn trong
quá trình thực hiện của các cơ quan, đơn vị.
Vì vậy, vấn đề “Tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ thực tiễn thành phố Đà
Nẵng” là vấn đề cần được nghiên cứu. Đây là đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động này, bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học về tiếp công dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại thành phố Đà Nẵng, đưa ra
các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tiếp công dân và xử lý
đơn thư , đồng thời nâng cao hiệu quả của các hoạt động này trong giai đoạn
hiện nay. Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; kết quả hoạt động, điều
kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị ảnh hưởng đến các hoạt động này; ưu
điểm, khó khăn, hạn chế và tìm nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế;
quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức
thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh.
5
Thứ hai, làm rõ những thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp
công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các cơ
quan hành chính trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; đánh giá đúng đắn những
kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu
điểm, hạn chế.
Thứ ba, đưa ra phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức
thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp
công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc tổ chức
thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Hoạt động tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh nghiên cứu trong luận văn này được giới hạn trong các cơ quan hành chính
Nhà nước tại thành phố Đà Nẵng.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước
về tổ chức và hoạt động tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh nói chung và của các cơ quan hành chính nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu: Phương pháp luật học so sánh, phương pháp xã hội học,
phương pháp thống kê…
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là một sự bổ sung cho các công trình
nghiên cứu về pháp luật và việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của các cơ quan hành
chính.
Luận văn làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động tiếp
công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, từ đó đánh
giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn tổ chức thực hiện
pháp luật về các hoạt động này tại thành phố Đà Nẵng; làm rõ những kết quả đạt
được, ưu điểm, những hạn chế cần khắc phục trong quá trình tổ chức thực hiện
những quy định của pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và xử lý
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong đó, tập trung vào giải
pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thực hiện các hoạt động này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Với những nội dung đạt được, kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ là cơ sở, là tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong việc
tiếp tục hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả về công tác tiếp công
dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức thực hiện pháp
luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
7
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân và
xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao tổ chức thực hiện pháp
luật về tiếp công dân và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƢ
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO, KIẾN NGHỊ, PHẢN ÁNH
1.1. Quan niệm về tiếp công dân và xử lý đơn thƣ khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh
1.1.1. Khái niệm tiếp công dân
Tiếp công dân là một hiện tượng khách quan phát sinh trong đời sống xã
hội, một hoạt động mang tính xã hội, gắn liền với sự tồn tại của Nhà nước,
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, hoạt động quản lý Nhà nước chủ yếu
do các cơ quan trong hệ thống hành chính Nhà nước từ trung ương đến cơ sở
tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước,
đây là hoạt động thực thi quyền hành pháp. Bằng quyền lực Nhà nước trên cơ
sở quy định của pháp luật, Nhà nước tác động và điều chỉnh hành vi, hoạt
động của con người và các quá trình xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân
thường xuyên là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp từ những quyết định
hành chính hay hành vi hành chính. Chính vì vậy, trong quản lý Nhà nước
luôn ẩn chứa nguy cơ phát sinh những xung đột về lợi ích giữa một bên là các
cơ quan Nhà nước - chủ thể của quản lý Nhà nước với một bên là cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự quản lý - đối tượng của quản lý Nhà nước. Trong một
xã hội dân chủ, Nhà nước không chỉ ban hành quy định buộc các đối tượng
quản lý phải tuân theo mà trong quá trình quản lý Nhà nước cũng luôn cần sự
đóng góp ý kiến từ phía tổ chức, người dân để khắc phục những hạn chế, hoàn
thiện về cơ cấu tổ chức cũng như chính sách, pháp luật. Việc quản lý đạt hiệu
quả hay không được đánh giá vào mức độ đồng thuận giữa Nhà nước và nhân
9
dân, do đó, việc tiếp xúc giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân là yêu cầu khách quan.
Nhà nước thực hiện việc tiếp nhận những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh từ phía nhân dân về những quyết định, hành vi của cơ quan Nhà
nước, của cán bộ, công chức Nhà nước, đó là một sự phản ứng tự nhiên của
con người khi quyết định, hành vi quản lý của Nhà nước đã được ban hành
hoặc thực hiện mà người dân thấy rằng nó không phù hợp, hoặc không đúng,
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của xã hội. Nhà nước
có trách nhiệm tổ chức gặp gỡ, tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh của công dân. Đây chính là hoạt động tiếp công dân của
cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành chính Nhà nước.
Hoạt động tiếp công dân là một trong những hoạt động thường xuyên
của các cơ quan Nhà nước. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước kịp thời
tiếp nhận và xử lý những vấn đề phát sinh trong quản lý Nhà nước, lắng nghe
được những ý kiến của dân, nhận được những thông tin kịp thời phản ánh về
quá trình thực hiện pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó Nhà nước có thể
điều chỉnh sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách, pháp luật cho phù hợp
với thực tế phát triển vận động của xã hội.
Trước khi có Luật Tiếp công dân năm 2013, các văn bản pháp luật của
nước ta chưa có văn bản nào quy định thế nào là “tiếp công dân” mà chỉ có
các khái niệm về trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân, trách nhiệm
của cán bộ tiếp công dân... được quy định tại Chương 5 (từ Điều 59 đến Điều
62) Luật Khiếu nại năm 2011; tại Chương 5 (từ Điều 21 đến Điều 31) Nghị
định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều của Luật Khiếu nại; Thông tư số 07/2011/TT-TTCP ngày 28/7/2011
của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn quy trình tiếp công dân. Tuy nhiên, khái
niệm “tiếp công dân” có thể được “ngầm” hiểu là trách nhiệm của Chủ tịch
10
Ủy ban nhân dân các cấp, của thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước,
của cán bộ được phân công nhiệm vụ tiếp công dân tại trụ sở tiếp công dân;
việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân (trụ sở tiếp công
dân, địa điểm tiếp công dân hoặc nơi làm việc của cơ quan có trách nhiệm tiếp
công dân và phải thông báo trực tiếp cho người được tiếp); trách nhiệm tiếp công
dân có thể được hiểu là tiếp công dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân để giải thích, hướng dẫn công dân
thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Tiếp công dân là công tác quan trọng trong các hoạt động của Đảng, Nhà
nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta. Thông qua
việc tiếp công dân, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức tiếp nhận được các
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân liên quan đến việc thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để có các biện pháp xử lý,
khắc phục kịp thời. Làm tốt công tác tiếp công dân là thể hiện bản chất Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, tăng cường mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác tiếp công dân giúp cho Đảng
và Nhà nước tiếp nhận được những thông tin phản hồi từ thực tế, những vấn
đề nảy sinh từ cuộc sống, từ đó đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn,
hợp lòng dân. Căn cứ ý nghĩa của hoạt động tiếp công dân nêu trên, Luật Tiếp
công dân năm 2013 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014) quy định về khái
niệm tiếp công dân tại khoản 1 Điều 2 như sau: “Tiếp công dân là việc cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân quy định tại Điều 4 của Luật này tiếp đón để
lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải
thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh theo đúng quy định của pháp luật”[21].
1.1.2. Đặc điểm của tiếp công dân
Là một hoạt động trong thực hiện chức năng quản lý Nhà nước nhằm
11
đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc
thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp
luật, hoạt động tiếp công dân có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tiếp công dân là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể mang
quyền lực Nhà nước, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Chủ thể mang
quyền lực Nhà nước ở đây cụ thể đó là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
thẩm quyền trong việc tiếp nhận những thông tin từ công dân để lắng nghe, giải
quyết các yêu cầu của công dân, việc giải quyết phải theo một quy trình cụ thể
do luật định. Đặc điểm này nhằm xác định trách nhiệm của Nhà nước, cụ thể là
trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ tiếp công
dân, đồng thời cũng nhằm hạn chế sự né tránh, đùn đẩy hay lạm quyền, tùy tiện
trong công tác tiếp dân.
Thứ hai, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của Nhà
nước pháp quyền. Nhà nước thực hiện việc tiếp công dân nhằm phát huy dân
chủ và đảm bảo quyền công dân được thực hiện trên thực tế đó là các quyền
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đồng thời chính từ hoạt động đó Nhà nước
tiếp nhận và thấy được hiệu quả của việc quản lý, là kênh thông tin quan trọng
để Nhà nước kiểm tra, giám sát bộ máy quản lý, phát hiện và báo động về
những khiếm khuyết, trục trặc của hệ thống quản lý ở các tầng nấc, qua đó xem
xét, điều chỉnh kịp thời, phản ánh sự đồng thuận của xã hội, thái độ của công
dân đối với Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước, chính là thước đo thái độ
của công dân với chế độ chính trị.
Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phức tạp: Khác với hoạt động
tiếp xúc giữa công dân với cơ quan Nhà nước để giải quyết các công việc cụ thể
thông thường diễn ra liên tục hàng ngày liên quan đến quản lý Nhà nước trên các
lĩnh vực theo thủ tục nhất định. Đối với quản lý hành chính Nhà nước, Nhà
nước và công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy
12
định về thủ tục hành chính trong từng lĩnh vực, khi công dân đáp ứng đầy đủ
các yêu cầu liên quan đến hồ sơ, thủ tục thì Nhà nước có nghĩa vụ thực hiện để
giải quyết một công việc cụ thể cho công dân, kết quả của việc thực hiện này là
người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi
hành chính.
Đối với hoạt động tiếp công dân, việc tiếp xúc giữa Nhà nước và công dân
là để Nhà nước tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
của công dân. Các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị xuất phát từ chính hoạt
động quản lý Nhà nước nêu trên khi công dân cho rằng quyết định hay hành vi
của người có thẩm quyền, của cán bộ, công chức Nhà nước là trái quy định của
pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích của công dân, của xã hội. Hoạt động
tiếp công dân bao gồm tiếp công dân khiếu nại, tiếp công dân tố cáo, tiếp công
dân kiến nghị, phản ánh, trong mỗi trường hợp thì việc tiếp xúc giữa Nhà nước
và công dân cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú tùy
theo tính chất phức tạp của từng vụ việc, theo từng nội dung.
1.1.3. Khái niệm xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
1.1.3.1. Khái niệm đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
Tại Khoản 1, Điều 4 Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014
của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo,
đơn kiến nghị, phản ánh (sau đây gọi là Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP), quy
định: “Đơn là văn bản có nội dung được trình bày dưới một hình thức theo
quy định của pháp luật, gửi đến cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn vị, người có
thẩm quyền để khiếu nại hoặc tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh” [29].
Như vậy, từ khái niệm này chúng ta có thể phân biệt các loại đơn liên
quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh như sau:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức
theo thủ tục do Luật quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
13
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
Nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng
quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình [20].
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật quy định báo cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức [19].
Như vậy, trước hết sự phân biệt giữa đơn có nội dung khiếu nại và đơn
có nội dung tố cáo được thể hiện ở bản chất, đó là đơn có nội dung khiếu nại
nhằm hướng tới lợi ích, đòi lại lợi ích mà chủ thể khiếu nại cho là họ đã bị
xâm phạm; còn mục đích của đơn có nội dung tố cáo là hướng tới việc xử lý
hành vi vi phạm và người có hành vi vi phạm. Bản chất này chi phối toàn bộ
các quy định của pháp luật và thái độ đối với hai loại này.
Về chủ thể: Nếu như khiếu nại chỉ cho phép công dân, cơ quan, tổ chức
bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình có quyền khiếu nại thì pháp
luật tố cáo cho phép mọi công dân có quyền tố cáo.
Về thái độ xử lý: Khiếu nại không được khuyến khích nhưng tố cáo lại
được khuyến khích: khiếu nại là đi đòi lại lợi ích cho mình nên pháp luật
không đặt vấn đề khuyến khích, trong khi đó, tố cáo là sự thể hiện trách
nhiệm của công dân đối với xã hội, Nhà nước thông qua việc phát hiện những
hành vi vi phạm pháp luật, góp phần ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm, tránh
được những thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội và các cá nhân
khác. Vì vậy, việc tố cáo cần được khuyến khích và pháp luật đã thể hiện thái
độ đó qua việc có những quy định khen thưởng cho người tố cáo đúng.
14
Kiến nghị, phản ánh là việc công dân cung cấp thông tin, trình bày ý
kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có
thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội
thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó [21].
- Đối với đơn kiến nghị, vụ việc phát sinh kiến nghị chủ yếu do con
người, cơ quan có thẩm quyền tạo nên và thường đã được các cơ quan chức
năng biết nhưng chưa có biện pháp khắc phục hoặc đã khắc phục nhưng chưa
đến nơi, đến chốn.
- Đối với đơn phản ánh, hầu hết những vụ việc phát sinh do công dân, tổ
chức phát hiện và phản ánh với cơ quan chức năng và qua phản ánh của công
dân, tổ chức thì cơ quan chức năng mới nắm bắt được. Vụ việc phát sinh phản
ánh có thể do con người (chủ thể quản lý) hoặc do khách quan như thiên
tai… gây ra.
1.1.3.2. Khái niệm xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
Tại Khoản 2, Điều 4 Thông tư số: 07/2014/TT-TTCP, quy định: “Xử lý
đơn là việc cơ quan Nhà nước, tổ chức người có thẩm quyền khi nhận được
đơn của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải căn cứ và đối chiếu với quy định của
pháp luật để thụ lý giải quyết nếu thuộc thẩm quyền của mình hoặc hướng
dẫn công dân hoặc chuyển đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm
quyền giải quyết theo quy định của pháp luật” [29].
Từ khái niệm trên có thể được hiểu rằng xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh là việc cơ quan Nhà nước, tổ chức có thẩm quyền khi
nhận được đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cá nhân, cơ
quan, tổ chức phải tổ chức phân loại đơn (xác định đơn khiếu nại, đơn tố cáo
hay đơn kiến nghị, phản ánh) và đối chiếu với các quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo cùng các quy định liên quan để thụ lý giải quyết nếu thuộc
15
thẩm quyền của đơn vị mình hoặc hướng dẫn công dân hoặc chuyển đơn đến
cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của
pháp luật.
1.2. Khái quát về lịch sử pháp luật về tiếp công dân và xử lý đơn thƣ
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh ở nƣớc ta
1.2.1. Pháp luật về tiếp công dân
Từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 cho
đến nay quan điểm của Đảng, Nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác tiếp
dân coi việc này là một hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội là hình thức để nhân dân tham gia giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức xã
hội và của công dân.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác này, trong những năm
qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản về công tác tiếp công dân như:
Nghị định số 89/CP ngày 07/8/1997 ban hành kèm theo Quy chế tổ chức tiếp
công dân; Luật Khiếu nại, tố cáo 1998; Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày
14/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại,
tố cáo; Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân; Luật Khiếu nại 2011, Luật
Tố cáo 2011, Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy định chi tiết
một số điều của Luật Khiếu nại, Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày
03/10/2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tố cáo... Bên cạnh
đó, một số cơ quan, tổ chức ban hành văn bản quy định về tổ chức và hoạt
động tiếp công dân trong cơ quan, tổ chức mình như Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận... Tuy nhiên, quy định về tổ
16
chức, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động của Trụ sở, bộ phận làm công
tác tiếp dân giữa các văn bản này còn có sự khác nhau, thiếu thống nhất;
nhiệm vụ, quyền hạn của Trụ sở tiếp công dân, người phụ trách Trụ sở tiếp
công dân, công chức làm công tác tiếp công dân chưa được quy định đầy đủ
và rõ ràng; phạm vi trách nhiệm, sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức
thường trực tại Trụ sở tiếp công dân của Trung ương Đảng, của Trụ sở tiếp
công dân các cấp chưa rõ ràng; mối quan hệ giữa Trụ sở tiếp công dân ở
Trung ương với cơ quan thường trực tiếp dân ở địa phương và mối quan hệ
giữa Trụ sở tiếp công dân với cơ quan thanh tra, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng; quyền và nghĩa vụ của công chức tiếp công
dân, của người phụ trách Trụ sở tiếp công dân; tiêu chuẩn, chế độ chính sách
đối với công chức tiếp công dân; trình tự, thủ tục tiếp công dân, công tác quản
lý Nhà nước về tiếp công dân…chưa được quy định đầy đủ và cụ thể.
Để đổi mới công tác tiếp công dân, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, ngày 10/01/2008, Bộ Chính trị có Thông báo kết luận số
130-TB/TW về tình hình, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2006
đến nay và giải pháp trong thời gian tới. Tiếp theo đó, Ban Bí thư Trung ương
có Thông báo số 307-TB/TW ngày 10/2/2010 về Đề án đổi mới công tác tiếp
công dân, trong đó chỉ rõ: trách nhiệm của các cấp ủy Đảng phải tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo đối với các cấp chính quyền, đoàn thể trong công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xác định rõ trách nhiệm của Thủ
trưởng các cơ quan Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc tổ
chức công tác tiếp công dân và trực tiếp tiếp công dân; phát huy vai trò của
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân, tăng cường công tác của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân trong việc giám sát công tác tiếp công dân; đồng thời “Tập
trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đẩy nhanh
việc đánh giá, rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật liên quan trực tiếp đến công
17
tác tiếp công dân, trong đó có Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính
phủ ban hành kèm theo Quy chế tổ chức tiếp công dân và pháp luật khiếu nại,
tố cáo có liên quan”. Vì vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể cần đổi
mới một cách toàn diện và triệt để công tác tiếp công dân.
Từ những lý do nêu trên, Luật Tiếp công dân đã ra đời và được Quốc hội
khóa XIII thông qua ngày 25/11/2013 có hiệu lực thi hành từ 01/7/2014. Thể
chế hóa các quy định của luật Chính phủ, Thanh tra Chính phủ trong phạm vi
chức năng nhiệm vụ của mình đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
nhằm đưa luật vào cuộc sống, cụ thể là Nghị định 64/2014/NĐ-CP ngày
26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp
công dân và Thông tư 06/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra
Chính phủ quy định quy trình tiếp công dân.
Song song với việc ban hành các văn bản pháp quy về công tác này Nhà
nước ta cũng đã quan tâm hơn đến công tác tiếp công dân bằng cách trích
nguồn kinh phí đáng kể cho hoạt động xây dựng công sở, mua sắm các trang
thiết bị cho phòng tiếp công dân, cơ sở vật chất dành cho công tác này so với
trước đây có sự quan tâm hơn, tiến bộ hơn. Nhận thức của cán bộ làm công
tác tiếp dân giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo ngày càng nâng cao, chế độ
đãi ngộ có phần ưu đãi, nên họ yên tâm, ổn định trong công tác. Nhờ làm tốt
công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nên hiệu
lực, hiệu quả quản lý hành chính Nhà nước nâng lên, niềm tin của nhân dân
về Đảng về công cuộc đổi mới đất nước ngày càng tăng.
1.2.2. Pháp luật về xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sơ khai mới ra đời nhưng
do thấm nhuần quan điểm về quyền con người, quyền dân chủ, quyền hạnh
phúc của người dân, Nhà nước đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xem xét và
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ
18
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt.
Việc nhận đơn thư khiếu tố được Người đặt ở tầm cao ngang với việc đi giám
sát công việc thực tế ở các cấp chính quyền. Ngoài ra, Nhà nước ta còn ban
hành nhiều văn bản nhằm tạo ra cơ chế đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân và tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo của
công dân như: Thông tư số 203-NV/VP ngày 25/5/1946 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ hướng dẫn cho công dân thủ tục gửi đơn, giới thiệu thẩm quyền của
các cơ quan, thời hạn để giải quyết khiếu tố; Thông tư số 436/TTg ngày
13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ
chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu
nại, tố cáo của nhân dân.
Ngày 1/1/1960, Chủ tịch Hồ chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp
mới của Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp đã dành riêng một điều quy
định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và trách nhiệm của cơ quan Nhà
nước phải xem xét giải quyết kịp thời, nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo, bảo
vệ quyền lợi cho người dân. Tiếp đó, Chính phủ đã có nhiều văn bản nhằm cụ
thể hoá Hiến pháp, bảo đảm cho công dân thực hiện được quyền khiếu nại, tố
cáo mà Hiến pháp đã ghi nhận, đồng thời quy định trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nước trong việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo của
công dân, như: Nghị quyết số 164/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng Chính
phủ về việc tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống cơ quan
Thanh tra của Nhà nước; Nghị định số 165/CP ngày 31/8/1970 của Hội đồng
Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thanh tra của Chính
phủ; Thông tư số 60/UBTT ngày 22/5/1971 của Uỷ ban Thanh tra của Chính
phủ hướng dẫn trách nhiệm của các ngành, các cấp về giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Những quy định trên của Chính phủ đã tạo
điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện quyền làm chủ trong việc tham gia
19