Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Giáo trình lịch sử triết học (dành cho sinh viên đh GDCT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.27 KB, 124 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------------------------------------

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
(Dành cho sinh viên ĐH GDCT)

Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Hà

Năm 2017

1


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI, TRUNG ĐẠI ..........................................4
1.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung đại..........4
1.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ, trung đại...................5
CHƯƠNG 2. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI, TRUNG ĐẠI ......................................................15
2.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại...................15
2.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Ấn Độ cổ, trung đại.........................16
CHƯƠNG 3. TRIẾT HỌC HY LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI .......................................................21
3.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại...........21
3.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại..................25
CHƯƠNG 4. TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRUNG CỔ ....................................................................49
4.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu trung cổ........................49
4.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Tây Âu trung cổ...............................51
CHƯƠNG 5. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI ........................61


5.1. Triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng....................................................................................61
5.2. Triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại.........................................................................................65
CHƯƠNG 6. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC ...............................................................................82
6.1. Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm chính của triết học cổ điển Đức.................................82
6.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học cổ điển Đức......................................86
CHƯƠNG 7. TRIẾT HỌC PHI MÁCXÍT HIỆN ĐẠI Ở PHƯƠNG TÂY...............................103
7.1. Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây hiện đại...............103
7.2. Một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại ...................................................................105

2


LỜI NÓI ĐẦU

Lịch sử triết học là một học phần quan trọng trong chương trình môn Triết học MácLênin ở các trường đại học và cao đẳng, giúp cho người học nắm được quá trình hình thành,
phát triển những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của tư duy triết học nhân loại trước
khi triết học Mác-Lênin ra đời.
Để phù hợp với sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, chúng tôi tiến hành biên soạn
Tập bài giảng Lịch sử triết học bao gồm 07 chương với nhiệm vụ chủ yếu là giới thiệu một cách
đại cương về sự phát triển tư tưởng triết học từ thời cổ đại cho đến hiện đại.
Mặc dù đã hệ thống hóa một cách cô động những nội dung cơ bản tuy vậy không thể
tránh khỏi những bổ sung và chỉnh sửa. Rất mong các đồng nghiệp và sinh viên đóng góp ý
kiến để bài giảng hoàn thiện hơn.
Quảng Bình, tháng 8 năm 2017

Nguyễn Thị Thanh Hà

3



CHƯƠNG 1
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI, TRUNG ĐẠI
(5 tiết)
Khoảng năm 2000 TCN chế độ công xã nguyên thuỷ ở Trung Quốc bắt đầu tan rã. Nhà
Hạ - nhà nước Chiếm hữu nô lệ đầu tiên ra đời. Khoảng thế kỷ XVII TCN bộ tộc Thương ở hạ
lưu Hoàng Hà nổi lên diệt nhà Hạ dựng lên nhà Thương. Giai cấp thống trị nhà Thương sống xa
hoa bóc lột nhân dân. Cuối đời Thương một bộ tộc Chu ở lưu vực sông Vị đã liên kết với những
người bị nhà Thương thống trị đem quân đi diệt nhà Thương dựng lên nhà Chu. Nhà Chu ra sức
mở mang bờ cõi, bóc lột nhân dân làm cho đời sống nhân dân hết sức cực khổ. Nhân dân nổi
lên đấu tranh chống lại nhà Chu, các nước chư hầu nhân đó mà nổi lên đánh nhà Chu. Từ đó
Trung Quốc bước vào thời kỳ hỗn chiến lâu dài gọi là thời Đông Chu hay Xuân Thu - Chiến
quốc. Đây là thời kỳ xuất hiện các nhà hiền triết lớn.
1.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung
đại
1.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Xã hội Trung Hoa cổ đại mà ở đó triết học hình thành và phát triển là xã hội đánh dấu sự
tan rã của chế độ nô lệ bắt đầu hình thành các quan hệ xã hội phong kiến phức tạp.
Về mặt xã hội thì xã hội Trung Hoa cổ đại được tính từ nhà Hạ cho đến hết thời Xuân
Thu - Chiến Quốc (III TCN) vào khoảng thế kỷ VIII TCN đến cuối thế kỷ II TCN. Xã hội
Trung Hoa có sự phát triển vượt bậc so với thời kỳ trước. Sản xuất nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp rất phát triển.Thời kỳ này đã xuất hiện những thành thị thương nghiệp
buôn bán xuất nhập nhộn nhịp ở các nước Hàn,Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một cơ sở kinh tế
tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý tộc thị tộc thành
những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên. Rõ ràng sự phát triển của sản xuất, kinh tế
đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội.Trong xã
hội đã có sự phân biệt giữa thành thị nông thôn. Thành thị là nơi ở của quý tộc, nông thôn là nơi
ở của người bị nô dịch. Sự hình thành, phát triển chế độ sở hữu tất yếu làm nảy sinh một loạt
những thế lực chính trị mới. Đó là tầng lớp địa chủ mới lên lấn át, mâu thuẫn gay gắt với quí
tộc, thị tộc cũ. Xã hội ở vào tình trạng rối ren, đảo lộn về giá trị đạo đức, chiến tranh xảy ra liên
miên.

Trong nước Vua tự xưng là thiên tử, hàng năm buộc các nước chư hầu phải cống nạp sản
vật.Các nước chư hầu ra sức bóc lột nhân dân làm cho mâu thuẫn càng thêm gay gắt.Theo sử
sách mỗi lần nhà Trịnh cống nạp cho nhà Tấn dùng 100 xe chở lụa và da thú. Trăm xe phải
ngàn người, dân rất nghèo, thây chết đầy đường. Đây cũng là thời kỳ xảy ra các cuộc chiến
tranh triền miên. Thời xuân thu có 242 năm xảy ra 403 cuộc chiến. Đầu Xuân Thu có hàng ngàn
nước thì cuối Xuân Thu có hơn 100 nước cuối cùng chỉ còn 3 nước lớn đó là Việt, Ngô, Tần.
Trong tình hình đó xuất hiện một loạt các nhà triết học lớn như Khổng Tử, Mạnh Tử,
Tuân Tử, Mặc Địch. Nhìn chung họ đều đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp mình
mà phê phán, đề ra những biện pháp nhằm ổn định trật tự xã hội quyền lợi thuộc về giai cấp của
họ. Lịch sử gọi là thời kỳ "bách gia chư tử"(trăm nhà trăm thầy),"bách gia tranh minh"(trăm nhà
4


đua tiếng). Chính trong quá trình "tranh minh" đó đã sinh ra những tư tưởng, những nhà hiền
triết vĩ đại.
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
Khác với triết học Hy Lạp cổ đại phát triển cực thịnh trong xã hội chiếm hữu nô lệ, triết
học Trung Hoa cổ đại xuất hiện và phát triển trong xã hội chiếm hữu nô lệ bắt đầu tan rã. Triết
học phương Tây lấy thế giới bên ngoài làm đối tượng nghiên cứu, chứng minh nó bằng tư duy
lý luận thì triết học phương Đông lấy chính trị xã hội làm đối tượng nghiên cứu, chiêm nghiệm
nội tâm, trầm tư khép kín, thường sử dụng cách nói châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn để diễn đạt ý
tưởng của mình.
Các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình vô thần và hữu thần thường đan
xen lẫn nhau.Thực chất của cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học ở Trung Quốc cổ đại
là sự phản ánh tính chất mâu thuẫn về địa vị và lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác
nhau. Trong các trường phái triết học vừa có sự kế thừa tư tưởng của nhau vừa đấu tranh với
nhau hết sức quyết liệt trên tất cả các mặt của triết học, tạo nên sự sống động trong đời sống
tinh thần ở Trung Quốc thời Xuân Thu- Chiến Quốc.
Đặc điểm triết học Trung Hoa cổ, trung đại là nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Các loại tư
tưởng triết học liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học đạo đức, triết học

chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Chú trọng chính trị đạo đức. Suốt mấy ngàn năm lịch sử các triết gia Trung Hoa đều đeo
đuổi vương quốc, luân lý đạo đức, họ xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn
căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của đời sống xã hội.
Nhấn mạnh sự thống nhất hài hoà giữa tự nhiên và xã hội. Khi nghiên cứu sự vận động
của tự nhiên, xã hội và nhân sinh, đa số các nhà triết học Trung Hoa đều nhấn mạnh sự thống
nhất hài hoà giữa các mặt đối lập, coi trọng tính thống nhất của các mối liên hệ tương hỗ của
các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề như:
“Thiên nhân hợp nhất”, “tri hành hợp nhất”, “tâm vật dung hợp”.
Tư duy trực giác là có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Cảm nhận tức là đặt mình giữa
đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp, khơi dậy linh cảm, quán xuyến nhiều
chiều trong chốc lát, từ đó nắm bắt bản thể trừu tượng. Phương pháp tư duy trực giác đặc biệt
coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, “lấy tâm để bao quát vật”.
Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc
thực tiễn đời sống chính trị xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên lập trường duy tâm để giải thích và
đưa ra biện pháp để giải quyết vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng đó có tác dụng rất lớn,
trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập
quyền theo chuẩn mực chính trị-đạo đức phong kiến phương Đông.
Triết học Trung Hoa cổ trung đại còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư
tưởng sâu sắc về biến dịch của vũ trụ. Âm Dương, Ngũ hành tuy còn nhiều hạn chế nhất định,
nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật biện chứng của người Trung Hoa cổ
đại, đã ảnh hưởng to lớn đến thế giới quan triết học sau này của Trung Hoa.
1.2. Một số trường phái và triết gia tiêu hiểu của triết học Trung Quốc cổ, trung
đại
1.2.1. Trường phái triết học Nho gia
5


Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu. Người sáng lập là
Khổng Tử (551 TCN - 479 TCN). Đến thời Chiến Quốc Nho gia được Mạnh Tử - Tuân Tử

hoàn thiện phát triển theo hai xu hướng duy vật và duy tâm. Trong đó dòng Nho gia Khổng
Mạnh là có ảnh hưởng sâu rộng nhất.
* Khổng Tử (551 - 479 TCN), tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ, trong một
gia đình quý tộc nhỏ bị sa sút. Quê hương nước Lỗ của Khổng Tử là nơi trụ cột, nơi bảo tồn
được nhiều di sản văn hoá cũ của nhà Chu. Như trên đã nói thời đại của Khổng Tử là thời đại
"vương đạo suy vi","bá đạo lấn át vương đạo", trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn.
Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông chủ trương lập lại
trật tự kỷ cương của nhà Chu với một nội dung mới cho phù hợp. Ông lập ra học thuyết, mở
trường dạy học, đi chu du các nơi trong nước tranh luận với các phái khác để tuyên truyền lý
tưởng của mình. Ông được học trò sau này tôn là "Vạn thế sư biểu" (người thầy của muôn đời).
Sau đây là những tư tưởng cơ bản của ông.
a. Bản thể luận
Khổng Tử ít bàn đến vấn đề về bản thể luận, tuy nhiên trong nghị luận có chỗ ông nói đến
"trời", "mệnh trời" để trình bày ý kiến của mình. Do ảnh hưởng của tư tưởng Kinh Dịch,Trời
đối với Khổng Tử có chỗ như một quy luật trật tự của vạn vật. "Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn
thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng". Ông thường dạy học trò "cũng như dòng nước chảy, mọi
vật đều trôi đi không ngưng nghỉ". Tuy nhiên có khi ông khẳng định: Trời có ý chí "Than ôi!
Trời làm mất đạo ta". "Mắc tội với Trời không thể cầu ở đâu mà thoát được". Trời quyết định
thành bại trong cuộc sống của con người nên cần phải hiểu trời, phải biết mệnh trời để tránh
mọi tai hoạ. Quan điểm về bản thể luận của Khổng Tử mang tính nửa vời, không triệt để vừa
duy vật vừa duy tâm.
b.Con người
Số phận con người
Khi bàn về số phận của con người Khổng Tử cho rằng con người có mệnh, mệnh do Trời
phú. "Sống chết có mệnh, giàu sang tại trời". Khổng Tử thể hiện rõ thái độ của mình là ủng hộ
cho giai cấp thống trị. Ông nói "kẻ tiểu nhân làm ruộng đó là việc của họ. Theo ông cần yên
phận với mệnh trời đã cho, không nên đấu tranh "an bàn nhi lạc".
Mặt khác ông cho rằng: Thiên mệnh không đáng sợ, con người do chính mình tạo ra tài
đức số phận của mình.
Về tính người

Ông cho rằng tính người do trời phú nên đều gần nhau cả, con người mang tính thiện.
Nhưng do đâu mà con người có ác có thiện? Vì do hoàn cảnh tác động khác nhau như phong
tục, tập quán, thói quen. "Tính tương cận tập tương viễn". Ông chủ trương con người cần giáo
dục để biết đạo làm người. Nhưng vì hạn chế bởi tư tưởng giai cấp nên ông cho rằng: kẻ tiểu
nhân có học cũng không biết, người quân tử không học cũng biết.
c.Học thuyết chính trị
Học thuyết chính trị xã hội chiếm vị trí chủ đạo triết học Nho giáo. Như trên đã nói Khổng
Tử sống vào thời kỳ xã hội loạn lạc, giá trị đạo đức bị đảo lộn. Ông mong muốn xây dựng học
thuyết chính trị nhằm lập lại trật tự kỷ cương cho xã hội. Để thực hiện ý tưởng của mình ông
6


xây dựng học thuyết Nhân, Lễ, Chính danh. Trong học thuyết ông đề cao giá trị đức nhân trong
đời sống con người thể hiện qua các nội dung nhân, lễ, chính danh.
Nhân là hạt nhân trong học thuyết của Khổng Tử. Nhân là nội dung, Lễ là hình thức, còn
Chính danh là con đường để đạt đến điều nhân.
Nhân là lòng thương người, điều gì mình không muốn thì không nên áp dụng cho người
khác. Mình muốn lập thân phải giúp người khác lập thân. Mình muốn thành đạt giúp cho người
khác thành đạt. Người có đức nhân trước phải làm những điều khó sau mới nghĩ đến thu hoạch.
Người có đức nhân phải có trí có dũng. Người có trí không nhầm lẫn, người có dũng không sợ
hãi. Ông cho rằng, phẩm chất chất phác, tình cảm chân thực là đIều kiện cần thiết để trau dồi
đức nhân. Những người thích trau chuốt, hình thức khéo nói là ít đức nhân. Tuy nhiên, do hạn
chế của lập trường giai cấp, học thuyết nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng. Ông
cho rằng chỉ có người quân tử mới có đức nhân còn kẻ tiểu nhân(người bị trị) không có đức
nhân. Nghĩa là đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp thống trị.
Thời đại Khổng Tử là thời mà theo ông "lễ nhạc hư hỏng", cần phải khôi phục lại lễ. Lễ
mà Khổng Tử nói ở đây là lễ nghi, quy phạm đạo đức thời Tây Chu. Ông cho rằng do vua
không giữ đúng đạo vua, tôi không làm đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha, con không
làm đúng đạo con cho nên thiên hạ vô đạo và "thiên hạ đại loạn". Do vậy cần phải lập lại kỷ
cương cho vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con để cho thiên hạ hữu đạo, xã hội yên ổn.

Ông nói "Vấn đề là đặt ra đạo cho thật đúng, sáng nghe đạo mà tối chết cũng cam lòng”.
Với lễ của nhà Chu một mặt ông cực đoan bảo thủ giữ lại những hình thức cũ, một mặt
ông đưa vào những nội dung mới cho phù hợp với tình hình mới.
Ông kịch liệt phản đối sự đấu tranh dù là quần chúng nghèo khổ vùng lên hay giữ giai
cấp thống trọ với nhau. Ông nói: "ưa dùng vũ lực, chán ghét cảnh nghèo là mầm mống của loạn.
Người quân tử phải vô sở vô tranh tức không có cái gì đáng phải tranh giành. Để xoa dịu và
điều hoà mâu thuẫn giai cấp ông tuyên truyền an bần nhi lạc (nghèo mà vui) và chủ trương tác
dụng của lễ là lấy hoà làm quý. Ông khuyên người dưới an phận, không oán trách, ông cũng
yêu cầu người trên phải tôn trọng người dưới (Bước ra cửa lúc nào cũng phải chỉnh tề như gặp
người khách quý, sai khiến dân một việc gì cũng phải thận trọng). Người có đức nhân phải là
người biết tôn trọng nguyên tắc lễ nghĩa. Lễ là cơ sở của mọi hành động. Ai làm trái với điều lễ
là không có đức nhân. Khi thực lễ phải thành kính. Ông nói: "Ngày nay người ta gọi nuôi nấng
săn sóc cha mẹ là thờ cha mẹ, nhưng đối với chó ngựa người ta cũng chăm sóc nuôi nấng nó.
Nếu như đối với cha mẹ mà không thành kính thì sự săn sóc đối với cha mẹ có khác gì việc săn
sóc nuôi nấng chó ngựa”.
Tính hai mặt bảo thủ và tiến bộ của Khổng Tử thể hiện rõ trong tư tưởng thân thân tức
thương yêu người thân và thượng hiền tức tôn trọng người hiền tài. Chế độ nhà Chu là chế độ
Tông pháp, lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, mỗi cá nhân phải toàn tâm toàn ý vì quyền lợi
của tông tộc phục vụ. Khổng Tử theo nhà Chu nên tư tưởng yêu thương người thân bám rất
chắc trong tư tưởng của ông. Mặt khác, tư tưởng tôn trọng người hiền tài của Khổng Tử cũng
khá rõ nét, mang nhiều ý nghĩa tích cực. Ông chủ trương quốc gia nên dùng người hiền tài,
không kể người thân hay không thân, nếu thấy người tài giỏi hơn mình là phải nhường không
nhường là ăn cắp địa vị.
Trong mối quan hệ giữa con người với con người cần thực hiện đúng chức danh của
mình. Không cửa quyền, không lấy chức danh của người khác, danh phải chính, ngôn phải
7


thuận. Biểu hiện của chính danh là tam cương (ba mối quan hệ rường cột trong xã hội: vua tôi,
cha con, chồng vợ), ngũ thường (năm mối quan hệ trong xã hội: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh

em, bạn hữu). Trong đó ông nhấn mạnh đến quan hệ vua tôi, cha con.
Như trên đã nói, Khổng Tử chống lại việc duy trì ngôi vua theo huyết thống, chủ trương
sử dụng người hiền tài, rộng lượng với kẻ cộng sự. Ông nói: Nhà cầm quyền phải thực hiện
được ba điều, đó là bảo đảm đủ lương thực, xây dựng lực lượng binh lực đủ mạnh, tạo lòng tin
của dân đối với mình. Nếu không thực hiện được thì phải nhường ngôi lại cho người khác tài
giỏi hơn mình. Về mối quan hệ cha con, Khổng Tử lấy chữ hiếu làm đầu, con cái phải thành
kính với cha mẹ.
Trong xã hội loạn lạc ông kêu gọi vua cho ra vua, cha cho ra cha, con cho ra con đó là
điều đáng trân trọng. Bỏ qua những hạn chế về mặt giai cấp thì nội dung nhân, lễ, chính danh là
sự kết tinh rực rỡ nhất trong triết học của Khổng Tử.
* Mạnh Tử kế thừa, phát triển học thuyết của Khổng Tử một cách chính diện,
nhưng thực chất đã khuyếch đại những mặt hạn chế trong tư tưởng của Khổng Tử.
Mạnh Tử cũng cho rằng con người có tính thiện, là con người cần phải có nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín. Ông nói rằng: “Không học sẽ bị cái ngu muội, cái lầm lạc làm biến chất. Để trở
thành người có nhân phải học”. Mục đích cao nhất của nhận thức là nhận thức về triều đình,
tham gia vào các công việc xã hội. Mệnh trời chi phối cuộc sống của con người. Ông nói rằng
vạn vật đều có ở trong ta. Theo ông con người không cần nghiên cứu về thế giới tự nhiên mà
chỉ cần chiêm nghiệm nội tâm là đủ vì vạn vật đã hội đủ trong con người. Đây là tư tưởng duy
tâm, phản tiến bộ của ông.
Điểm tiến bộ nhất trong tư tưởng của ông đó là tư tưởng vì dân, thân dân. Ông nói:
"Trong xã tắc cái đáng quý nhất là dân, kế đến là xã tắc, còn vua là thường. Vua và chư hầu làm
hại cho xã tắc thì thay ông vua khác".
Tuân Tử kế thừa và phát triển học thuyết của Khổng Tử trên thiên hướng duy vật. Ông
khẳng định: "Thiên - địa - nhân là ba bộ phận cấu thành của vũ trụ. Mỗi lĩnh vực có chức năng
riêng. Trời có 4 mùa, đất có sản vật, người có văn tri". Con người không bị sự chi phối của
Trời, sự biến hoá của vạn vật diễn ra một cách tự nhiên. Ông nói: “Không phải vì người ta ghét
giá lạnh mà trời từ bỏ mùa đông, không phải người ta ngại xa xôi mà đất trời rút hẹp bề mặt
lại."
Con người của triết học Khổng, Mạnh là nạn nhân của số phận, thiên mệnh, còn con
người của triết học Tuân Tử vượt lên số phận. Ông cho rằng bản chất của con người là ác nên

nhà vua phải dùng phát luật để cai trị. Tư tưởng này đặt nền móng cho quan điểm pháp trị của
Hàn Phi Tử sau này.
Tóm lại, tư tưởng triết học của phái Nho gia biểu hiện sự mâu thuẫn về tư tưởng, đan xen
giữa tư tưởng tiến bộ và lạc hậu. Chưa nhận thức được nguyên nhân của sự biến đổi kinh tế xã
hội mà chỉ tìm hiểu ở tính người do đó biện pháp mà trường phái Nho gia đặt ra nhằm trị yên
đất nước mang tính duy tâm, cải lương.
1.2.2. Trường phái triết học Đạo gia (Lão Tử, Dương Chu, Trang Chu)
Lão Tử được xem là người sáng lập Đạo gia hay còn gọi là ông tổ của Đạo gia. Cuộc đời
của ông được người đời viết lại mang nhiều huyền thoại. Theo sử ký của Tư Mã Thiên thì Lão
Tử là người sống cùng thời với KhổngTử. Ông làm quan sử, giữ nhà chứa sách cho nhà Chu.
8


Ông đọc nhiều, đi nhiều, hiểu biết rộng song thích sống ẩn dật. Toàn bộ tư tưởng của ông được
trình bày ngắn gọn trong cuốn "Đạo đức kinh".
Tư tưởng cốt lõi của đạo gia gồm: Tư tưởng về đạo, tư tưởng về phép biện chứng, học
thuyết vô vi (hay những vấn đề về đạo đức, nhân sinh).
Đạo gia là một trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Nó ảnh hưởng
sâu sắc không chỉ trong đời sống tinh thần của người dân Trung Quốc mà cả truyền thống văn
hoá của hầu hết các dân tộc Châu Á.
a. Bản thể luận (tư tưởng về đạo)
Tư tưởng về đạo đóng vai trò chủ đạo trong triết học Lão Tử. Nó là nền tảng của mọi vấn
đề khác, chi phối toàn bộ học thuyết của ông.
Bản chất của Đạo theo Lão Tử có hai thuộc tính tự nhiên, thuần phác trống không. Lão
Tử nói "Đạo pháp tự nhiên". Tính tự nhiên của đạo được hiểu như là tính khách quan, vốn như
thế không phụ thuộc vào ý thức con người. Tính tự nhiên khách quan của Đạo không thể hiểu
như khái niệm tồn tại khách quan trong triết học phương Tây. Đạo chứa đựng cái tồn tại và
không tồn tại, nó chứa đựng tất cả thần linh, thượng đế cũng từ đạo mà ra.
Tính chất của Đạo là trống không. Bản chất của vũ trụ là khoảng trống vô tậnvà vĩnh
cửu, nó là cái đầu tiên sinh ra vạn vật. Nó là nội dung quan trọng nhất của phạm trù Đạo giống

như vật chất có thuộc tính là tồn tại khách quan vậy.
Với hai thuộc tính trống rỗng và tất yếu khách quan ta thấy phạm trù Đạo đã đạt đến
trình độ tư duy trừu tượng cao, tuy nhiên chưa thoát khỏi tính trực quan cảm tính nên dừng lại
thuộc tính trống rỗng.
Tóm lại, Đạo của Lão Tử gồm những nội dung sau:
Đạo là bản nguyên của mọi hiện hữu, mọi sự vật hiện tượng từ đạo mà ra (đạo sinh một,
một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật). Cũng có nghĩa đạo sinh ra tất cả, tất cả có thể qui về
Đạo.
Đạo là cái vô hình, hiện hữu là cái có, song đạo và hiện hữu không tách rời mà đạo như
là bản chất của hiện hữu, hiện hữu là biểu hiện của đạo, đạo là sự thống nhất giữa cái hiện hữu
và cái vô danh.
Đạo là nguyên lý vận hành của mọi hiện hữu (đạo pháp tự nhiên) như là quy luật khách
quan của tự nhiên
b.Tư tưởng biện chứng
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử thực chất là sự phát triển tư tưởng về sự biến dịch trong
kinh dịch. Theo ông mọi hiện hữu đều biến dịch, sự biến dịch theo hai nguyên tắc bình quân và
phản phục.
Luật quân bình là luôn giữ cho sự vật vận động được, không có cái gì thái quá hay thiên
lệch. "Cái gì khuyết ắt được tràn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng". Luật phản phục là cái gì phát
triển đến tột đỉnh thì sẽ đối lập với nó. Nghĩa là vạn vật biến hoá nối tiếp nhau theo một vòng
tuần hoàn đều đặn (Cân bằng quay trở về trạng thái ban đầu). Phản phục còn có nghĩa là quay
trở về với đạo,tự nhiên vô vi trở về với bản tính tự nhiên của mình. Tư tưởng phản phục nói lên
nguyên lý vận hành phi phát triển của hiện hữu, không nhấn mạnh đấu tranh và giải quyết mâu
thuẫn.
9


Các mặt đối lập là một thể thống nhất quy định ràng buộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại
cho nhau "đẹp có xấu, dài ngắn tựa vào nhau, hoạ là chỗ tựa của phúc, phúc là nơi ẩn của hoạ".
Ta thấy ông đã vạch ra được mối quan hệ biện chứng giữa các mặt đối lập chính là nguồn gốc

của sự vạn động và biến đổi. Các mặt đối lập đó tự chuyển hoá cho nhau. Theo ông một sự vật
trong một chu kỳ phát triển đến cực điểm chúng sẽ chuyển thành mặt đối lập với chính nó."Gió
to không thể thổi suốt buổi mai, mưa lớn không mưa suốt ngày". Xu hướng phát triển của Lão
Tử không theo hướng đi lên mà theo vòng tuần hoàn của luật phản phục. Ông không chủ trương
giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh mà lấy sự chuyển hoá điều hoà theo luật quân bình. Đây là
chỗ hạn chế trong tư tưởng của ông. Phép biện chứng trong triết học của Lão Tử còn mang tính
chất phác, trực quan cảm tính song ông đã trình bày một cách cô đọng, sâu sắc về vận động,
mâu thuẫn.
c.Tư tưởng về đạo vô vi (chính trị - xã hội )
Quan điểm vô vi của Lão Tử xét cho cùng là những vấn đề đạo đức nhân sinh, chính trị
xã hội. Mặc dù Lão Tử đề cao mặt tự nhiên của con người, phủ nhận mặt xã hội nhưng quan
điểm vô vi của Lão Tử biểu hiện sâu sắc nghệ thuật sống, thái độ của con người đối với thời
cuộc. Đây là chỗ tập trung giá trị nhân văn trong triết học của ông.
Vô vi không phải là thụ động, bất động hay không hành động gì mà vô vi có nghĩa là
hành động theo bản tính tự nhiên của đạo, sống với cái vốn có tự nhiên mộc mạc, không hành
động giả tạo trái với tự nhiên. Nó còn có nghĩa là bảo vệ gìn giữ bản tính tự nhiên của mình và
của vạn vật.
Ông chủ trương từ bỏ những gì trái với tự nhiên, cần trị nước bằng đạo vô vi nghĩa là đưa
xã hội loài người trở về trạng thái tự nhiên nguyên thuỷ, không ham muốn không dục vọng.
Ông đề cao những đức tính từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, từ bỏ những chuẩn mực đạo đức, lễ
nghi, xa lánh mọi kỹ xảo công nghệ. Ông lên án chiến tranh, mơ ước một xã hội đại đồng theo
mô hình xã hội cộng đồng nguyên thuỷ. Ông mơ ước đến một xã hội nước nhỏ dân ít. "Mọi
người đều vui vẻ ăn ngon mặc đẹp, hai nước láng giềng cùng trông thấy nhau, nghe tiếng gà
gáy, chó sủa của nhau".
Trang Tử, Dương Chu là người tiếp nối học thuyết Lão Tử
Trung tâm của học thuyết Dương Chu là thuyết vị ngã. Ông chủ trương con người hãy
sống vì mình, phải biết bảo tồn sự sống của mình. Ông đòi hỏi con người phải được tự do cá
nhân, quyền được sống cho mình và được thoả mãn nhu cầu tự nhiên. Ông là người tiên phong
trong phong trào chống áp bức, sự hà khắc của xã hội phong kiến dưới thời ông. Đây là một
cống hiến có giá trị.

Trang Tử đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng biện chứng của Lão Tử nhưng thực chất đã đẩy
tư tưởng đó tới chỗ hoài nghi thần bí. Ông cho rằng đạo là một thể thần bí hư không, không tồn
tại. Mỗi người đều có bản tính tự nhiên của mình không ai giống ai. Mỗi người đều có phải có
trái, có tốt có xấu. Do đó không có chuẩn mực thiện ác để phân biệt phải trái, phải trái đều như
nhau.
Những tư tưởng đó đã phản ánh sự mục nát suy tàn của hình thái ý thức quý tộc chủ nô,
tâm lý sợ sệt trước cuộc đấu tranh diễn ra tàn khốc.
1.2.3. Trường phái triết học Mặc gia

10


Người sáng lập là Mặc Tử (Mặc địch) (479-381 TCN). Mặc Tử và các môn đệ là những
người phu dịch, lớp dưới của xã hội. Đả kích Nho gia, muốn tranh chấp địa vị của Nho gia trên
trường chính trị.
a. Thuyết phi thiên mệnh
Trong triết học của mình Mặc Tử chống lại thuyết thiên mệnh của Khổng Tử.Tư tưởng
trung tâm của triết học Mặc gia là quan niệm về "phi thiên mệnh". Mặc Tử nói: "Do tin vào
định mệnh nên Nho gia làm cho người trên an phận không lo đến việc chính trị, kẻ dưới sinh ra
ỷ lại, biếng nhác không làm chủ được bản thân mình". Mặc Tử không tin vào số mệnh, theo ông
thì sự giàu, nghèo, thọ, yểu không phải do định mệnh của Trời mà do Người. Nếu người ta nỗ
lực làm việc tiết kiệm tiền của thì ắt giàu có, tránh được nghèo đói, khác với quan điểm Thiên
Mệnh có tính thần bí của Nho giáo dòng Khổng Mạnh.
Không thừa nhận thuyết thiên mệnh, song Mặc Tử lại đưa ra thế giới quan duy tâm tôn
giáo cho rằng trời thượng đế sắp đặt tất cả. Trời là đấng anh minh có ý chí, có nhân cách và
quyền tối cao. Trời luôn yêu thương và làm lợi cho tất cả không phân biệt trên dưới hèn sang.
Trời luôn công minh biết thưởng người hiền và trừng trị kẻ ác. Ngoài ra Mặc Tử tin có quỷ
thần, quỷ thần là một thế lực đầy quyền uy, linh thiêng giám sát chặt chẽ mọi việc con người
làm để khen thưởng và trừng phạt công minh.
b.Nhận thức luận

Mặc Tử coi trọng vai trò của kinh nghiệm cảm giác và thấy được vai trò của thực tiễn
trong quá trình nhận thức. Ông quá đề cao vai trò của cảm giác cho rằng ức tưởng của con
người cũng là cảm giác đúng đắn và lấy đó để chứng minh cho sự tồn tại của quỷ thần.
Ông đưa ra học thuyết Tam biểu mang tính cách là một thuyết về nhận thức, có xu
hướng duy vật. Tam biểu là ba nguyên tắc để xác lập một phán đoán đúng. Học thuyết Tam
biểu mang tính cách là một học thuyết về nhận thức có xu hướng duy vật, cảm giác luận. Đề cao
vai trò kinh nghiệm, là bằng chứng chân xác của nhận thức.
c. Chính trị xã hội
Xuất phát từ lập trường của người lao động ông đưa ra thuyết Kiêm ái. Kiêm là bao gồm,
cái chung. Aí là yêu, lòng yêu thương con người. Kiêm ái là yêu thương hết thảy con người
không phân biệt trên dưới hèn sang, yêu người như yêu mình. Ông phê phán quan điểm của
Khổng Tử về sự phân biệt thứ bậc thân sơ trong học thuyết nhân. Theo ông con người cần phải
yêu thương lân nhau không phân biệt thứ bậc thân sơ. Ông mong ước có một xã hội hoà đồng,
dân ít, mọi người đều yêu thương kính trọng lẫn nhau. Ông lên án chiến tranh, xem nguyên
nhân của chiến tranh tội ác là do con người không có tình yêu thương lẫn nhau. Ông nói: "Yêu
thương mẹ người như mẹ mình, coi của cải của người khác như của cải của mình, coi người
nước người như người nước mình thì làm gì có nạn trộm cắp, chiến tranh". Quan điểm này đã
thể hiện Mặc Tử là một người giàu lòng nhân ái, tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Đồng thời
thể hiện một khát vọng sống đẹp của tầng lớp lao động nghèo khổ, lương thiện trong xã hội đầy
bất công, tội ác.Trong điều kiện lịch sử như vậy nên tư tưởng của ông không có tính thực thi.
Khi bàn về nguồn gốc của nhà nước Mặc Tử cho rằng đó là do ý trời, quỷ thần. Ý trời
bao gồm yêu và làm lợi cho tất cả mọi người như nhau. Nhà nước và kẻ thống trị thay mặt trời
quán xuyến mọi hành vi con người, có thưởng phạt công minh. Ông chủ trương sử dụng người
hiền tài phản đối truyền thống cha truyền con nối. Phái Mặc gia hậu kỳ chủ yếu phát triển trên
phương diện nhận thức luận.
11


1.2.4. Trường phái triết học Pháp gia
Người sáng lập là Hàn Phi Tử (280 - 233 TCN). Những tư tưởng Pháp gia có từ trước

nhưng ông được coi là người tiền bối sáng lập ra phái Pháp gia .Tư tưởng pháp trị của ông góp
phần vào việc thống nhất quốc gia thời Tần Thuỷ Hoàng.
Phái Pháp gia chú trọng vào những tư tưởng chính trị xã hội và đề cao phép trị quốc
bằng luật pháp. Pháp trị của Hàn Phi Tử dựa trên những luận cứ triết học cơ bản sau đây:
+ Thừa nhận tính khách quan và uy lực của những lực lượng khách quan mà ông gọi là
Lý. Đó là cái chi phối quyết định mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.
+ Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Do đó không thể có khuôn mẫu chung cho
mọi xã hội. Động lực của sự thay đổi xã hội: dân số, của cải xã hội.
- Về tính người: Bản tính con người vốn ác, tức tính cá nhân vụ lợi, luôn có xu hướng
lợi mình hại người. Trên cơ sở đó Hàn Phi Tử đề ra học thuyết Pháp trị tức cai trị xã hội bằng
luật pháp.
Cần thiết phải cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông phản đối phép trị nước của Nho gia coi
trọng nhân trị và Vô vi trị của phái Lão gia.
Phép trị quốc phải thay đổi tùy theo từng điều kiện thay đổi của xã hội. Tức là phải căn
cứ vào hoàn cảnh cụ thể của trình trạng xã hội mà để ra phép tắc điều luật không nên lệ cổ, hoài
cổ.
Phép trị quốc của Hàn Phi Tử bao gồm 3 yếu tố: Pháp, Thế, Thuật.
. Pháp: Là những quy định, những luật lệ, hiến lệnh, là thể chế tổ chức chính trị xã hội,
tức nó là những tiêu chuẩn khách quan, tất định để người ta có thể căn cứ vào đó mà luận công
tội, phải trái, đúng, sai. Pháp phải được xác định rõ ràng minh bạch, dựa vào "Lý".
Thế: Quyền thế của kẻ làm chúa, kẻ thống trị, nắm lấy quyền giết hại hay khen thưởng.
Hay nói cách khác, thế là thế lực của kẻ cầm đầu tổ chức chính trị xã hội. Địa vị đó phải được
coi à độc tôn gọi là tôn quân quyền. Có như vậy Thuật mới được thực thi, Pháp được tôn trọng.
Thuật: Có thế lại phải có thuật mới trị được quốc. Thuật là phương pháp thủ, mưu lược
trong việc điều khiển công việc chính trị xã hội. Thuật có nghĩa là thủ đoạn của người dùng
Pháp (pháp như trời nghĩa là không thể trái, còn thuật như quỷ, tức biến báo khôn lường không
thể dò xét). Theo Hàn Phi Tử Thuật còn có tác dụng chọn người tài giỏi nắm địa vị lãnh đạo xã
hội vì nhờ thuật mà xác định được cái thực chứ không phải cái danh.
1.2.5. Học thuyết Âm Dương-Ngũ Hành
Những tư tưởng triết lý về Âm dương-Ngũ Hành đã được lưu truyền từ trước thời Xuân

Thu - Chiến Quốc. Về mặt lịch sử tác giả của thuyết Âm dương - Ngũ hành chưa được làm sáng
tỏ.Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành đạt tới mức là một
hệ thống.
Âm dương: Biện giải nguyên nhân của biến dịch.
Ngũ hành: Biện giải về cấu trúc vạn vật từ những yếu tố vận chất đầu tiên.
Tư tưởng triết học của phái Âm Dương:

12


Âm Dương, Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết học Trung Hoa, là
khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự biến hoá của vũ trụ. Việc sử dụng hai
phạm trù Âm Dương, Ngũ hành đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm thoát
khỏi sự khống chế về tư tưởng do các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống đem lại. Đó
là cội nguồn về tư tưởng duy vật và biện chứng trong tư tưởng triết học Trung Hoa.
Triết lý Âm Dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lí vận hành đầu tiên phổ biến của vạn
vật. Đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau: Âm - Dương. Âm và dương vừa đối lập vừa
thống nhất với nhau trong vạn vật, là động lực của mọi sự vận động, phát triển, là khởi nguyên
của mọi sinh thành biến hoá.
Âm là một phạm trù rộng, khái quát thuộc tính phổ biến của vạn vật như: Nhu, thuận,
tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2, 4, 6...). Dương là phạm trù đối lập với Âm như Cương,
cường, sáng, khô, phía trái, số lẻ (1, 3, 5...)
Âm Dương không tồn tại biệt lập mà quan hệ biện chứng với nhau. Tư tưởng ấy được
xác định bởi ba nguyên lý căn bản sau:
+ Thứ nhất Âm Dương thống nhất trong Thái cực. Thái Cực là nguyên lý thống nhất của
Âm Dương. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn chỉnh thể cân bằng của cái đa dạng.
+ Thứ hai trong dương có âm, trong âm có dương. Nguyên lý này nói lên khả năng biến
đổi âm dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
+ Thứ ba Dương tiến đến đâu, Âm lùi đến đó. Âm thịnh, dương suy...
Để giải thích từ cái duy nhất đến cái đa dạng, phong phú của vạn vạt phái Âm Dương

đưa ra logic nhất định.
- Thái Cực sinh lưỡng nghi (Âm Dương)
- Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương - Thái Âm).Tứ
tượng sinh bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài). Bát quái sinh ra
vạn vật.
Tư tưởng triết học của Ngũ Hành
Khởi nguyên của vũ trụ, vạn vật: (5 yếu tố) Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
. Kim: Tượng trưng cho tính chất trắng, khô, cay phía tây
. Mộc: Xanh, chua, phía đông
. Thuỷ: Đen, mặn, phía bắc
. Hoả: Đỏ, đắng, phía nam
. Thổ: Vàng, ngọt, ở giữa.
5 yếu tố này tác động biện chứng. Thổ giữ vị trí trung tâm nơi hội tụ chuyển hoá của các
yếu tố còn lại.
Trong mối quan hệ với các yếu tố đó có 2 nguyên lí căn bản đó là tương sinh, tương
khắc.
. Tương sinh (Sinh hoá cho nhau): Kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh
thổ, thổ sinh kim.
13


. Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc
hoả, hoả khắc kim.
Tóm lại, giá trị lớn nhất về mặt triết học của thuyết âm dương, ngũ hành là ở chỗ nó
hướng tới sự suy tư của con người về những yếu tố khởi nguyên của vạn vật, về cội nguồn đầu
tiên của vận động, từ đó đưa ra cái nhìn mang tính chất biến dịch của vạn vật trong vũ trụ. Tuy
nhiên thuyết Âm dương Ngũ hành không đề cập đến quan điểm phát triển, nó đặc biệt nhấn
mạnh khía cạnh cân bằng (cân bằng Âm Dương, cân bằng Ngũ Hành) của vạn vật do đó không
đưa ra được những nguyên lý của sự phát triển- trung tâm của phép biện chứng với tư cách là
học thuyết về sự phát triển.


14


CHƯƠNG 2
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI, TRUNG ĐẠI
(5 tiết)
2.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
2.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Ấn Độ là một đất nước rộng, có nhiều tộc người, nhiều tôn giáo và có nền văn minh sớm.
Hơn 2000 năm TCN Ấn Độ đã có nền văn minh đô thị quanh lưu vực sông Ấn. Chủ nhân của
nền văn minh này là người Đraviđa to cao, da sậm, sống mũi sọc dừa. Đây là lúc xã hội Ấn Độ
cổ đại chuyển từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Thời kỳ này nông
nghiệp, thương nghiệp của Ấn Độ rất phát triển, thành phố xây dựng có quy hoạch, có cửa hiệu,
có chợ búa, có giếng nước và hệ thống tiêu nước.
Về văn hoá và khoa học của Ấn Độ cổ đại cũng rất phát triển, đây là thời kỳ của văn hoá Vệ
Đà. Người Ấn Độ cổ đại đã biết quả đất tròn, biết làm lịch, một năm có 12 tháng, một tháng có
30 ngày. Đặc biệt người Ấn Độ đã biết phát minh ra chữ số 0 và tính được số pi.
Đặc điểm lớn nhất ảnh hưởng đến toàn bộ các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hoá... là
sự tồn tại dai dẳng của chế độ công xã nông thôn. Trong xã hội chia thành 4 đẳng cấp lớn:
 Tăng lữ (miệng thần) đây là đấng tối cao có quyền sai khiến.
 Quí tộc (tay thần) đây là đẳng cấp của vua chúa, võ sĩ chuyên chinh chiến và giữ gìn an
ninh.
 Bình dân (bắp vế của thần) đây là đẳng cấp của thương nhân, đIền chủ và thường dân.
 Cùng đinh, nô lệ (chân của thần) đây là đẳng cấp của tôi tớ, nô lệ.
Ngoài ra có tầng lớp pa-ri-a bị coi là dơ bẩn, thấp hèn nhất đứng ngoài lề các đẳng cấp
khác. Sự phân chia đẳng cấp đó làm phức tạp thêm các quan hệ xã hội. Làn sóng chống lại giai
cấp thống trị ngày càng dấy lên mạnh mẽ.
Tôn giáo bao trùm trong đời sống xã hội. Con người sống nặng về tâm linh, thờ cúng nhiều
thần để tìm đường thoát tục. Đây cũng là một nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ đại. Tất cả

những nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, khoa học trên đây là những tiền đề cho sự nẩy
sinh và phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ thời cổ đại.
Qúa trình hình thành và phát triển triết học Ấn độ chia thành ba thời kỳ:
+ Thời kỳ Vê đa
Là thời kỳ tiền sử của triết học ấn độ cổ đại.
Con người quan niệm về thế giới bằng các biểu tượng huyền thoại, đa thần. Thể hiện trong
tác phẩm là kinh Vê đa và Upannisad.
Kinh Vê Đa là bộ kinh cổ nhất của Ấn Độ và nhân loại. Nó là sản phẩm của nhân dân Ấn
Độ bằng con đường truyền miệng. Chủ yếu là những bài văn, bài thơ.
Trên cơ sở quan niệm của kinh Vê đa mà Vê đa giáo đã ra đời. Đây là hình thức tôn giáo cổ
của Ấn Độ.
15


Upannisad là bộ kinh bình chú kinh Vêda, vừa mang tính tôn giáo vừa mang tính triết học.
Nó nêu lên những câu hỏi về thế giới như nguồn gốc thế giới do đâu? Con người cần sống như
thé nào để được hưởng cuộc sống hạnh phúc…
b. Thời kỳ cổ điển
Đây là thời kỳ phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, có nhiều trường phái triết học đối lập ra đời.
c. Thời kỳ hồi giáo
Từ thế kỷ thứ VII, Ấn Độ bị chia thành các vương quốc nhỏ, thôn tính lẫn nhau. Các tác
phẩm triết học bị đốt và mất đi rất nhiều trong thời kỳ này. Lợi dụng tình hình rối ren của xã hội
Ấn Độ lúc bấy giờ quân Ả Rập xâm chiếm Ấn Độ và du nhập đạo Hồi nên gọi là thời kỳ Hồi
giáo. Đây là thời kỳ phong kiến suy tàn ở Ấn Độ cổ đại.
2.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học tôn giáo chịu ảnh hưởng lớn bởi các tư tưởng tôn giáo. Trừ trường phái
Lokayata, các trường phái khác đều là sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và tư tưởng tôn
giáo. Ngay cả hai trường phái Janna và Phật giáo tuyên bố đoạn tuyệt với tôn giáo (truyền thống
văn hóa Vêdda) nhưng trong thực tế vẫn không thể vượt qua. Tuy nhiên, tính tôn giáo của Ấn
Độ có xu hướng hướng nội chứ không hướng ngoại như phương Tây đó là sự trở về của tâm

linh nhằm đạt tới sự giải thoát.
Triết học Ấn Độ đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề nhưng bản thể luận bàn đến nhiều hơn.
Duy vật và duy tâm, nhất nguyên nhị nguyên đan xen hòa quyện nhau, thể hiện sự đa
dạng và phong phú trong tư duy người Ấn Độ cổ.
2.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Ấn Độ cổ đại

Triết học Ấn Độ bắt nguồn từ kinh Vêđa.

Chínhthống
Khôngchínhthống
(công nhận tính đúng đắn của Vê đa, tin (chống
lại
kinh

vào thế giới bên kia)
không tin vào thế giới bên kia)


đa,



Mimansà, Veđànta, Samkhuya, Yoga, Lôkayata
Nỳaya, Vaisêsika
Phật giáo
Jaina giáo

2.2.1. Những trường phái triết học chính thống
a. Trường phái Mimansa
Mimansa là một trường phái triết học chính thống của triết học Ấn Độ cổ đại ra đời vào

khoảng thế kỷ II TCN. Xuất phát điểm của Mimànsa dựa vào bộ kinh Vêđa, Upanisad.
16


Mục đích của trường phái triết học này là nhằm chú giải, diễn tả những phương pháp cúng
bái lễ nghi tế lễ và thực hiện các chứng năng, bổn phận cụ thể của mỗi người trong xã hội.
Về mặt triết học trường phái này dựa vào những tư tưởng triết học, tôn giáo của kinh Vêđa
và Upanisad. Tức thừa nhận nguyên lí tối cao là tinh thần thế giới vô ngã - linh hồn cơ thể của
mỗi cá nhân là sự hiện thân của tinh thần thế giới vô ngã đó.
Về triết lý nhân sinh phái này cho rằng mục tiêu của con người là sự hoà đồng giữa linh hồn
cá nhân với tinh thần thế giới vô ngã nhờ việc duy trì đúng đắn các nghi lễ đạo đức tôn giáo. Họ
khuyên con người nên thực hiện đúng các lễ nghi tôn giáo để được hưởng cuộc sống hạnh phúc
khi về thế giới bên kia.
b. Trường phái Vêđanta
Trường phái Vêđanta ra đời từ phong trào biên soạn chú giải thánh kinh Vêđa, Upanisad.Tư
tưởng của phái này giống tư tưởng của phái Mimansa là đều dựa vào kinh Vêđa, Upanisad. Chỉ
có khácở chỗ là Mimansa thiên về giải thích nghi lễ của Vêđa. Còn Vêđanta lý giải, chứng minh
cho sự tồn tại của tinh thần thế giới Bratman trong Upanishad.
Trường phái Vêđanta phủ nhận sự tồn tại của thế giới vật chất, hình ảnh của nó chỉ là ảo
ảnh do vô minh đem lại. Chỉ có Brahman hay "tinh thần thế giới" là tồn tại vĩnh hằng, là khởi
nguyên của mọi sự vật hiện tượng. Linh hồn con người là hiện thân của Brahman. Để giải thoát
con người khỏi những ham muốn nhục dục do thể xác gây nên thì con người ra sức tu luyện,
chiêm nghiệm nội tâm để đưa linh hồn trở về đồng nhất với Brahman "tinh thần vũ trụ tối cao".
c. Trường phái Samkhya
Lý luận về bản nguyên vũ trụ là tư tưởng triết học trung tâm của trường phái này. Những
nhà triết học của phái Samkhya sơ kỳ đã bộc lộ tư tưởng duy vật, biện chứng. Theo họ yếu tố
tạo nên vạn vật của thế giới vật chất đó là "vật chất đầu tiên" (prakriti) - không.Vật chất là vĩnh
hằng nhưng không đứng yên mà nó biến đi không ngừng từ dạng này sang dạng khác.
Những nhà tư tưởng của phái hậu kỳ có khuynh hướng nhị nguyên khi thừa nhận sự tồn tại
song song của hai yếu tố vật chất và tinh thần. Tuy nhiên yếu tố tinh thần mang tính phổ quát

vĩnh hằng nó truyền sinh khí, năng lực biến hoá vào yếu tố vật chất.
d. Trường phái Yoga
Tư tưởng triết học cốt lõi của phái này là sự thừa nhận nguyên lí hợp nhất vũ trụ nơi mỗi cá
thể bằng phương pháp luyện tập nhất định. Từ đó có thể làm chủ được bản thân mình tiến đến
làm chủ điều khiển môi trường, vạn vật.
Có 8 phương pháp luyện tập:
+ Tiết dục, tự ức chế.
+ Tu hành khổ luyện, giữ tâm hồn trong sạch, vui vẻ.
+ Toạ pháp, gồm những qui tắc về tập luyện dáng bộ cử động và phương pháp tĩnh toạ
giữ cơ thể theo vị trí nhất định.
+ Điều khiển kiểm tra sự thở, không thở nhiều, trong óc không còn ý niệm nào nữa, trống
rỗng.
+ Điều khiển tư duy không cho các sự vật tác động vào.
17


+ Tập trung trí tuệ vào một đối tượng nào đó.
+ Thiền định tức tập trung cao độ vào một đối tượng chính.
+ Thiền cao độ tức làm chủ được bản thân, thấy mình chìm vào cõi không lâng lâng sáng
tạo.
e. Trường phái triết học Nyaya và Vaisêsika
Đây là hai phái khác nhau nhưng có những quan điểm triết học khá thống nhất, đặc biệt ở
giai đoạn cuối. Những tư tưởng triết học cơ bản của hai phái này là học thuyết nguyên tử, lí luận
nhận thức, logic học.
Vấn đề bản nguyên của thế giới
Hai trường phái này đều cho rằng tính đa dạng của thế giới là do 4 yếu tố đất, nước, lửa,
không khí tạo thành. Những yếu tố này lại được quy vào một bản nguyện đầu tiên đó là Nguyên
tử. Nguyên tử là phần tử nhỏ nhất, không phân chia được phân biệt bởi chất lượng, khối lượng,
hình dạng.Nguyên tử luôn vận động nhờ đó mà vạn vật được tồn tại trong không gian, thời gian,
sinh ra mất đi theo chu kỳ.

Bên cạnh sự thừa nhận (nguyên tử - Anu) phái này cho rằng có sự tồn tại của những linh
hồn (Ya) thể hiện ra: ước vọng, ý chí, vui buồn, giận. Hai phái này tìm đến yếu tố thứ ba chi
phối Anu và Ya, giúp linh hôn thoát khỏi nguyên tử. Phái Nyaya cho rằng đó là thần Isvara còn
phái Vaisêsika cho rằng đó là năng lực vô hình, không thể dùng ngôn ngữ, tư duy để diễn giải.
Về nhận thức luận và logic học
Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật, đã có đóng góp: đưa ra hệ thống các phạm
trù nhận thức, thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan của đối tượng nhận thức, đề cao vai
trò kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức.
Xây dựng ngũ đoạn luận.
2.2.2. Những trường phái triết học không chính thống
a. Trường phái triết học Lokayata
Lokayata là trường phái triết học duy vật tương đối triệt để khác xa với các trường phái
triết học Ấn Độ khác. Nó ra đời trong cuộc đấu tranh lâu dài chống sự thống trị của chủ nghĩa
duy tâm, phê phán chế độ phân biệt đẳng cấp khắc nghiệt, đòi tự do, bình đẳng.
Về bản nguyên thế giới phái này cho rằng do 4 yếu tố đất, nước, lửa, không khí tạo
thành. Sự hợp thành hay tan rã của chúng quy định sự tồn tại hay mất đi của con người vạn vật.
Các yếu tố đó luôn vận động làm cho sự vật hiện tượng vận động, đa dạng, phong phú.
Con người là sự hợp thành các yếu tố vật chất đó, không có linh hồn bất tử, linh hồn hay
ý thức cũng chỉ là một thuộc tính của cơ thể không thể tách rời độc lập với cơ thể. Rõ ràng tư
tưởng của phái Lokayata mang tính duy vật, biện chứng tự phát.
Về nhận thức luận phái này cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận thức,
phủ nhận tính chân xác của tri thức lý tính. Phái này phủ nhận cuộc sống ở thế giới bên kia, phê
phán quan điểm khuyên người ta kiềm chế mọi ham muốn. Từ đó họ chủ trương con người hãy
hưởng thụ mọi thú vui ở trên cõi đời trần tục. Chính vì vậy phái này được xem là đi theo chủ
nghĩa khoái lạc.
18


b. Trường phái Jaina giáo
Trường phái Jainagiáo cho rằng thế giới vật chất không do ai sáng tạo ra, linh hồn cũng

không ai sáng tạo ra. Các vật thể mà con người cảm giác đượcđó chính là nguyên tử. Nguyên tử
hết sức nhỏ bé không phân chia được, tồn tại vĩnh viễn không do ai sáng tạo ra. Để linh hồn
thoát khỏi những ham muốn nhục dục của thể xác thì phải tu luyện theo đạo Jaina phải bất sát,
bất bạo lực, sống khổ hạnh, không có của riêng, ăn chay...
Trong quá trình thực hành tu luyện đạo Jaina chia thành hai phái không mặc quần áo và
mặc quần áo trắng biểu thị đạo đức trong sạch hoà quyện với thiên nhiên.
c. Triết học Phật giáo
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện khoảng cuối thế kỷ VI TCN ở miền
Bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra là Siddhattha (Tất Đạt Đa, Thích Ca Mâu Ni - con trai vua Tịnh
Phạn ở Bắc Ấn Độ). Tất Đạt Đa sinh ngày 8.4.563 TCN mất năm 483 TCN.
Phật giáo ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ phân biệt
đẳng cấp khắc nghiệt, đòi tự do tư tưởng, tìm cách giải thoát con người khỏi nỗi khổ trầm luân
trong xã hội Ấn Độ cổ đại.
- Thế giới quan
Triết học phật giáo có tính duy vật vô thần chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
Phật giáo cho rằng: Vũ trụ là bao la vô cùng vô tận, vạn vật trong thế giới chỉ là dòng biến hoá
vô thường vô định không do một vị thần nào sáng tạo ra.Vì thế giới là dòng biến ảo vô thường
không ngừng không nghỉ nên không có cái "bản ngã" hay cái "tôi". Tất cả đều biến hoá theo chu
trình sinh- trụ -dị- diệt. Tất cả đều bị chi phối ở luật nhân duyên. Nhân nào quả nấy. Cứ như vậy
làm cho sự vật sinh hoá hoá không ngừng.
Thế giới kể cả con người cấu thành từ ngủ uẩn( Sắc - Thụ - Tưởng - Hành - Thức) gọi là
Danh Sắc
. Danh (tinh thần)
. Sắc (vật chất)
Danh Sắc chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác
(không có cái tôi). Sự tồn tại của thời gian là dòng biến chuyển liên tục (vô thường) không thể
tìm ra nguyên nhân đầu tiền, thế giới không ai sáng tạo ra, không có cái gì là vĩnh hằng.
Như vậy Phật giáo đã bác bỏ đấng sáng tạo Bratman, tiếp thu tư tưởng luân hồi (tức bánh
xe quay) của Upanisad.
- Nhân sinh quan

Nhân sinh quan được xem là vấn đề trọng tâm của triết học Phật giáo. Nhà Phật cho
rằng: "Đời người là bể khổ", "Nước của bốn biển không bằng nước mắt chúng sinh". Mục đích
cuối cùng của nhà Phật là tìm ra con đường giải thoát con người khỏi nổi khổ của xã hội ấn độ
cổ đại. Để đi tới giải thoát Phật giáo nêu lên "Tứ diệu đế". Đây là 4 chân lí tuyệt diệu thiêng
liêng mà mọi người phải nhận thức được đó là Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế, Đạo đế.
+ Khổ đế:Theo nhà Phật con người có tám nổi khổ gọi là bát khổ
.Ngoài nổi khổ vì sinh, lão, bệnh, tử, con người còn có bốn nổi khổ khác đó là:
19


Thụ biệt ly tức yêu nhau mà phải xa nhau.
Oán tăng hội tức ghét nhau mà phải tụ hội với nhau.
Sở cầu bất đắc tức muốn mà không được
Thủ ngủ uẩn tức khổ vì có sự tồn tại của thân xác.
Con người đi đâu làm gì cũng khổ. Tám nổi khổ đó có nguyên nhân của nó gọi là Nhân
đế. Nhân đế là các nguyên nhân của nỗi khổ, nhà phật cho rằng có 12 nguyên nhân của nổi khổ
(thập nhị nhân duyên).
. Vô minh: Không sáng suốt, không nhận biết được thế giới.

.

. Hành: ý muốn thúc đẩy hành động gây ra nổi khổ.
. Thức: Mất cân bằng của ý thức con người
. Danh - Sắc: Sự kết hợp các yếu tố Danh - Sắc.
. Lục nhập: Các yếu tố bên ngoài của đời sống trần tục tác động vào.
. Thụ: Cảm nhận được các mối quan hệ bên ngoài.
. Ái: Nảy sinh dục vọng của đời sống con người.
. Thủ: Giữ lấy, chiếm lấy cái mà mình thích.
. Hữu: Tận hưởng cái mình đã chiếm được.
. Sinh: Sự sinh thành của những yếu tố tạo nghiệp

. Lão - Tử: Già chết đi nhưng nảy sinh nổi khổ mới.
Phật cho rằng những nỗi khổ đó có thể tiêu diệt được (Diệt đế) vòng luân hồi có thể
chấm dứt đạt để cảnh Niết Bàn. Con người nhận thức được chân lý, giải thoát trần tục.
Muốn giải thoát được nổi khổ thì phải tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm nội tâm, thực
nghiệm tâm linh theo 8 phương pháp chủ yếu (Bát chính đạo) hay còn gọi là Đạo đế.
. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn (tứ diệu đế)
. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
. Chính ngữ: Nói năng đúng đắn
. Chính nghiệp: Giữ nghiệp đúng đắn, không làm điều xấu.
. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn
. Chính tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực không biết mệt mỏi
. Chính niệm: Tin tưởng vào sự giải thoát
. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng vào một chỗ
Đó là những con đường khổ giúp con người có cuộc sống thanh tịnh siêu phàm, ở đó con
người không còn ham muốn dục vọng, không phiền não khổ đau, cuộc đời lâng lâng nơi tiêng
cảnh niết bàn.

20


CHƯƠNG 3
TRIẾT HỌC HY LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI
(5 tiết)
3.1. Điều kiện lịch sử và những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp và La Mã cổ
đại
3.1.1. Điều kiện lịch sử ra đời của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại
Hy Lạp là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuất hiện rất sớm
và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của
tư tưởng triết học sau này. Thời kỳ này nổi bật lên với tên tuổi của các nhà duy vật như:
Đêmôcrít, Hêraclít, Arixtốt, Êpiquya...

Nếu lật lại bản đồ thời cổ đại, chúng ta dễ dàng nhận thấy, Hy Lạp cổ đại là một vùng đất
rộng lớn, lớn hơn ngày nay rất nhiều. Hy Lạp cổ đại bao gồm miền Nam bán đảo Bancăng,
vùng ven biển Tiểu Á và các đảo của vùng biển Ê-giê.
Thiên nhiên ban tặng cho Hy Lạp cổ đại tọa lạc ở một vị trí vô cùng thuận lợi. Khí hậu,
đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy
bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
ĐKTN khác nhau giữa các vùng góp phần quyết định sự phát triển khác nhau của nền
KT và do đó cũng quyết định các mặt khác trong đời sống xã hội, kể cả các quan điểm triết học.
Nền kinh tế của Hy Lạp thời kỳ này có thể gọi là phát triển đều về nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp. Aten phát triển mạnh mẽ về thủ công nghiệp và thương nghiệp. Còn ở
vùng Spar lại tăng trưởng về nông nghiệp. Cơ sở của nền kinh tế dựa trên chế độ CHNL. Nô lệ
là những người giữ vai trò rất quan trọng trong sản xuất. Lực lượng nô lệ chiếm đa số dân cư đã
quyết định sự đi lên mạnh mẽ của nền kinh tế thời kỳ này, mặc dù họ bị coi là “công cụ biết
nói”, “động vật biết nói”. Nhờ sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, trong XH diễn ra sự phân công
lao động: lao động chân tay và lao động trí óc. Điều đó góp phần vào việc phát sinh các ngành
khoa học, trong đó có triết học.
Như vậy, phân công lao động phát triển cho phép trong XH xuất hiện tầng lớp những
người chuyên sống bằng lao động trí óc càng tạo điều kiện nảy sinh các tư tưởng triết học.
Không có sự phân chia lao động và sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay thì
không thể xuất hiện các tri thức triết học và khoa học làm phá vỡ ý thức hệ thần thoại và các tôn
giáo nguyên thủy thống trị thời bấy giờ. Vì thế, ngay từ khi mới ra đời, các tư tưởng triết học đã
mang tính giai cấp sâu sắc.
Chế độ CXNT tan rã, chế độ CHNL ra đời. XH có g/c đầu tiên của loài người xuất hiện
với hai g/c cơ bản đầu tiên là chủ nô và nô lệ. Bên cạnh đó còn có dân tự do. Nô lệ không được
tham gia và không đủ khả năng tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa. Họ không có
một chút quyền lợi nào ngoài sự lao động bị cưỡng bức tàn bạo.
Chế độ nô lệ là một chế độ XH có hình thức áp bức bóc lột tàn bạo nhất, vô nhân đạo
nhất trong lịch sử XH loài người. Do vậy, những cuộc nổi dậy tự phát của nô lệ chống lại bọn
chủ nô luôn diễn ra. Song họ lại không có khả năng xây dựng một thế giới quan phản ánh
những quyền lợi của mình, vì bị lao động chân tay nặng nề và ko có một ngôn ngữ chung, tiếng

nói chung bởi họ xuất thân từ nhiều bộ lạc khác nhau. Tuy nhiên, nhờ có chế độ đó, giai cấp chủ
21


nô mới có thể thoát ly được các hoạt động của lao động chân tay vất vả để xây dựng các khoa
học, trong đó có triết học, nghệ thuật. Như Ăngghen khẳng định: ... Nếu không có chế độ nô lệ
thì không có quốc gia Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp.
Chế độ nô lệ hình thành, sự phát triển về mọi mặt đời sống kinh tế dần dần dẫn tới sự
tách rời nông thôn và thành thị. Các quốc gia tỉnh thành Hy Lạp được thành lập. Đó là nơi tập
trung những cơ quan kinh tế, chính trị do chủ nô đặt ra nhằm bảo vệ và củng cố quyền sở hữu,
quyền áp bức bóc lột của họ đối với nô lệ và dân tự do. Sự thành lập và phát triển của các thành
thị góp phần làm cho văn hóa Hy Lạp tiến bộ và phát triển.
Đặc điểm về phương diện chính trị của chế độ nô lệ Hy Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh giai
cấp ngày càng gay gắt và phức tạp giữa chủ nô và nô lệ, giữa những người giàu có và dân tự do.
Trong bản thân giai cấp chủ nô cũng mâu thuẫn với nhau. Đó là mâu thuẫn giữa chủ nô quý tộc
ở thành bang Spar với chủ nô dân chủ tập trung ở thành bang Aten. Địa vị của chủ nô dân chủ
về kinh tế và chính trị ngày càng được nâng cao, song họ lại bị chủ nô quý tộc kìm hãm. Vì thế,
tầng lớp chủ nô dân chủ phải đấu tranh quyết liệt để đòi quyền lợi, điều đó được phản ánh rõ nét
trong triết học.
Sự phát triển của nền sx nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và hàng hải của
Hy Lạp cổ đại đã đặt ra những nhu cầu thực tiễn quyết định sự phát sinh và phát triển những tri
thức về thiên văn học, khí tượng học, toán học và vật lý học. Tuy những tri thức này còn ở hình
thức ban đầu, nhưng đã được trình bày ở trong các hệ thống triết học – tự nhiên của các nhà
khoa học. Vì khoa học mới hình thành, nên chưa phân ngành cụ thể. Điều đó thể hiện rõ trong
tri thức của các nhà khoa học. Các nhà triết học đồng thời là nhà toán học, lý học, đạo đức
học,... Qua đó thấy rõ triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã gắn chặt với nhu cầu của
thực tiễn và ko thể tách khỏi các khoa học. Tuy nhiên các tư tưởng triết học thời kỳ này còn
được hình thành một cách tự phát. Nói cách khác, chúng không được các nhà triết học cổ đại ý
thức một cách tự giác. Dưới con mắt của họ, triết học ra đời từ nhu cầu hiểu biết của con người.
Quan niệm đó được Arixtốt viết: Chính “sự ngạc nhiên đã thức tỉnh mọi người triết lý. Lúc đầu

họ ngạc nhiên bởi những điều trực tiếp làm họ băn khoăn, sau đó họ dần dần đặt ra những vấn
đề cơ bản hơn, chẳng hạn như về sự thay đổi vị trí của mặt trăng, mặt trời và các vì sao, và cả
về nguồn gốc vũ trụ”.
Sự phát triển của Hy Lạp cổ đại là sự liên minh giữa các quốc gia thành bang, trong đó
có hai thành bang hùng mạnh nhất là Aten và Spac. Aten là quốc gia thành bang có điều kiện
thuận lợi về mọi mặt, nên sớm trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại và là nơi
sinh ra nền triết học châu Âu. Đây cũng là nơi hình thành thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ.
Spac là thành bang có điều kiện hết sức thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Nơi đây cũng thiết
lập một thiết chế nhà nước quân chủ để bảo vệ, củng cố sự cai trị độc đoán, tiến hành sự áp bức,
bóc lột tàn bạo đối với nô lệ.
Sự tranh giành quyền bá chủ của Hy Lạp giữa hai thành bang trên đã trở thành một cuộc
chiến tranh tàn khốc kéo dài trên 30 năm, làm cho đất nước Hy Lạp suy yếu, LLSX bị tàn phá
nghiêm trọng. Chiến tranh, nghèo đói đã châm ngòi cho các cuộc nổi dậy của nô lệ. Chớp lấy
thời cơ, nhà nước Maxêđoan ở phía Bắc Hy Lạp, dưới sự chỉ huy của vua Phillip đã đem quân
thôn tính toàn bộ Hy Lạp, và đến TK II TCN, Hy Lạp một lần nữa lại rơi vào tay đế chế La Mã.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu
của việc kế thừa những di sản tinh túy của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần
22


thoại, trong các hình thái sinh hoạt tôn giáo, trong các mầm móng của tri thức khoa học và là
kết quả của đời sống kinh tế - xã hội.
Đứng trước thế giới bao la và đầy bí ẩn với tư duy non trẻ của mình, con người ko thể có
được lời giải đáp thuyết phục. Vì vậy, con người phải viện dẫn đến năng lực tưởng tượng để
diễn giải những kỳ bí của tự nhiên. Thần thoại trở thành sự đối diện đầu tiên của con người với
tự nhiên.
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thần thoại và sử thi. Thần thoại không chỉ giúp ta truy tìm
về nguồn gốc của các sự vật cụ thể, của mỗi hiện tượng tâm linh, của những trạng thái tâm lý,
của sự hình thành, của cái hữu hạn và cái vô hạn... mà còn là một thế giới đầy tất bật, toan tính
và sống động như đời thường. Nền tảng hiện thực của tư duy đã lộ ra khi bức màn tưởng tượng

được vén lên.
Sự xuất hiện của các nhà triết học đầu tiên đã làm thành bước rẽ trong sự phát triển của
thần thoại. Những viễn cảnh bóng bẩy do tư duy của con người tạo ra đã bớt đi sự hấp dẫn,
trong khi những nhu cầu của đời sống thường nhật đã trở nên bức bách, đòi hỏi phải được cắt
nghĩa bằng tri thức chân thực. Niềm tin chất phác, ngây thơ vào sự tồn tại của thần thánh đã
được thay thế bằng những luận giải sâu sắc của lý tính, của sự thông thái. Đó là lý do vì sao các
nhà triết học lại được gọi là “những người yêu mến sự thông thái”.
Theo truyền thuyết thì Pythagore là người đầu tiên đã gọi những người dùng lý tính của
mình để suy tư về lẽ sống, tìm kiếm chân lý, là những nhà triết học.
Vào TK IX cho đến TK VII TCN, đó là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng
sang thời đại đồ sắt. Bằng chất liệu sắt, người Hy Lạp đã đóng được những chiếc thuyền lớn
cho phép họ vượt biển Địa Trung Hải để tìm kiếm những miền đất mới. Nhờ đó mà lãnh thổ Hy
Lạp được mở rộng.
Do nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước
phương Đông đã trở nên thường xuyên. Khi những con thuyền tung mình lướt sóng thì tầm nhìn
của người Hy Lạp cổ đại cũng được mở rộng, các thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã
làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa lý, hệ thống
đo lường, lịch pháp... và cả những yếu tố huyền học cũng được người Hy Lạp đón nhận. Các
nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp thường là người đã nhiều lần du lịch sang phương Đông, hoặc
sinh ở khu vực Cận Đông như Thalès, Hylon, Pythas, Solon, Périandre...
Tuy vậy, không nên hiểu một cách đơn giản triết học Hy Lạp chỉ là sự kế thừa thuần túy
những tư tưởng ở bên ngoài, mà điều kiện quyết định sự hình thành và phát triển của triết học
Hy Lạp là kết quả nội sinh tất yếu của cả một dân tộc, một thời đại, Marx viết: “Các nhà triết
học không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình
mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy nhất đã được suy tư trong khái
niệm triết học”.
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại được chia làm ba thời kỳ sau đây:
- Triết học thời kỳ tiền Socrate: Về mặt thời gian đây là buổi đầu của chế độ CHNL.
Triết học với những bước chập chững đầu tiên đi lý giải những vấn đề của tư duy và tồn
tại vì vậy chưa thoát khỏi sự ảnh hưởng của thần thoại và tôn giáo. Thế giới quan triết học còn ở

trình độ sơ khai. Triết học tự nhiên chiếm ưu thế.
23


Các trường phái tiêu biểu là trường phái Milet, trường phái Pythagore, trường phái
Hécraclite, trường phái Élée... Các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên.
Một vài vấn đề khác cũng được triết học khơi mào như nguồn gốc của sự sống, đối tượng
của nhận thức...nhưng vấn đề chủ yếu vãn là vấn đề bản thể luận.
- Triết học thời kỳ Socrate (hay còn gọi là triết học thời kỳ cực thịnh). Các triết gia thời
kỳ trước say mê với tự nhiên nhưng lại quên mất vấn đề cực kỳ thiết thân và nhạy cảm, đó là
vấn đề con người.
Khi Socrate tuyên xưng “con người hãy tự ý thức về bản thân mình”, thì ông đã tạo ra
một bước ngoặt trong sự phát triển của triết học. Người ta bảo ông đã đưa triết học từ trên trời
xuống bám rễ ở trần gian. Cùng với Protagore, chủ nhân của khẳng định “con người – thước đo
của vạn vật”, Socrate đã tấu lên bài ca về con người. Đó là con người với đầy những nổ lo toan
vất vả, vật lôn với cuộc sống hàng ngày...trong khát vọng vươn lên để hiểu chính mình, rông ra
là hiểu những gì xung quanh nó và cao hơn là xác lập được chỗ đứng, thân phận của nó trong sự
mênh mông của vũ trụ. Nghĩa là triết học phải từ con người, vì con người sau mới đến những
cái khác.
Đây là thời kỳ của những triết gia lừng danh, làm rạng rỡ nền văn hóa Hy Lạp như
Platon, Aristote, Démocrite... và tất nhiên là không thể thiếu Socrate.
- Thời kỳ Hy Lạp hóa. Trong lịch sử, có lẽ Hy Lạp cổ đại là đất nước mở đầu cho hiện
tượng là một đất nước bị thôn tính về mặt lãnh thổ, khuất phục về mặt chính trị nhưng đồng hóa
được kể xâm lược bằng những giá trị của văn hóa.
Cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Aten và Spac đã dẫn đến Hy Lạp thuộc về Maxêđoan
nhưng rồi cả Maxêđoan lẫn Hy Lạp đã bị La Mã chinh phục. Song La Mã lại phải khuất phục
trước những giá trị của nền văn hóa rực rỡ này. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Hy Lạp
hóa”.
Triết học của thời kỳ này không còn rực rỡ, sôi nổi như thời kỳ trước, “hậu sinh” nhưng
ko “khả úy”. Các triết gia bàng quan, lãng tránh những vấn đề trung tâm của triết học mà hướng

vào thế giới bên trong, chìm đắm với những suy tư về định mệnh, ngập chìm trong đời sống
tình cảm, những ham muốn,...
Và cái chết của triết học cổ đại đã được báo trước, bằng sự ra đời của Cơ đốc giáo trên
mãnh đất triết học đang suy tàn, mà lúc đó người Hy Lạp gọi bằng cái tên Crixtô.
3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại
Ra đời, phát triển trong điều kiện và hoàn cảnh lịch sử như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại
có những đặc điểm chính sau đây:
- Thứ nhất, Triết học Hy – La cổ đại là thế giới quan và ý thức hệ của g/c chủ nô thống
trị trong XH lúc bấy giờ. Như vậy, ngay từ đầu triết học Hy – La cổ đại đã mang tính g/c sâu
sắc. Bất chấp mọi bất công và tệ nạn XH thời đó, triết học Hy – La cổ đại vẫn là một công cụ lý
luận nhằm duy trì trật tự XH theo kiểu CHNL, bảo vệ sự thống trị của g/c chủ nô. Vì vậy, đó là
lý do tại sao phần lớn các nhà triết học thời kỳ này đều coi nô lệ ko phải là con người mà chỉ là
công cụ biết nói. Chẳng hạn, Platon coi nông dân và thợ thủ công là hạng người thấp nhất trong
“nhà nước lý tưởng” của ông.

24


- Thứ hai, Triết học Hy – La cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực thế
giới quan của con người cổ đại. Nó là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của nhận thức nhân loại
từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ hai ở phương Tây, vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn
đề cơ bản của thế giới theo nghĩa hiện đại của khái niệm này và là một hệ thống tập hợp các tri
thức về tự nhiên, con người. Mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai, mộc mạc nhưng vô
cùng phong phú và đa dạng. Ăngghen đã nhận xét: “Chính là vì trong các hình thức muôn vẻ
của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau
này”.
- Thứ ba, Triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người. Khẳng định con
người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới, là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Tư
tưởng ấy được thể hiện rõ qua luận điểm nổi tiếng của Pitago: “Con người là thước đo tất thảy
mọi vật”. Triết học Xôcrát đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển tư tưởng triết học ở Hy

– La cổ đại, từ chỗ chủ yếu bàn về các vấn đề căn nguyên, bản chất của thế giới và sự nhận thức
chúng tới việc coi triết học là tự ý thức của con người về chính bản thân mình. Từ đây, những
vấn đề thiết thực của cuộc sống con người trở thành một trong những đề tài chính của triết học.
Tuy nhiên, mặc dù con người đã được xem xét trong đời sống thực của nó nhưng vẫn chỉ là con
người cá thể, giá trị thẩm định con người chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức
luận. Phép biện chứng được hiểu như nghệ thuật tranh luận được đặc biệt coi trọng. Hoạt động
thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
- Thứ tư, xét về mặt lịch sử, triết học cổ đại Hy Lạp mang tính chất duy vật tự phát và
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật, hiện tượng; giải thích thế giới như một chỉnh
thể thống nhất, thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Hêraclit đã nhận ra một chân
lý nổi tiếng: trong cùng một thời điểm, sự vật đồng thời vừa là nó lại vừa là cái khác. Vì vậy,
“không ai có thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông” đã trở thành luận điểm bất hủ của ông.
Với tư cách đó, những tư tưởng biện chứng của Triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức
đầu tiên của phép biện chứng. Tuy nhiên, đó chỉ là phép biện chứng ở trình độ sơ khai.
(Tìm hiểu những đóng góp và hạn chế của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại)
3.2. Một số trường phái và triết gia tiêu biểu của triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại
3.2.1. Trường phái triết học Milet
Trường phái triết học Milet là trường phái của các nhà triết học đầu tiên xứ Iônia – một
vùng đất nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, nằm trải dài trên miền duyên hải Tiểu Á, nắm giữ những
huyết mạch giao thông, là cửa ngõ đi về phương Đông, và là trung tâm kinh tế, văn hóa của thời
kỳ CHNL. Nơi đây được xem là quê hương của nhiều trường phái triết học và triết gia nổi tiếng.
Trường phái Iônia có 3 tác giả chính là: Talét, Anaximen và Anaximandre. Đóng góp
quan trọng nhất của trường phái này là đã đặt nền móng cho sự hình thành các khái niệm triết
học để các triết gia sau này tiếp tục bổ sung và làm phong phú thêm như khái niệm: chất, không
gian, độ, sự đấu tranh của các mặt đối lập,... Một điều đáng quý nữa là các triết gia đã xuất phát
từ thế giới để giải thích thế giới, khẳng định thế giới xuất phát từ một khởi nguyên vật chất duy
nhất.
* Talét (khoảng 625 – 547 TCN)
Talét được coi là người sáng lập trường phái triết học Milê và được xem là một trong bảy
nhà hiền triết tài danh nhất lúc bấy giờ. Ông vừa là một nhà triết học, nhà toán học, vật lý học

và thiên văn học. Ở bất cứ lĩnh vực nào ông cũng có những đóng góp quan trọng. Qua một số tư
25


×