Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.03 KB, 70 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN CHÍ TIẾN

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN CHÍ TIẾN

PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ
ĐẦU TƯ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG BÌNH
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRẦN ĐÌNH HẢO



HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” là kết quả của quá trình học, nghiên
cứu độc lập và nghiêm túc. Tất cả các tài liệu tham khảo, các đoạn trích dẫn
và số liệu sử dụng trong luận văn này đều được dẫn nguồn và đảm bảo chính
xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tác Giả

Trần Chí Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI ĐẦU
TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ ............................................................................. 6
1.1. Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ................................................................... 6
1.2. Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ............................................. 12
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ
TRỢ ĐẦU TƯ ................................................................................................ 19
2.1. Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam ....... 19
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tại tỉnh
Quảng Bình ..................................................................................................... 27
Chương 3. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ƯU
ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ......................................................... 48
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư ............................................................. 48
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư ............................................................................. 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Nxb

: Nhà xuất bản

HĐND

: Hội đồng nhân dân

FDI

: Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

PPP

: Public Private Partner
Hình thức hợp tác công tư

TT

: Thứ tự


Tr

: Trang

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Bảng 2.1.

Danh mục các dự án trọng điểm kêu gọi đầu tư tại

29

Quảng Bình
Bảng 2.2.

Mức hỗ trợ bồi thường, giải phóng mặt bằng tối đa

31


Bảng 2.3.

Mức hỗ trợ giá trị xây lắp trước thuế, thực hiện đường

31

giao thông từ trục đường chính đến hàng rào của dự án
Bảng 2.4.

Mức hỗ trợ giá trị xây lắp trước thuế, thực hiện các
hạng mục: đường điện và hệ thống cấp, thoát nước đến
hàng rào của dự án

33


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là biện pháp để Nhà nước khuyến khích
đầu tư, thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Thông qua việc
ban hành và áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư, Nhà nước chủ động
cơ cấu lại nền kinh tế theo lĩnh vực, vùng miền. Với tầm quan trọng như vậy,
trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về
ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến
đầu tư ở Việt Nam. Các chủ trương, chính sách về ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư
đã được thể chế hóa thành pháp luật và trở thành một chế định quan trọng của
Luật Đầu tư và pháp luật có liên quan.
Cùng với tiến trình phát triển của Việt Nam, pháp luật ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư đã dần dần được hoàn thiện, tạo dựng môi trường pháp lý ngày
càng thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh và cộng đồng doanh

nghiệp, đẩy mạnh thu hút đầu tư cho sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của quá trình
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính
sách mới về phát triển kinh tế sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, một số
quy định pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn.
Quảng Bình là tỉnh nằm ở khu vực Bắc Trung Bộ, trong những năm qua,
để thực hiện mục tiêu thoát khỏi nhóm tỉnh nghèo, trở thành tỉnh có mức thu
nhập ngang với mức bình quân chung của cả nước, tỉnh Quảng Bình đã đẩy
mạnh công tác kêu gọi, thu hút đầu tư, ban hành các cơ chế, chính sách ưu
đãi, hỗ trợ đầu tư nhằm thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn đến đầu tư trên địa
bàn. Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị, Quảng Bình đã tạo được những
chuyển biến tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao chỉ số

1


năng lực cạnh tranh, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn. Tuy nhiên, quá trình thực hiện pháp luật ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư tại tỉnh đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế cần thiết phải
nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ở tỉnh Quảng Bình nói riêng và trong cả nước nói
chung.
Xuất phát từ thực tiễn và những phân tích ở trên tác giả quyết định lựa
chọn đề tài: “Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ thực tiễn tỉnh
Quảng Bình” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là vấn đề được nhiều tác giả,
nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây, như: Tác giả Lê
Thị Lệ Thu, Pháp luật về ưu đãi đầu tư ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Trường Đại học Luật Hà Nội (2006). Tác giả Phạm Thị Thanh Ngọc,
Pháp luật của Việt Nam về ưu đãi đầu tư với thực tiễn ở tỉnh Quảng Ngãi,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội (2008). Tác giả
Dương Nguyệt Nga, Pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm và khuyến
khích đầu tư trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học - xã hội Việt Nam
(2009). Tác giả Đinh Hải Yến, Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011). Tác giả Nguyễn Thị Trang,
Pháp luật về ưu đãi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong Khu công nghiệp
hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2014). Tác giả Phùng Lê Hải, Pháp luật
về xúc tiến đầu tư từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học - xã hội Việt Nam (2016).

2


Mỗi công trình nghiên cứu có sự nhìn nhận pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ
trợ đầu tư từ các khía cạnh khác nhau, nhưng chủ yếu nghiên cứu trước năm
2014. Từ khi Luật Đầu tư năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày
26/11/2014, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015, thay thế cho Luật Đầu tư năm
2005 đến nay, có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách bao quát và đi sâu đánh giá các quy định
của pháp luật cả về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ thực tiễn một địa phương
cụ thể. Đây là luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
diện pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ thực tiễn một địa phương cụ
thể kể từ khi Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực cho đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
về pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư; đánh giá thực trạng pháp luật về ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Từ đó, đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
được xác định là:
(i) Đi sâu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư, như: khái niệm, bản chất, vai trò ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư;
khái niệm, đặc điểm pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư, các yếu tố cấu
thành quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư.
(ii) Đánh giá thực trạng pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư từ khi
thực hiện Luật Đầu tư năm 2014 đến nay. Rút ra những vấn đề còn bất cập
giữa lý luận với pháp luật hiện hành và với thực tiễn, từ đó đề xuất, kiến nghị

3


giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về pháp luật
ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư; thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu
tư ở Việt Nam và thực tiễn thực thi pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ở
tỉnh Quảng Bình trong khoảng thời gian từ khi Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu

lực (ngày 01/7/2015) đến thời điểm nghiên cứu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan
điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
đầu tư nói chung, về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, diễn dịch, quy nạp, phương pháp phỏng vấn. Phương pháp phân
tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp được sử dụng ở cả 03 chương để làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận, cũng như đánh giá thực trạng và đề xuất, kiến nghị giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp
phỏng vấn được sử dụng chủ yếu ở chương 2, nhằm đánh giá đúng và đầy đủ
thực trạng pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học
pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ Luật học, nghiên cứu pháp luật về
ưu đãi và hỗ trợ đầu tư từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình. Kết quả nghiên cứu và
những kiến nghị của luận văn góp phần gợi mở để tiếp tục hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy pháp luật về ưu đãi
đầu tư, hỗ trợ đầu tư trong các trường học; làm tài liệu tham khảo cho các cán

bộ, công chức nhà nước làm công việc liên quan pháp luật về ưu đãi đầu tư,
hỗ trợ đầu tư và làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, nhà nghiên cứu
trong quá trình sơ kết, tổng kết, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư năm 2014.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.
Chương 3: Đề xuất, kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
1.1. Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
1.1.1. Khái niệm ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, (2008) thì Ưu đãi nghĩa là “chú trọng, dành cho những quyền lợi điều
kiện tốt hơn những đối tượng khác” [17, Tr 1732].
Luật Đầu tư năm 2014 không có điều, khoản nào giải nghĩa cụm từ “ưu
đãi đầu tư”. Tuy nhiên, qua định nghĩa “ưu đãi” của Từ điển Tiếng Việt và
nội dung các quy định về ưu đãi đầu tư trong Luật Đầu tư năm 2014, có thể
hiểu: Ưu đãi đầu tư là việc Nhà nước tạo ra những quyền lợi, lợi ích đặc biệt
dành cho nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh
vực, địa bàn hoặc đầu tư vào dự án đáp ứng điều kiện do Nhà nước đặt ra.
Những ưu đãi đó có thể là ưu đãi về thuế, miễn, giảm tiền thuê đất hay những

ưu đãi khác mà Nhà nước cam kết ưu đãi dành cho nhà đầu tư khi tiến hành
hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, (2008) thì Hỗ trợ nghĩa là “giúp đỡ nhau, giúp thêm vào” [17, Tr 733]
Luật Đầu tư năm 2014 không có điều, khoản nào giải nghĩa cụm từ “hỗ
trợ đầu tư”. Tuy nhiên, qua định nghĩa “hỗ trợ” của Từ điển Tiếng Việt và nội
dung các quy định về hỗ trợ đầu tư trong Luật Đầu tư năm 2014, có thể hiểu:
Hỗ trợ đầu tư là việc Nhà nước giúp nhà đầu tư thực hiện một số nội dung
công việc của nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt
Nam. Theo quy định tại Điều 19, Điều 20 và Điều 21, Luật Đầu tư năm 2014
thì Nhà nước hỗ trợ đầu tư thông qua các hình thức, như: Hỗ trợ phát triển hệ

6


thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào dự án;
hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; hỗ trợ tín dụng; hỗ trợ tiếp cận mặt
bằng sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ di dời cơ sở sản xuất ra khỏi nội thành, nội
thị; hỗ trợ khoa học, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ phát triển thị
trường, cung cấp thông tin; Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển; hỗ trợ phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
khu kinh tế; phát triển nhà ở và công trình dịch vụ, tiện ích công cộng cho
người lao động trong khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là hai khái niệm khác nhau về bản chất,
ưu đãi đầu tư là việc Nhà nước dành cho nhà đầu tư những ưu tiên đặc biệt
hơn về quyền lợi, lợi ích khi tham gia đầu tư vào những địa bàn, lĩnh vực, dự
án đáp ứng điều kiện do Nhà nước đặt ra, còn hỗ trợ đầu tư là việc Nhà nước
giúp nhà đầu tư thực hiện một số công việc cụ thể nào đó mà đáng lẽ nội dung
công việc này nhà đầu tư phải thực hiện trong quá trình đầu tư. Ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư luôn gắn với điều kiện nhà nước đặt ra, nhưng điều kiện của

ưu đãi đầu tư phải do Luật quy định, còn điều kiện của hỗ trợ đầu tư có thể do
Luật hoặc văn bản dưới Luật quy định. So với ưu đãi đầu tư thì hình thức và
điều kiện hỗ trợ đầu tư đa dạng và linh hoạt hơn. Các trường hợp được ưu đãi
đầu tư có thể đồng thời được hỗ trợ đầu tư.
Cũng cần phân biệt hỗ trợ đầu tư theo Luật Đầu tư với các biện pháp trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo quy định tại Nghị định số
56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa thì các chính sách trợ giúp của Nhà nước đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: Trợ giúp tài chính, mặt bằng sản xuất, đổi mới,
nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật, xúc tiến mở rộng thị trường,
tham gia kế hoạch mua sắm, cưng ứng dịch vụ công, về thông tin và tư vấn,
trợ giúp phát triển nguồn nhân lực, vườn ươm doanh nghiệp, đây chính là

7


chính sách do Chính phủ ban hành để cụ thể hóa Luật Đầu tư và Luật Doanh
nghiệp. Có thể thấy, các chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa có sự tương đồng rất lớn với các biện pháp hỗ trợ đầu tư theo quy định
của Luật Đầu tư. Bản chất của các chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa cũng là để trợ giúp, giúp đở doanh nghiệp phát triển nhưng sự
khác biệt lớn nhất ở đây là đối tượng hướng tới của các biện pháp hỗ trợ đầu
tư rộng hơn (bao gồm tất cả tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài), còn đối tượng hướng tới của các chính sách trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa hẹp hơn (chỉ bao gồm doanh nghiệp
nhỏ và vừa); điểm khác nhau nữa là ở mục đích của sự giúp đở, nếu như ở hỗ
trợ đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 là để giúp nhà đầu tư ở các giai đoạn
đầu tư, còn mục đích của trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa là để phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa.

1.1.2. Vai trò của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Thứ nhất, Chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tốt sẽ tạo ra một môi
trường đầu tư tốt.
Nói đến hoạt động đầu tư trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, tuy
pháp luật không đưa ra những quy định bắt buộc các nhà đầu tư phải có một
số lượng vốn lớn mới có thể tham gia vào thị trường nhưng có thể nói, lượng
vốn trên thực tế mà một nhà đầu tư có thể đầu tư vào một dự án là khá lớn.
Điều này xuất phát từ thực tế là khả năng tiến hành thành công những dự án
trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay giữa các nhà đầu tư, trước tiên,
cần được đảm bảo bằng khả năng tài chính hùng mạnh của chính bản thân nhà
đầu tư. Bên cạnh việc phải chi một nguồn vốn lớn, đầu tư trong điều kiện hiện
nay, các nhà đầu tư phải chấp nhận vấn đề thu hồi vốn chậm và thời điểm có
thể bắt đầu thu lợi nhuận từ việc đầu tư còn chậm hơn. Từ những đặc điểm

8


này của đầu tư trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại, mối quan tâm hàng
đầu của nhà đầu tư chính là môi trường đầu tư.
Sự lựa chọn môi trường đầu tư mới đầu chỉ dừng lại ở độ tin cậy của môi
trường ấy như về vấn đề an toàn đối với vốn đầu tư, vấn đề ổn định về mặt
chính sách đầu tư để đảm bảo cho nhà đầu tư có thể yên tâm tiến hành dự án,
ít nhất là đến một thời điểm thu được một lượng tiền lãi nhất định. Dần dần,
càng về sau, khi tất cả môi trường đầu tư đều đã cố gắng làm cho nhà đầu tư
tin tưởng thì lựa chọn môi trường đầu tư lại có những điểm mới. Lúc này, các
nhà đầu tư muốn đầu tư và tìm đến những môi trường đầu tư tiết kiệm nhất
các khoản phải chi cho chính các nhà đầu tư. Có nghĩa là, tại những môi
trường đầu tư này, để bù lại sự chậm chạp trong việc thu hồi vốn và có lãi, các
nhà đầu tư sẽ được hưởng một số ưu đãi, hỗ trợ đầu tư mà theo đó, chi phí
trong quá trình đầu tư có thể giảm đáng kể. Môi trường đầu tư tốt là môi

trường có đủ cả hai yếu tố bảo đảm đầu tư và có các chính sách ưu đãi đầu tư
và hỗ trợ đầu tư tốt. Tuy nhiên, một khi yếu tố bảo đảm đầu tư đã là nền tảng
quyết định sự lựa chọn đầu tư thì yếu tố thứ hai, chính sách ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư tốt lại trở nên quan trọng hơn hết trong quá trình cạnh tranh để
thu hút vốn đầu tư vào các địa bàn có môi trường đầu tư khác nhau [2, Tr 99,
100].
Thứ hai, Thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát
triển kinh tế - xã hội.
Khuyến khích đầu tư là để thu hút vốn đầu tư, đây là mục đích lớn nhất
của bất kỳ quốc gia nào khi đặt ra những ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Ở
Việt Nam, đối với đầu tư trong nước, khuyến khích đầu tư có nghĩa là tạo
điều kiện và mời chào các nguồn vốn trong dân cư đổ vào nền kinh tế. Không
chỉ dừng lại ở việc khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các
loại hình doanh nghiệp, Nhà nước Việt Nam còn nhấn mạnh chủ trương

9


khuyến khích các nhà đầu tư vốn vào những địa bàn, lĩnh vực, ngành nghề
trọng điểm, phù hợp với hướng phát triển của cả nền kinh tế. Theo đó, các
doanh nghiệp thuộc đối tượng được khuyến khích hoặc đặc biệt khuyến khích
đầu tư sẽ được hưởng những ưu đãi liên quan đến tài chính, trong đó quan
trọng nhất là được ưu đãi với mức thuế suất thấp, ưu đãi liên quan đến thủ tục
hành chính và các ưu đãi khác. Nhờ chính sách ưu đãi này mà dòng vốn trong
dân cư sẽ đổ vào nền kinh tế, trong đó những địa bàn, lĩnh vực thu hút được
nhiều vốn nhất đó là những địa bàn, lĩnh vực nằm trong danh mục khuyến
khích đầu tư.
Đối với dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, việc đưa ra các
biện pháp khuyến khích đầu tư có ý nghĩa như một trong những động thái
nhằm góp phần cải thiện môi trường đầu tư, tạo ra sức hấp dẫn cho môi

trường đầu tư. Trong bối cảnh hiện nay, các nước phát triển nền kinh tế của
mình không đơn thuần chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước mà chủ yếu là lợi
dụng những nguồn lực dồi dào từ bên ngoài. Không chỉ những nước kém phát
triển, đang phát triển mới cần có đầu tư nước ngoài mà các nước công nghiệp
phát triển cũng rất cần sự hỗ trợ từ nguồn vốn ngoài biên giới quốc gia này, vì
vậy mà vấn đề nước nào có khả năng thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế của
mình trở nên có tầm quan trọng đáng kể. Khuyến khích đầu tư chính là một
trong những biện pháp hữu hiệu nhất để tăng thêm nguồn vốn đầu tư nước
ngoài [2, Tr 104, 105].
Thứ ba, Chính sách ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tạo cho Nhà nước sự
chủ động trong việc cơ cấu nền kinh tế.
Theo quy định, nhà đầu tư muốn được hưởng ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
phải thực hiện hoạt động đầu tư vào những lĩnh vực và những địa bàn cần
khuyến khích đầu tư. Điều này giúp Nhà nước chủ động trong việc phân bổ
các nguồn vốn một cách tự nhiên, trên thực tế thì một sổ ngành nghề, địa bàn

10


rất cần vốn đầu tư để phát triển. Từ những thuận lợi về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư
sẽ khuyến khích các doanh nghiệp cảm thấy hấp dẫn và đầu tư vào những
danh mục trên. Mặc khác, sẽ giúp Nhà nước chuyển dịch được cơ cấu nền
kinh tế một cách hợp lý và phát triển được các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn
luôn trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh nhằm phát triển đồng đều đối với
toàn bộ nền kinh tế nói chung, tạo đà tăng trường bền vững, ổn định, có khả
năng đối chọi được với các biến động khách quan của nên kinh tế - xã hội.
Thứ tư, Tạo ra sự đồng bộ của hệ thống pháp luật đầu tư, phù hợp với
thông lệ quốc tế
Trong những cố gắng có thể hòa nhập được với nền kinh tế thế giới và
khu vực, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầu tư cũng là một đóng góp không

nhỏ. Chỉ riêng nói đến đầu tư nước ngoài, Nhà nước đưa ra các biện pháp
khuyến khích không chỉ có ý nghĩa tạo ra những lợi thế cạnh tranh để thu hút
được nhiều vốn đầu tư so với các nước khác mà thật ra, việc đưa ra những ưu
đãi xét trên một góc độ nào đó, là bắt buộc. Mối một quốc gia đều có những
đối tác thương mại của mình, đó là chưa kể đến xu hướng hiện nay, hầu hết
các quốc gia đều tham gia vào một hay nhiều nhóm hoặc tổ chức mang tính
chất thương mại nào đó. Việc hợp tác quốc tế trên nền tảng thương mại dẫn
đến một loạt vấn đề cần giải quyết trong nội bộ quốc gia, với mục đích đầu
tiên là để quốc gia ấy có thể tiến hành các hoạt động thương mại phù hợp nhất
với tập quán kinh doanh của mình và phù hợp với tiêu chí phát triển chung
của đối tác thương mại quốc tế hoặc của cả nhóm quóc gia mà mình là thành
viên. Một trong những vấn đề cần giải quyết chính là hoàn thiện hệ thống
pháp luật thương mại sao cho vừa đáp ứng được yêu cầu quản lý của mỗi
quốc gia, vừa phù hợp với quy ước của nhóm quốc gia.
Trong bối cảnh đó, khuyến khích đầu tư cũng giống như những vấn đề
khác liên quan đến đầu tư đều cần được hoàn thiện sao cho ranh giới của các

11


vấn đề này giữa các quốc gia hầu như không còn nữa. Như chúng ta đã biết,
hầu như pháp luật về đầu tư của các nước đều có những ưu đãi nhất định dành
cho các nhà đầu tư, vì vậy, xét ở góc độ này thì trong hệ thống quy phạm
pháp luật liên quan đến đầu tư của Việt Nam cũng không thể thiếu các biện
pháp khuyến khích đầu tư. Có thể nói, ưu đãi đầu tư tạo ra sức cạnh tranh cho
mỗi quốc gia trên con đường thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, nhưng cũng
phải nói thêm rằng, ưu đãi đầu tư giúp cho các quốc gia có nhiều cơ hội để gia
nhập các tổ chức thương mại quốc tế lớn, tiến gần hơn đến đích của quá trình
hội nhập kinh tế [2, Tr 109, 110, 111].
1.2. Pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư

1.2.1. Khái niệm pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Hiện nay, khái niệm pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư chưa được
nêu trong các công trình nghiên cứu cũng như trong các văn bản pháp lý một
cách chính thức. Trên cơ sở khái niệm pháp luật và khái niệm ưu đãi đầu tư,
hỗ trợ đầu tư, tác giả cho rằng: “Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là
hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và
được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực của nhà nước”. Từ khái niệm trên ta
thấy pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư bao gồm các đặc trưng chính
sau:
- Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là một lĩnh vực pháp luật mang
tính chất liên ngành của hệ thống pháp luật quốc gia. Các quy định pháp luật
ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư không tập trung ở một ngành luật, nhưng chủ
yếu vẫn thuộc ngành luật kinh tế.
- Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là hệ thống các quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực gắn liền với việc ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của các bên liên quan đến hoạt động ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư

12


cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực thi các quyền,
nghĩa vụ này.
- Pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư được đảm bảo thực hiện bằng
quyền lực nhà nước.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ
đầu tư
Quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là các quan hệ xã hội
phát sinh trong hoạt động ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư được pháp luật điều
chỉnh. Cũng như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư

và hỗ trợ đầu tư được cấu thành bởi chủ thể, nội dung và khách thể.
1.2.2.1. Chủ thể quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Chủ thể quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là cá nhân, tổ
chức đáp ứng được những điều kiện do nhà nước quy định đối với quan hệ
pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư và tham gia vào quan hệ pháp luật đó.
Theo quy định pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư hiện hành, chủ thể
quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư gồm có:
Nhóm 1: Các cơ quan quản lý nhà nước, như: Chính phủ, Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính, UBND các cấp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý
các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế… Đây là
nhóm chủ thể thực hiện quản lý nhà nước về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư.
Tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, đơn vị mà vai trò chủ thể
trong quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư có sự khác nhau.
Nhóm 2: Các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư. Theo quy định tại Khoản
13, 14, 15, 16, 17, Điều 3- Luật Đầu tư năm 2014 thì các tổ chức, cá nhân
tham gia đầu tư được gọi chung là nhà đầu tư, bao gồm nhà đầu tư trong
nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong đó: Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức

13


kinh tế không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông. Nhà đầu
tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp
luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Tổ chức
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài
là thành viên hoặc cổ đông. Tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm: doanh nghiệp, hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh.

Nhóm 3: Tòa án; cơ quan trọng tài. Loại chủ thể này phát sinh trong
trường hợp tổ chức, cá nhân đầu tư có tranh chấp liên quan ưu đãi đầu tư, hỗ
trợ đầu tư.
Có thể nói, cả ba nhóm chủ thể trên đều đóng vai trò quan trọng trong
quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Nếu các cơ quan quan quản
lý nhà nước ở nhóm 1 thực hiện các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động
ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư thì nhóm 2 (các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư)
là đối tượng hướng tới của nhóm 1. Trong trường hợp có sự tranh chấp, khởi
kiện giữa các đối tượng nhóm 1 và nhóm 2 thì chủ thể của nhóm 3 sẽ đứng ra
giải quyết theo các quy định của pháp luật hiện hành.
1.2.2.2. Nội dung quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Nội dung quan hệ pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư các quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật ưu đãi
đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Trong Luật đầu tư năm 2014, không có điều khoản
quy định riêng về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật
về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Tuy nhiên, từ các quy định pháp luật về ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, có thể rút ra một số quyền, nghĩa vụ pháp lý của
các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, như:
Nhà đầu tư có quyền được hưởng các ưu đãi đầu tư và được hỗ trợ đầu tư theo

14


quy định của Luật Đầu tư và các quy định của pháp luật có liên quan; khiếu
nại, tố cáo hoặc khởi kiện tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư theo quy định pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà
nước có quyền thực hiện các quyền quản lý nhà nước đối với hoạt động ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư theo quy định pháp luật. Nhà đầu tư có nghĩa vụ
kinh doanh đúng lĩnh vực, địa bàn đã đăng ký đầu tư; chấp hành các quy định
pháp luật liên quan ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính

đối với Nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo việc
thực hiện các quyền của nhà đầu tư.
Nghiên cứu quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư cho thấy, hiện nay, Luật Đầu tư năm
2014 quy định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm lợi ích của nhà đầu
tư trong trường hợp thay đổi pháp luật là rất lớn. Theo quy định tại Điều 13Luật Đầu tư năm 2014, thì: Trường hợp văn bản pháp luật mới được ban hành
quy định ưu đãi đầu tư cao hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư đang được hưởng
thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định của văn bản pháp luật
mới cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án. Trường hợp văn bản pháp
luật mới được ban hành quy định ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà
đầu tư được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu
tư theo quy định trước đó cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án. Trong
trường hợp thay đổi quy định của văn bản pháp luật vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng,
bảo vệ môi trường, dẫn đến văn bản pháp luật mới được ban hành có quy định
ưu đãi đầu tư thấp hơn ưu đãi đầu tư mà nhà đầu tư được hưởng trước đó thì
nhà đầu tư không được tiếp tục áp dụng ưu đãi đầu tư theo quy định trước đó
cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án, nhưng nhà đầu tư được xem xét
giải quyết bằng một hoặc một số biện pháp, như: Khấu trừ thiệt hại thực tế

15


của nhà đầu tư vào thu nhập chịu thuế; điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự
án đầu tư; hỗ trợ nhà đầu tư khắc phục thiệt hại.
Như vậy, trong trường hợp có sự thay đổi về chính sách hoặc quy định
pháp luật từ phía Nhà nước, quyền lợi tối đa của nhà đầu tư đều được bảo
đảm. Xét ở một góc độ nhất định, rõ ràng Nhà nước đã nhận về phía mình
một số bất lợi và dành cho dành cho nhà đầu tư sự chủ động lựa chọn phương
pháp giải quyết một khi có sự thay đổi về phía Nhà nước. Điều này thể hiện rõ

nét thiện ý và mong muốn của Nhà nước đối với việc thu hút vốn đầu tư trong
và ngoài nước để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy Nhà nước đã sẵn sàng nhận
sự bất lợi về mình khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật, ngay cả khi là
do nguyên nhân khách quan, nhưng đổi lại nhà đầu tư cũng cần phải thể hiện
là nhà đầu tư có trách nhiệm, tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Hiện nay, pháp luật cũng đã có quy định chế tài trong trường hợp nhà
đầu tư có những vi phạm liên quan đến việc thực hiện quy định pháp luật ưu
đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư. Theo Điều 16, Nghị định số 50/2016/NĐ-CP ngày
01/6/2016 về việc ban hành các quy định xử lý hành chính trong lĩnh vực kế
hoạch và đầu tư thì: Nhà đầu tư bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
15.000.000 đồng đối với hành vi không thông báo lại với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền khi không đáp ứng những điều kiện cam kết để được hưởng ưu
đãi đầu tư. Trường hợp kê khai để hưởng ưu đãi đầu tư có vi phạm pháp luật
về thuế thì áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thuế. Nhà đầu tư bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với
hành vi kê khai không chính xác, không trung thực các thông tin cần thiết để
được hưởng ưu đãi đầu tư. Ngoài ra, nhà đầu tư vi phạm còn phải bị buộc
phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là phải hoàn trả những ưu đãi đầu
tư đã được hưởng không đúng quy định. Đó là sự ràng buộc trách nhiệm pháp
lý giữa nhà đầu tư với Nhà nước, nhưng chưa đủ mạnh.

16


Trên thực tế, có nhiều trường hợp đã được ưu đãi đầu tư nhưng nhà đầu
tư tìm cách kê khai gian dối để trốn thuế, chuyển giá, báo lỗ nhưng thực chất
không lỗ để trốn thuế (Ví dụ: Công ty CocaCola Việt Nam) hoặc có những vi
phạm nghiêm trọng khác (Ví dụ: Công ty Fomosa Hà Tĩnh gây sự cố ô nhiểm
môi trường nghiêm trọng). Mặc dù đối với những vi phạm này, nhà đầu tư sẽ
bị xử lý theo quy định pháp luật như những nhà đầu tư khác, nhưng rõ ràng sự

ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý giữa nhà đầu tư với Nhà nước theo
quy định pháp luật hiện hành là chưa tương xứng. Ở góc độ nhà đầu tư được
hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước thì trong trường hợp này,
ngoài việc bị xử lý theo quy định pháp luật như những nhà đầu tư khác, nên
chăng còn bị xử lý truy thu một phần những lợi ích nhà đầu tư được ưu đãi
trong thời gian vi phạm. Điều này chưa được thể hiện trong Luật Đầu tư năm
2014.
1.2.2.3. Khách thể quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư
Khách thể quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư là những lợi
ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những
nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật ưu
đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư, từ đó họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể
trong quan hệ pháp luật ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.
Những ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014 chính là
những lợi ích vật chất mà nhà đầu tư có được khi tham gia vào quan hệ pháp
luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Đối với Nhà nước, những lợi ích mà nhà
nước có được khi tham gia vào quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu
tư, đó là thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, cơ cấu lại nền
kinh tế theo lĩnh vực, vùng miền nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Nhà nước đã đặt ra.

17


Kết luận Chương 1
Trong Chương 1, Luận văn đã tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản về ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư; pháp luật về ưu đãi đầu tư và
hỗ trợ đầu tư, như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, bản chất, làm cơ sở để hiểu
và phân biệt sự khác nhau của hai biện pháp khuyến khích đầu tư này cũng
như để phân biệt hỗ trợ đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư với trợ giúp
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật về trợ giúp

phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời, đi sâu phân tích cấu thành của
quan hệ pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư làm cơ sở để đánh giá thực
trạng pháp luật ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư ở Chương 2 và kiến nghị, đề xuất
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ưu đãi
đầu tư, hỗ trợ đầu tư ở Chương 3.

18


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT
VỀ ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ VÀ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
2.1. Thực trạng pháp luật về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam
Luật Đầu tư năm 2014 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 với
những nội dung kế thừa và khắc phục những bất cập của Luật Đầu tư năm
2005, tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được hưởng ưu đãi đầu tư
khi có dự án đầu tư thuộc lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư; ưu đãi này được
áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng (Khoản 3, Điều 15
Luật Đầu tư 2014). So với Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014 cụ
thể hóa nguyên tắc áp dụng mức ưu đãi, mức ưu đãi sẽ không được qui định
trong Luật Đầu tư năm 2014 mà việc áp dụng được dẫn chiếu đến luật chuyên
ngành: “Mức ưu đãi cụ thể đối với từng loại ưu đãi đầu tư được áp dụng theo
quy định của pháp luật về thuế và pháp luật về đất đai”, đây là điểm tiến bộ
thể hiện sự đổi mới trong tư duy lập pháp. Đồng thời, để khắc phục tình trạng
áp dụng ưu đãi đầu tư một cách tràn lan, Luật Đầu tư năm 2014 bổ sung thêm
tại khoản 4, Điều 15 qui định không áp dụng ưu đãi đầu tư theo tiêu chí địa
bàn đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định của Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt, trừ sản xuất ôtô. Như vậy, so với Luật Đầu tư năm

2005, Luật Đầu tư năm 2014 một mặt tiếp tục kế thừa qui định về nguyên tắc
áp dụng ưu đãi đầu tư của Luật Đầu tư năm 2005, mặt khác phát triển hơn so
với Luật Đầu tư năm 2005 trong việc làm rõ phạm vi của Luật: chỉ quy định
lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư và nguyên tắc áp dụng ưu đãi đầu tư;
mức ưu đãi cụ thể sẽ được qui định trong pháp luật thuế và pháp luật có liên

19


×